Thần Đô Huyền Nhiệm Thiên Chúa
(Cuộc Đời Đức Mẹ)
của Nữ Tu Đáng Kính Maria D'Agreda
do Phạm Duy Lễ chuyển dịch, ấn bản 1994,
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, tuyển hợp, 2009-2010
TRƯỚC GIỜ HÀNH QUYẾT
Với hi vọng hão huyền là dẹp yên được cơn cuồng nộ của người Dothái, nên Philatô ra lệnh đánh đòn Chúa Giêsu, và phải đánh cho thật nghiêm thẳng. Thêm vào đó, Luxiphe lúc này đã thất vọng vì không ngăn cản được Chúa khỏi chịu chết nữa, nên hắn cũng muốn cho trận đòn này phải hung tợn hết sức có thể. Hắn thúc đẩy tất cả những ai có thể đều được dự vào trận đánh đòn này.
Người ta chọn sáu tên lính vừa vạm vỡ
vừa tàn nhẫn để đánh Chúa. Chúng đem Chúa vào một sân quen dành để tra tấn tội
nhân bắt chúng thú nhận tội lỗi. Trước hết, chúng lột áo trắng dài Hêrôđê đã mặc
cho Chúa trước, cởi dây và xiềng xích đã lẳn vào cánh tay và cổ tay Chúa, nên
khi cởi ra đã làm nên những vết thương sưng mọng nứt máu. Chúng vừa chửi rủa,
vừa bắt Chúa tự cởi áo ngắn ra, và, khi thấy Chúa cởi ra quá chậm, chúng sấn vào
kéo ra rất mạnh. Chúng cũng muốn cởi nốt cả chiếc quần lót trong, chiếc quần mà
Mẹ Maria đã may cho Chúa hồi lưu ngụ bên Aicập. Nhưng chúng không sao cởi ra
được, tay chúng bị cứng đơ y như bọn lính ở trong hầm nhà Caipha. Tuy nhiên,
chúng không hề cảm xúc vì phép lạ đó; chúng tin đấy là một trò phù thuỷ Chúa
làm. Chúa chỉ cho phép chúng xắn chiếc quần đó lên một chút để chịu đánh cho đau
hơn thôi.
Sau đó, chung quanh có những chiếc cột cao chống đỡ toà nhà, lại cũng có những
chiếc cột thấp bằng đá. Bọn lý hình trói Chúa vào một chiếc cột này. Rồi chúng
chia làm ba bọn, mỗi bọn hai tên, thay nhau đánh Chúa rất hung dữ như chưa từng
thấy bao giờ. Nếu Luxiphe không nhập vào bọn chúng phần nào, con người của chúng
không thể đánh dữ được như thế. Hai tên đầu tiên đánh bằng những roi thừng bện
to thô lỗ, cho tới lúc toàn Thân Chúa phủ đầy những lằn nổi sưng vù bắt đầu chảy
máu. Hai tên này mệt sức, lui ra. Hai tên tiếp theo quất lên mình Chúa những
chiếc roi da cứng; chúng đánh thật mạnh, máu Chúa chảy lênh láng trên khắp mình
Ngài: thân mình Ngài chỉ còn là một vết thương đẫm máu. Máu chảy ròng xuống đất.
