Chương Một:
HIỆN TƯỢNG NƯỚC NGA
Nếu hiện tượng Mặt Trời nhẩy múa tại Fatima ngày
13-10-1917, theo Đức Mẹ nói với ba Thiếu Nhi Fatima, Giaxinta, Phanxicô và Lucia
bấy giờ, là để cho mọi người tin (FILOW:161,166,168), th́, hiện tượng Nước Nga
hoàn toàn từ bỏ chủ thuyết và chế độ vào đúng ngày lễ Chúa Giáng Sinh 25-12-1991
cũng chính là một việc Đức Mẹ làm để cho mọi người tin.
Thật ra, so sánh và kết luận như trên có thể sẽ đụng chạm đến một số người chủ
trương rằng, việc Nước Nga từ bỏ chủ nghĩa và đế quốc cộng sản hoàn toàn là một
việc tự nhiên và do tự nhiên. Về phương diện tích cực, Nước Nga từ bỏ chủ nghĩa
và chế độ cộng sản đó là một sự thắng thế bất chiến tự nhiên thành của chủ nghĩa
tư bản là chủ nghĩa bao giờ cũng hợp với quyền lợi và nhân vị của con người
trong xă hội. Về phương diện tiêu cực, đó là một hậu quả cùng tất biến không thể
nào tránh được, tạo nên do sự lỗi thời bẩm sinh và tận cốt lơi của chủ nghĩa
cộng sản Mát-xít, cũng như do sự thất sách ngay từ ban đầu của chế độ cộng sản
Lênít và Stanít.
Chủ trương cho rằng Cộng Sản không sớm th́ muộn, chắc chắn thế nào cũng sụp đổ
như thế cũng không phải là hoàn toàn vô lư. Chính Đức Thánh Cha Piô XI, như một
vị tiên tri, trong thông điệp về Divini Redemptoris ban bố ngày 19-3-1937 đă quả
quyết rằng: “Cộng sản không thể nào và sẽ không bao giờ đạt được mục tiêu của
ḿnh, ngay cả trong lănh vực thuần túy kinh tế” (AC,23). Tại sao? Theo Đức Thánh
Cha, là v́ “tự bản chất cộng sản phản lại tôn giáo” (AC,22), và v́ “cộng sản sai
lầm tự căn bản” (AC,58), nên sẽ phải chịu quả báo bởi “luật tự nhiên và Tác Giả
của nó” (AC,23), thế thôi.
Tuy nhiên, chủ trương rằng hiện tượng Nước Nga hoàn toàn từ bỏ chủ nghĩa và chế
độ cộng sản là một sự thắng thế tất yếu của chủ nghĩa tư bản, một chủ nghĩa bao
giờ cũng hợp với quyền lợi và nhân vị của con người trong xă hội, cũng chẳng chủ
trương rằng, chỉ có chủ nghĩa tư bản mới làm cho con người được ấm no và hạnh
phúc thôi. Thế mà, tại sao, như Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II nhận xét trong
thông điệp Bách Chu Niên (Centesimus Annus): “Chính sách Mát-Xít đă thất bại,
nhưng trên thế giới vẫn c̣n những t́nh trạng tẩy chay và lạm dụng nhau, nhất là
ở khối Thế Giới Thứ Ba, cũng như t́nh trạng lạnh t́nh với nhau, nhất là ở các
nước tân tiến” (CA,42). Phải chăng, là v́, cũng theo thông điệp này, “tư bản” ở
đây không phải “là một đường lối kinh tế biết tôn trọng vai tṛ căn bản và tích
cực về thương mại, thị trường, tư bản, và trách nhiệm hiệu quả đối với những
phương tiện sản xuất, cũng như đối với tự do sáng kiến trong ngành kinh tế” (CA
42)
Vả lại, chủ trương rằng chủ nghĩa cộng sản tự bẩm sinh lỗi thời tận cốt lơi và
chế độ cộng sản thất sách ngay từ ban đầu nên tới ngày tới giờ tự nhiên là “cùng
tất biến”, cũng khó ḷng mà giải đáp được thực trạng hiện nay trong thế giới
cộng sản.
Đó là, trong khi Cuba và Việt Nam là hai nước cộng sản chư hầu, ăn nhờ sống dựa
vào đại quan thày của ḿnh là Nga Sô và các nước anh chị cộng sản ở Đông Âu vẫn
c̣n ngang nhiên tồn tại cho đến bây giờ, lúc những gịng chữ này đang được viết
ra, th́ chính quan thày Nga Sô và các nước cộng sản anh chị ở Đông Âu đă đồng
loạt tự động giải thể và biến thể từ năm 1989.Những diễn tiến về sự kiện sụp đổ
chớp nhoáng đầy ngoạn mục của chế độ cộng sản ở Âu Châu vào cuối năm 1989 đă xẩy
ra hoàn toàn ngoài mọi dự tưởng của những chính trị gia lỗi lạc nhất thế giới.
Không phải hay sao, một chế độ độc tài đảng trị và sắt máu như cộng sản, hầu như,
về phương diện loài người, không ǵ có thể tiêu diệt được nó và chống lại được
sự bành trướng của nó. Thế mà, ngay trong lúc mà cả loài người đang lo sợ v́ nó
đang trở nên một hiểm họa vô cùng nguy hiểm đến vận mệnh cả loài người ở thế kỷ
20 này, th́ tự nó lại quay ra chết “bất đắc kỳ tử”.
Những diễn tiến về sự kiện sụp đổ chớp nhoáng đầy ngoạn mục của chế độ cộng sản
ở Âu Châu vào cuối năm 1989 đă xẩy ra hoàn toàn ngoài mọi dự tưởng của những
chính trị gia lỗi lạc nhất thế giới. Không phải hay sao, một chế độ độc tài đảng
trị và sắt máu như cộng sản, hầu như, về phương diện loài người, không ǵ có thể
tiêu diệt được nó và chống lại được sự bành trướng của nó. Thế mà, ngay trong
lúc mà cả loài người đang lo sợ v́ nó đang trở nên một hiểm họa vô cùng nguy
hiểm đến vận mệnh cả loài người ở thế kỷ 20 này, th́ tự nó lại quay ra chết bất
đắc kỳ tử.
Thật ra, đă có ba điều lạ lùng xẩy ra, đúng hơn, ba yếu tố định đoạt trong biến
cố qua đời của chế độ cộng sản ở Âu Châu này. Thứ nhất, năm 1978, vị Giáo Hoàng
Rôma (Gioan-Phaolô II) được bầu lên xuất thân từ một nước cộng sản. Thứ hai, năm
1980, tổ chức Công Đoàn Liên Đới (Solidarity) được Lech Walesa h́nh thành ở Ba
Lan. Thứ ba, năm 1985, chính sách Cởi Mở (Glasnost) và Cải Tổ (Perestroika)được
tân lănh tụ Mikhail Gorbachev phát động ở Nga Sô.
Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô là yếu tố thứ nhất trong ba yếu tố định đoạt cho
hiện tượng khai tử của chế độ cộng sản Âu Châu.
Biến cố này bắt đầu từ khi Ngài về thăm quê hương của Ngài vào ngày 2-10/6/1979.
Việc Ngài được phép chính quyền cộng sản Ba- Lan cho về thăm quê hương cũng
không phải là chuyện thường. Đầu tiên chính quyền Ba Lan từ chối lời xin phép
của Ngài. Sau đó, chính quyền đă tự nhượng bộ vào ngày 7/5/1979, ngày kết thúc
bảy ngày và bảy đêm liên tục lần chuỗi trước Ḿnh Thánh Chúa được tổ chức ở Đền
Đức Mẹ Czestochowa để cầu nguyện cho việc được phép về thăm quê hương của Đức
Giáo Hoàng. Để rồi, với ảnh hưởng của Ngài, Công Đoàn Liên Đới đă được h́nh
thành.