Máu bắn dính vào quần áo bọn lý hình. Máu theo roi da vãi đầy mặt đất. Máu bám
đầu roi tung vào khoảng không, rơi xuống như mưa. Hai tên thứ hai mỏi tay, thở
hổn hển lui ra nhường chỗ cho hai tên sau cùng. Hai tên này nhăm nhe những chiếc
gân bò cứng rắn như những cây mây khô, tần ngần đứng ngó thân mình Chúa, không
biết đánh vào chỗ nào. Nhưng rồi chúng cũng sấn vào quất túi bụi những cái quất
vun vút xé thân thể Chúa thành những mảnh thịt, có nhiều mảnh đứt ra, rơi xuống
đất, để lộ những mẩu xương vai. Có những chỗ bằng bàn tay trên mình Chúa không
còn dính thịt. Người ta thấy như là roi biến thành dao xẻo từng mảng thân thể
Ngài. Nếu Satan không xúi giục, không điều khiển bọn lý hình, cho dầu chúng có
dã tâm đến đâu cũng không nỡ làm tội một người đồng loại như thế. Nhưng chưa hết
đâu. Để khỏi bỏ sót một phần thân thể nào của Chúa không bị đòn đập, chúng còn
đánh vào chân, đánh vào tay, đánh lên mặt Chúa, gây nên những đau khổ không một
ai có thể tưởng tượng. Mặt Chúa bị đau đớn nhất, nứt ra, máu chảy từ khắp nơi
xuống che kín đôi mắt, khiến Chúa không còn nhìn thấy gì nữa. Sau cùng, chúng
khạc nhổ đầy đờm rãi bẩn thỉu lên trên mặt Chúa. Số các lằn roi in trên mình
Chúa là 5115 lằn. (((((
Dân chúng đông đảo đứng đầy các sân dinh trấn thủ và các đường phố lân cận, đợi xem công việc kết quả ra sao. Cùng với thánh Gioan và ba bà Maria, Mẹ Maria đứng trong góc sân. Không những Mẹ nhìn thấy qua một thị kiến tất cả những roi đòn đánh trên mình Con Mẹ, mà chính mình Mẹ, Mẹ cũng cảm nghiệm những roi đòn đau đớn ấy y như Chúa. Mặc dầu những roi đòn vô hình ấy không làm cho Mẹ phải chảy máu, nhưng máu cũng hoà nước mắt chảy ra chan chứa. Đau đớn đã làm Mẹ mất hẳn dạng mặt, đến nỗi thánh Gioan và ba bà Maria gần như không còn nhận ra nét mặt Mẹ nữa. Còn nỗi đau khổ trong linh hồn Mẹ, làm sao nói cho hết được? Chỉ ở trên trời, khi hiểu được Thần Tính Thiên Chúa, ta mới có thể hiểu được. Ở trên đó, Thiên Chúa mới tỏ những đau khổ ấy ra, để vinh danh cả Chúa Giêsu và Mẹ Maria.
Sau khi đánh Chúa, bọn lý hình cởi trói cho Chúa ra khỏi cột đá cách xấc xược hết sức, chúng vừa chửi mắng vừa ra lệnh cho Chúa phải mặc áo vào. Nhưng một tên lính bị quỷ xúi bẩy đã đem giấu áo đi một nơi để Chúa phải chịu xấu hổ hơn. Thấy ác tâm hoả ngục đó, Mẹ Maria truyền cho Luxiphe và chúng quỷ phải ra khỏi sân dinh trấn thủ, và bảo các thiên thần lấy áo mặc cho Chúa Giêsu. Bọn lính ngẩn ngơ trước sự kiện chiếc áo không biết từ đâu bay đến mặc vào thân thể Chúa; chúng chỉ cho đó là tà thuật. Lúc ấy, Chúa Giêsu rất cần mặc áo vào, vì trời lạnh lắm, những dấu máu gặp lạnh đã se cả lại, nên Chúa cảm thấy rét run lên. Nhưng tình thương bao la của Ngài còn muốn chịu đau khổ hơn nữa.
Chúa không phải đợi chờ lâu mới được chịu đau khổ mong mỏi ấy. Người Dothái rất căm thù Chúa. Không sao dằn nổi, họ tìm ra một hình khổ mới để hành hạ Chúa, một hình khổ vào hạng khốn cực nhất trong cuộc Tử Nạn của Ngài. Họ đến gặp Philatô trong dinh mà bẩm: "Tên bịp bợm đó đã muốn dùng ảo thuật để người ta tôn hắn làm vua chúng tôi. Vậy xin ngài trấn thủ cho phép chúng tôi lấy nghi lễ oai vệ mà đãi hắn, để phạt cái tội kiêu căng ấy của hắn". Được viên trấn thủ cho phép, chúng đem Chúa Giêsu vào dinh phủ, sỗ sàng lột áo Ngài ra, khoác cho Ngài một áo choàng mầu đỏ vừa rách nát vừa bẩn thỉu, để làm trò cười cho mọi người. Chúng đặt trên đầu Ngài một vòng triều thiên, kết khéo léo bằng những cành gai đầu nhọn hoắt rất bén và rất cứng. Chúng ấn mạnh xuống hết sức, nhiều chiếc gai cứng như sắt cắm ngập vào đến óc, lọt xuống đến tai, thấu đến tận mặt. Giả là vương trượng, chúng bắt Ngài cầm một que sậy, và quàng vào vai Ngài một tấm vải tím, y như một vị hoàng đế khoác tấm long bào của ông để tỏ biểu hiệu hoàng đế của mình.
Toàn thể cơ đội lính tập hợp cả lại trước mắt các vị trưởng tế và các đảng viên biệt phái. Chúng đẩy Chúa vào giữa họ, hò la cười nhạo Ngài với một giọng chế riễu sống sượng: "'! Vua Dothái! Tụi tao tấu lạy nè!" Rồi chúng giả bộ quỳ gối trước mặt Ngài, đun đẩy Ngài; có kẻ còn vả trên mặt Ngài; kẻ lấy cán dáo thúc vào Ngài; kẻ giật lấy que sậy đập lên đầu Ngài; kẻ khác lại khạc đờm nhổ vào miệng Ngài. Tên nào cũng rán sức nhục mạ Ngài không thể nói hết.
Thấy Chúa Giêsu lâm vào một tình trạng đáng thương như thế, Philatô ngờ rằng lòng những kẻ thù không đội trời chung với Ngài có thể xúc động. Ông đem Ngài lên trình bày với dân chúng trước cửa sổ cao dinh trấn thủ mà nói: "Người đây này! Con người mà thế này đây! Con người đã tiều tuỵ đến nỗi này mà các ngươi còn sợ nỗi gì?" Nhưng không hề xúc động chút nào, bọn dân chúng vô tâm ấy thét lên, không còn coi công lý ra cái gì nữa: "Đả đảo! Đả đảo! Đem đóng đanh nó vào thập giá!"
Nhìn thấy Chúa Giêsu trong thảm trạng ấy, Mẹ Maria vội vàng sấp mình, cúi rạp đầu xuống đất thờ lạy Chúa là Thiên Chúa mình. Các thiên thần hầu cận Mẹ, thánh Gioan và ba bà Maria cũng theo gương Mẹ, sấp mình thờ lạy Chúa. Trong khi đó, Mẹ nói với Cha hằng hữu và nhất là với Con của Mẹ về những sự kiện rất cao cả, đầy tôn kính và cảm thương, chỉ có thể từ một Trái Tim rực lửa mến yêu thuần tuý nhất như Trái Tim của Mẹ Maria mới có thể xuất phát ra được. Lúc nào cũng băn khoăn đến danh dự của Chúa Giêsu, Mẹ lại cầu nguyện để Philatô nhìn nhận Chúa là Đấng vô tội, mặc dầu ông ta có lên án Chúa.
Nhờ hiệu lực lời cầu nguỵên ấy, viên trấn thủ hèn nhát đó phàn nàn vì đã truyền đánh đòn Chúa một cách dã man quá mức. Ông ta nỗ lực cứu Chúa khỏi chết. Ông ra nói với người Dothái: "Bản chức không thấy người này có tội nào cả". Người Dothái lớn tiếng cãi lại ông: "Cứ chiếu theo luật của chúng tôi, nó phải chết. Nó dám tự nhận mình là Con Thiên Chúa".
Trước lời đó, Philatô càng thêm lo sợ. Là dân ngoại, ông quan niệm Thiên Chúa là một Vị thần nào đó. Ông đưa Chúa vào trong dinh, nói với Chúa một câu truyện riêng làm lương tâm ông xao xuyến: Chúa không nói lời nào với ông. Cho tới lúc ông gằn giọng quyền thế ra mà nói là ông có quyền giết và có quyền tha cho Chúa, Chúa mới đáp lại: "Nếu Ơn Trên không ban cho ông, ông chẳng có quyền gì trên tôi cả. Vì thế, kẻ nào nộp tôi vào tay ông, kẻ đó nặng tội hơn ông". Lời Chúa nói này càng làm ông hoảng hốt: Ông lại đưa ra những cố gắng sau cùng để tha Chúa. Nhưng người Dothái đã biết ý ông, và nhất là đã nắm được nhược điểm của ông là hèn nhát, sợ uy quyền, họ ầm ầm đánh vào nhược điểm đó: "Nếu ngài trấn thủ tha cho tên này, ngài sẽ thất sủng với hoàng đế Rôma. Kẻ nào tự xưng làm vua, kẻ đó là đối thủ của hoàng đế".
Philatô kinh hồn vì lời đe doạ nham hiểm này. Rốt cuộc, ông đành nhượng bộ người Dothái. Ông cho làm án xử tử Chúa Giêsu và lên chỗ gọi là Gabbatha (Hi ngữ là Lithostrotos) mà tuyên án ấy. Hôm đó, là ngày dọn mừng lễ Vượt Qua. Đại ý của bản án đó là: Giêsu Naxarét tự xưng mình là Con Thiên Chúa, là vua Israel: Hắn đã toan phá Đền Thờ, cấm nộp thuế cho hoàng đế Rôma, sách động dân chúng khắp nước để chống lại quyền bính của Hội Đồng Cộng Toạ, dùng phù phép ảo thuật mê hoặc nhiều người..., theo lời vu khống của các trưởng tế. Phải đóng đanh hắn vào thập giá giữa hai tên ác phạm tử tội. Hắn phải vác thập giá ấy lên đồi Golgôtha, nơi quen xử những tội nhân đại ác, mà chịu cực hình. Trên đầu thập tự phải đề bảng bằng ba thứ chữ là La-tinh, Hi-lạp và Hi-bá câu: GIÊSU NAXARÉT VUA DO THÁI. - Bản án này vừa được thông tri khắp mọi ngả trong thành Giêrusalem, người ta dẫn Chúa vào. Chúa vẫn bị trói và vẫn mang y phục "vua hề" sau khi chịu đội vòng gai. Người Dothái muốn bêu nhục Chúa hơn nên đã lột bỏ áo đó, bắt Chúa mặc lại chính áo của Ngài quen mặc cho mọi người biết đó là Chúa, vì diện mạo Ngài đã tan nát, chỉ còn có thể nhận ra Ngài qua y phục quen thuộc độc nhất ấy của Ngài thôi. Nhưng chiếc áo đan liền ấy lại bị bọn lính vất ở trong sân phủ, nên các thiên thần, theo lệnh Mẹ Maria, đã mang đến một cách mầu nhiệm. Người Dothái không ai nhận ra phép lạ ấy: vì chúng còn mải lo sắm dụng cụ cần để đóng đanh Chúa Giêsu.
Từ khắp các ngả đường trong thành, qua bản án được thông tri, người ta kéo nhau đông như nước chảy về phía dinh trấn thủ và đồi Golgôtha, để xem cuộc hành quyết Chúa. Hầu như mọi người đều xem thường Chúa. Thân thể Ngài, máu phủ kín đã khô cứng lại, chỉ còn như là một vết thương lớn. Mẹ Maria nhiều lần sai thiên thần đến lau mặt cho Chúa, nhưng rồi bọn lý hình lại khạc nhổ vào, đờm rãi lẫn với máu, biến gương mặt Chúa nên một cái bình nhổ thật kinh hãi.
Thoạt vừa nhìn thấy Chúa xuất hiện, những tiếng ồn ào nhốn nháo ầm ầm nổi lên, chẳng phân biệt được ai nói ai nghe. Các trưởng tế và đảng viên Biệt phái khoái chí tỏ hết niềm hân hoan vì cái thắng cuộc đại ác của họ. Họ yêu cầu giữ im lặng để đọc lại bản án bất công họ đã mưu mô lừa được viên trấn thủ hèn nhát Philatô kết án Chúa. Những thân nhân, bạn bè và những người chịu ơn lạ của Chúa Giêsu khóc xướt mướt; nhiều người có cảm tình với Chúa đứng ngây ra như lạc mất hết hồn phách. Thánh Gioan và ba bà Maria đau đớn quá, ngất lịm ngã xuống đất. Chỉ có một mình Mẹ Maria là Mẹ can đảm phi thường, dầu rất đau đớn nhưng rất bình tĩnh vô địch. Không thấy nơi Mẹ tỏ ra yếu đuối nhát đảm như những người khác. Mẹ còn cấp cứu họ khỏi cơn ngất xỉu nữa, và cầu xin Thiên Chúa giúp sức đủ cho họ để họ cùng đi với Mẹ cho tới lúc chấm dứt cuộc Tử Nạn của Chúa. Quả thật, Mẹ đã không ngớt khóc vì quá đau khổ, nhưng lúc nào Mẹ cũng bình tĩnh cao quý. Hợp nhất với Con Mẹ, Mẹ dâng tất cả những đau khổ ấy lên Thiên Chúa Cha, để cầu cho các thân hữu và cả thù địch của Mẹ. Tất cả các nhân đức của Mẹ đều trở nên tràn đầy trong lúc ấy, làm cho các thiên thần phải thán phục và Thiên Chúa rất hài lòng.
LỜI MẸ HUẤN DỤ
Hỡi con, con ngạc nhiên vì người
Dothái quỷ quyệt cứng lòng và Philatô non gan đáng tội. Nhưng, để Con Mẹ phải
chịu cái chết nhục nhã mà các tiên tri đã báo trước, Ngài lại không bị người ta
hành hạ sao được? Đó chính là tội họ, vì họ chống cưỡng ân sủng, chứ Thiên Chúa
không chọn họ để làm các việc ấy, vì Ngài muốn hết mọi người đều được cứu rỗi.
Sao thì sao, tất cả các chi thể trong Diệu thân mà Chúa Giêsu là đầu, Diệu thân
gồm nên bởi những người công chính và được tiền định, cũng phải chia phần số
phận của Chúa. Và trong số họ, cũng có những người tội lỗi và phải trầm luân.
Nhưng số phận của mỗi người cũng tuỳ ở lòng tốt hay lòng dữ của họ nữa.
Cho nên, hỡi con, trước mặt Thiên Chúa và trước mặt Mẹ, con hãy lựa chọn. Thủ lãnh của con đã chịu bạc đãi nhuốc nha như thế, mà con muốn sống trong khoái lạc của trần tục có hợp lý không? Quả thật, Thiên Chúa có thể phung phát của cải trần gian cho những ai Ngài tuyển chọn lắm, nhưng nếu thế rất có thể họ lại coi sự được thoả mãn nơi của cải trần gian làm hạnh phúc, mà bỏ mất sự khắc khổ trên đường nhân đức và không khát vọng nước trời nữa.
Tâm Sự của Chúa Giêsu về Biến Cố Bị Xét Xử và Hành Hình ở Dinh Tổng Trấn Philato (tiếp)
(Đaminh Maria cao tấn tĩnh, BVL, soạn dịch theo cuốn "Đường Lối của Tình Yêu Thần Linh" mà Tiếng Việt có tập sách chuyển dịch đặt tên là "Tiếng Gọi Tình Yêu")
Josefa ơi, con có trông mong Cha không vậy? Cha đã có mặt ở đây một lúc rồi mà
con không thấy Cha. Hãy hôn đất và hôn chân Cha đi. Chúng ta sẽ làm cho các linh
hồn hiểu họ đã bị kiêu căng lừa dối ra sao.
Đội triều thiên gai và khoác áo điều, Cha được quân lính dẫn về lại cho Philatô
giữa những dồn dập xỉ nhục và chửi rủa... Không tìm thấy Cha phạm tội ác đáng
chết, quan lại thẩm vấn Cha và hỏi Cha tại sao Cha không đáp lại, khi thấy rằng
quan có quyền đóng đanh Cha hay thả Cha ra.
Bấy giờ, không giữ im lặng nữa, Cha nói: "Quan chẳng có quyền gì trên Tôi cả,
nếu từ trên không ban cho quan, nhưng những lời Kinh Thánh phải được ứng
nghiệm". Sau đó, Cha lại lặng thinh, hoàn toàn phó mình cho Thiên Chúa.
Trong khi đó, bị bối rối bởi lời nhắn của vợ, và bị lo âu vì lương tâm day dứt,
cũng như sợ rằng có thể bị dân chúng quay ra chống đối mình, nếu không chịu lên
án tử Cha, quan đã tìm lý do chính đáng để thả Cha ra. Bởi vậy, khi đem Cha bị
hành hình trở nên thảm thương như thế trước dân chúng, quan đề nghị thả
Cha mà xử tội tên trộm Baraba thay Cha. Thế nhưng, đám đông căm tức đồng thanh
la ó: "Giết hắn đi!... Hắn phải chết và thả Baraba ra".
Ôi, tất cả các con là người yêu mến Cha, hãy coi Cha đã bị sánh ví với một tên
trộm như thế đó..., hơn thế nữa, Cha bị đánh giá còn tệ hơn là một tên tội phạm
hạ cấp, một kẻ bại hoại nhất loài người. Hãy nghe những tiếng la ó lồng lộn lên
phản lại Cha, và những kêu gào cực lực đòi giết chết Cha cho bằng được.
Thay vì tìm cách thoát khỏi cảnh bị đem ra bêu nhục này, Cha vui lòng chấp nhận
nó vì yêu thương các linh hồn, vì yêu thương các con..., mong chứng tỏ cho các
con thấy rằng tình yêu của Cha đã đưa Cha, chẳng những đến chỗ chết mà còn đến
chỗ bị khinh bỉ, bị nhục nhã và bị thù ghét bởi ngay những người mà Cha phải
tuôn đổ Máu Cha ra như thế.
Cha bị xử đối như một tên gây rối loạn, như mất trí, như một người điên, và Cha
chấp nhận tất cả một cách hết sức hiền lành và khiêm hạ.
Các con nghĩ là, theo bản tính tự nhiên của mình, Cha không cảm thấy ô nhục và
sầu khổ ư? ... Cha có ý muốn cảm nghiệm tất cả những gì mà các con phải chịu, để
nhờ gương của Cha, các con có thể mạnh mẽ mà sống trong mọi hoàn cảnh của cuộc
đời mình. Bởi thế, dù có dễ thoát thân, Cha cũng không muốn làm, Cha đã vui lòng
chấp nhận tất cả, để nhờ thế mà được tăng sức, các con hiểu được thế nào là hy
sinh mọi ương gàn để hoàn tất thánh ý của Thiên Chúa, Cha của Cha..., bù đắp lại
vinh quang của Người..., bù lại các tội lỗi thế gian và chiếm lấy phần rỗi cho
nhiều linh hồn.
Đây, một lần nữa, Cha ngỏ lời với các linh hồn Cha đã nói với hôm qua. Các con
là những linh hồn được kêu gọi sống một cuộc đời trọn lành, những linh hồn dùng
dằng với ân sủng rồi đáp lại như thế này: làm sao tôi có thể liên lỉ sống trong
bóng tối?... Tôi không quen với nếp sống đó..., với việc làm thấp hèn như
thế..., gia đình tôi và bạn bè của tôi sẽ cười vào mặt tôi..., vì tôi là một
người tài giỏi có thể hữu dụng hơn ở một nơi khác, v.v."
Cha đáp lại các con như thế này: "Khi Cha được sinh ra bởi cha mẹ nghèo nàn thấp
kém..., xa quê quán nhà cửa..., trong một chuồng thú vật..., vào một mùa kinh
khủng nhất năm, và vào một đêm lạnh lẽo nhất..., Cha có ngần ngại hay không? Cha
có chối từ hay không?
Trong 30 năm, Cha quen làm công việc vất vả trong một xưởng thợ thầm lặng, chịu
những người được dưỡng phụ Giuse của Cha phục vụ khinh khi và vô tình... Cha
cũng không coi thường những công việc thường hèn kín đáo trong gia cư nghèo nàn
khi giúp đỡ Mẹ của Cha. Cha hồi 12 tuổi đã giảng dạy các vị Tiến Sĩ trong Đền
Thờ, lại không dư hiểu biết về công việc làm ăn của một người thợ mộc hay sao?
Thế nhưng, ý muốn của Cha Cha là như thế, do đó, theo đường lối này mà Cha đã
làm vinh danh Cha của Cha...
Từ khi bắt đầu Cuộc Đời Công Khai, Cha đã có thể tỏ ra ngay Cha là Đấng Thiên
Sai và là Con Thiên Chúa, để nhờ đó lôi kéo chú ý và kính trọng của người ta vào
giáo huấn của Cha. Cha đã không làm như vậy, vì ước vọng duy nhất của Cha là làm
theo tất cả mọi sự Cha của Cha muốn.
Khi giờ Khổ Nạn của Cha điểm, hãy xem Cha lại càng ôm chặt lấy thánh ý ấy, bất
chấp người này làm khổ, kẻ khác nhục mạ, môn đồ bỏ rơi, đám đông bội bạc...,
cuộc tử đạo khôn tả nơi thân xác của Cha, và cuộc phản kháng kịch liệt nơi bản
tính tự nhiên của Cha.
Cũng thế, khi các con quảng đại thuận phục bản thân cho ý muốn của Thiên Chúa,
bất chấp nội tâm theo tự nhiên kháng cự lại..., gia đình cản trở..., thế gián
phán đoán..., nếu các con quảng đại hiến mình cho ý muốn của Thiên Chúa, bấy giờ
các con sẽ được kết hợp chặt chẽ với Người, và được nếm hưởng ngọt ngào vời vợi.
Điều Cha đã nói với các linh hồn cảm nghiệm được nỗi chống cưỡng sâu xa đối với
đời sống thường hèn kín ẩn, Cha cũng lập lại cho những linh hồn ngược lại được
kêu gọi trong việc dấn thân phục vụ thế gian, khi mà tất cả lòng hâm mộ của họ
chỉ muốn sống thanh lặng và làm việc âm thầm.
Các linh hồn tuyển chọn ơi, hạnh phúc của các con và sự trọn lành của các con
không hệ tại việc làm theo lòng hâm mộ của các con, không ở trong đời sống được
thế gian biết đến hay vô danh tiểu tốt, trong việc sử dụng hay dấu đi các tài
năng mà các con được phú bẩm, trong việc được nghĩ đến nhiều hay ít..., trong
việc được khỏe mạnh hay không..., mà là và chỉ là ở tại việc yêu mến ôm ấp ý
muốn của Thiên Chúa, và nên trọn lành với ý muốn của Người trong tất cả những gì
ý của Người muốn nơi các con, cho vinh hiển của Người cũng như cho việc nên
thánh của các con.
Josefa ơi, hôm nay như thế là đủ rồi' ngày mai chúng ta sẽ tiếp. Hãy yêu mến và thực thi ý muốn của Cha cách hăm hở và hân hoan, vì ý muốn của Cha phác định cho con đường lối mến yêu trong tất cả mọi sự.
Chúng ta hãy trở lại Cuộc Thương Khó.
Hãy suy trong chốc lát về cuộc tử đạo của Trái Tim yêu thương êm ái tuyệt vời
nhất của Cha, khi Cha thấy rằng Baraba được coi trọng hơn Cha, và khi thấy mình
bị khinh bỉ quá sức, Cha cảm thấy tái tê nhức buốt là chừng nào trước những
tiếng la hò của đám đông đòi giết Cha.
Cha mường tượng lại những châm sóc dịu dàng của Mẹ Cha, khi người ép Cha vào
ngực của người..., những công khó của dưỡng phụ Cha, và sự coi sóc mà dưỡng phụ
đã bao bọc cuộc đời của Cha.
Cha ôn lại trong tâm trí những phúc lộc mà Cha trào đổ xuống trên đám dân bội
bạc này... Cha đã làm những gì cho người mù được thấy..., bệnh nhân bình
phục..., què quặt được lành..., Cha đã làm những gì để nuôi đám đông trong sa
mạc..., ngay cả việc làm cho kẻ chết sống lại..., mà coi kìa, giờ đây, Cha đã
trở nên một thứ kinh tởm là chừng nào..., càng đáng ghét hơn nữa, có lẽ còn đáng
ghét hơn bất cứ một người đáng ghét nào..., bị lên án tử như một tên trộm tệ hại
nhất..., đám đông đòi Cha phải chết... Philatô bấy giờ đã tuyên án. Hỡi tất cả
các con là những linh hồn yêu mến Cha, hãy chú tâm mà nhìn xem những khổ đau của
Trái Tim Cha!
Sau vụ phản bội trong Vườn