Timothy Garton Ash, một kư giả người Anh, năm 1990 đă viết: “Chính tháng Sáu năm
1979 là khởi điểm cho cuộc kết liễu của riêng lịch sử Đông Âu... Tôi tin rằng
chuyến công du đầu tiên về Ba-Lan của Đức Thánh Cha là chốt điểm của nó. Chỉ hơn
một năm sau cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha là Công Đoàn Liên Đới ra đời, nếu
không có cuộc viếng thăm này của Đức Thánh Cha, chưa chắc đă có Công Đoàn Liên
Đới. Gương của Công Đoàn Liên Đới là một khai triển tân kỳ. Nó đă đi tiên phong
như là một h́nh thái chính trị mới mẻ ở Đông Âu (và không phải chỉ mới mẻ ở đó
mà thôi): chính trị tự tổ hợp nhằm điều giải cho việc chuyển nhượng của cộng sản”
(CI:57).
Mikhail Gorbachev, nguyên lănh tụ Cộng Sản Liên Sô, cho rằng Đức Thánh Cha
Gioan-Phaolô II đă giữ một vai tṛ rất quan trọng trong việc Cộng Sản Đông Âu
sụp đổ. Trong một bài báo được nhiều tờ báo nổi tiếng trên thế giới đăng tải vào
tháng 3/1992, Gorbachev đă viết: “Những biến cố ở Đông Âu không thể nào xẩy ra
nếu không có vai tṛ quan trọng mà Ngài (ĐTC Gioan-Phaolô II) tự biết phải đóng
vai tṛ như thế nào trong hiện t́nh thế giới... Tôi vẫn tin ở tầm mức quan trọng
nơi những hành động của Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II trong những năm ấy” (FFM
4-6/92:21). Công Đoàn Liên Đới là yếu tố thứ hai định đoạt cho hiện tượng khai
tử của chế độ cộng sản Âu Châu.
Sự lạ thứ nhất là việc chính quyền cộng sản Ba-Lan vào năm 1980 đă công nhận
Công Đoàn Liên Đới, một tổ chức bao gồm chừng 50 nghiệp đoàn của người Ba-Lan,
do Lech Walesa lănh đạo.
Sự lạ thứ hai là, dù bị chính quyền đàn áp vào năm 1981 và dù bị chính quyền
chính thức giải tán vào tháng 10 năm 1982, Công Đoàn Liên Đới vẫn tồn tại cho
đến ngày được tái công nhận là ngày 17- 4-1989. Vẫn biết, theo dư luận báo chí,
Công Đoàn Liên Đới nhận được viện trợ ngầm của Mỹ, có thể nhờ đó mà tồn tại, tuy
nhiên, cũng theo dư luận báo chí, sở dĩ cuộc viện trợ của Mỹ đến được tay Công
Đoàn Liên Đới là v́
chính phủ Cộng Sản Balan bấy giờ cho biết dù "chúng tôi không hài ḷng tí nào về điều này ... Trong một vài
trường hợp chúng tôi đă mhắm mắt làm ngơ, v́ sợ lộ tẩy chân tướng của các tay
trong do chúng tôi gài vào Công Đoàn Liên Đới này" (30 Days 3/92:17). Với các tay
trong của chính quyền cộng sản như thế mà Công Đoàn Liên Đới vẫn tồn tại. Đó mới
là sự lạ, và sự lạ là ở chỗ đó.
Sự lạ thứ ba là Tadeusz Mazowiecki, cố vấn của Công Đoàn Liên Đới, được bổ nhiệm
làm thủ tướng vào ngày 19-8-1989, là một biến cố chưa từng có trong thế giới
cộng sản, làm náo động tận nền móng tất cả chủ nghĩa cộng sản hiện đại, mở màn
cho biến động Đông Âu.
Sự lạ thứ bốn, cũng là sự lạ chính yếu, đó là sự thành công một cách quá ư tốt
đẹp của Công Đoàn Liên Đới, một thành quả gặt hái được, như Đức Thánh Cha
Gioan-Phaolô II viết trong thông điệp Bách Niên (Centesimus Annus) của Ngài, nhờ
“chỉ sử dụng khí giới chân thật và công chính... bởi cuộc tranh đấu bất bạo động
của những con người mà, trong khi nhất định không chịu nhượng bộ trước những thế
lực, liên lỉ t́m kiếm những đường lối hữu hiệu để minh chứng cho sự thật”
(CA:23).
Chính Lech Walesa, đương kim tổng thống Ba-Lan, tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở Nữu
Ước, ngày 14/10/1991, dịp chia sẻ về chủ đề và những nguyên tắc trong thông điệp
Bách Niên(Centesimus Annus) của Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II, đă phát biểu và
diễn thuật về “cuộc tranh đấu bất bạo động”, “cuộc chống đối thuận ḥa”, “cuộc
chống đối làm sụp đổ chủ nghĩa Mát-Xít” như sau: “Hăy nhớ rằng tất cả là mười
triệu người tích cực tham dự. Sự bất măn đă bộc phát ở một mức độ ngoài dự liệu.
Sau mười tám tháng chống đối chính quyền cộng sản mà không cần sô xát như tấn
công ngục Bastilles, không cần dựng nên các đoạn đầu đài, không một mảnh kính bị
đập bể, chúng tôi đă chiến thắng” (CI:57).
Chính sách Cởi Mở và Cải Tổ của Mikhail Gorbachev là yếu tố thứ ba định đoạt cho
hiện tượng khai tử của chế độ cộng sản Âu Châu.
Đối nội, Gorbachev chủ trương hai chính sách: Cởi Mở về tư tưởng và phát biểu và
Cải Tổ về chính trị và kinh tế. Với tinh thần và đường lối này, đối ngoại,
Gorbachev cũng chủ trương Cải Tổ lại tất cả, như rút quân khỏi Afghanistan, cắt
giảm vũ trang nguyên tử và lực lượng quân sự, khuyến khích khối cộng sản Đông Âu
cải tổ chính trị cũng như kinh tế và hứa không can thiệp vào nội bộ cải tổ của
mỗi địa phương. Kết quả là những cuộc bùng nổ thực sự đă xẩy ra ở các nước cộng
sản Đông Âu.
Khởi đầu là Ba-Lan, ngày 4 và 18 tháng 6 năm 1989, đă tổ chức bầu cử tự do, lần
đầu tiên kể từ năm 1947.
Thứ đến là Hung Gia Lợi, ngày 10-9-1989, chính quyền cộng sản đă mở cửa biên
giới cho dân Đông Đức từ ngả nước Áo trốn sang Tây Đức, và ngày 18-10-1989, đă
chấp nhận h́nh thức bầu cử đa đảng.
Rồi Tây Đức, ngày 18-10-1989, đă truất phế lănh tụ cộng sản Erich Honecker, và
ngày 9-11-1989 đă mở cửa biên giới, phá đổ bức tường Bá-Linh, để cho dân tha hồ
tuốn sang Tây Đức; nhất là, vào ngày 7-12-1989, đảng cộng sản Tây Đức đă tự giải
thể và kêu gọi tổ chức bầu cử đa đảng vào tháng 5/1990, để rồi, kết thúc với một
nước Đức thống nhất vào ngày 3/10/1990.
Rồi Bulgaria,ngày 10-11-1989, quyền bính trong tay nhà độc tài Todor Zhivkov sau
35 năm đă bị mất vào tay một nhà cải cách.
Rồi Czechoslovakia, ngày 10-12-1989, một chính quyền vừa cộng sản lẫn không cộng
sản (đa số) đượcthành h́nh, dọn đường cho việc bầu cử tự do.
Rồi Romania, ngày 22-12-1989, lănh tụ Nicolae Ceausescu đă hoàn toàn bất lực
trong việc truyền khiến quân đội và bị tử h́nh ngày 25-12-1989 v́ bị kết tội là
kẻ thù của dân tộc.
Sau hết, ngay tại Liên Bang Sô Viết, tháng 3/1990, một cuộc bầu cử tự do đă được
thực hiện và Gorbachev đă đắc cử tổng thống Liên Bang Sô Viết; ngày 20 và
21/8/1991, nhân cuộc nổi dậy của đảng cộng sản hôm 19-21/8/1991, ba nước cộng
ḥa Baltic là Estonia, Latvia và Lithunia đă tái tuyên bố độc lập (sau lần đ̣i
độc lập thứ nhất vào tháng 3/1990), kéo theo sự thành lập của Khối Thịnh Vượng
Chung vào ngày 21/12/1991 cho 11 trong 12 (trừ Georgia) nước thuôc Cộng Ḥa Sô
Viết.
Phải chăng, sự sụp đổ của Liên Bang Sô Viết và khối Cộng Sản Đông Âu chỉ là khổ
nhục kế của Cộng Sản Nga So<131>? Chính Mikhail Gorbachev, vào tháng 11 năm
1987, đă nói những lời sau đây với các nhân vật trong ủy ban nghiên cứu chính
sách của đảng Cộng Sản: “Hỡi các đồng chí, đừng lo về những điều mà tất cả các
bạn nghe được có liên quan đến chính sách cởi mở và cải cách vào những năm tới.
Những chính sách này chỉ là một nhu cầu đối ngoại mà thôi. Ngoài mục đích đánh
bóng, sẽ không có một thay đổi hệ trọng đối nội nào cả. Mục đích của chúng ta là
giải giới Hoa Kỳ và làm cho họ tưởng bở. Chúng ta muốn đạt được 3 điều là: thứ
nhất, chúng ta muốn lực lượng thỏa hiệp của Hoa Kỳ rút khỏi Âu Châu; thứ hai,
chúng ta muốn khí giới nguyên tử của Hoa Kỳ rút khỏi Âu Châu; thứ ba, chúng ta
muốn Hoa Kỳ bỏ tiến hành Lực Lượng Chiến Lược Pḥng Thủ” (CT: Spring 92).
Những âm mưu thật là thâm độc này của Cộng Sản không phải là không thể có và
không thể xẩy ra. Tuy nhiên, nếu quả thật như vậy th́ họ đă đi một nước cờ quá
liều, đến nỗi, thực tế đă xẩy ra hoàn toàn ngoài tầm kiểm soát và dự tính của họ.
Phải chăng "Họ đă đào hố trước mặt tôi, nhưng họ lại rơi ngay xuống hố họ đào"
(TV 57:7).
Quả thât đường lối Chúa thật khôn ḍ. Ngài không hề phạm đến tự do mà Ngài đă
ban cho con người, thế mà con người vẫn không thể nào đi lệch khỏi những ǵ Ngài
đă định liệu từ trước theo Thượng Trí vô cùng khôn ngoan của Ngài. Thiên Chúa là
chúa tể muôn loài. Chính Ngài, chứ không phải Cesar, không phải Napoleon, không
phải Hítler, không phải Lenin, không phải ai hết... điều hành lịch sử loài người.
Do đó, tât cả những ǵ Ngài đă định liệu, chắc chắc sẽ xẩy ra khi tới thời điểm
của nó.
Phải, thời điểm tận số của cộng sản tại Liên Bang Sô Viết sau 74 năm làm kinh
hoàng chung thế giới và đọa đầy riêng nhân dân Nga, thât sự đă xẩy ra khi tổng
thống Liên Bang Sô Viết Gorbachev từ chức vào chính ngày lễ kỷ niệm Thiên Chúa
giáng sinh 1991, ngày mà các thần trời, hiện thân của ḥa b́nh, như Thiên Thần
Ḥa B́nh, vị hiện ra với 3 Thiếu Nhi Fatima năm 1916, đă từ trời cao xuống giữa
đêm đông âm u rét buốt của trần gian năm xưa ấy, để cùng nhau hợp xướng tung hô:
"Vinh Danh Thiên Chúa trên trời,
B́nh an dưới thế cho người Chúa thương" (Lc 2:14)
Nếu cần, xin xem lại các phần trước: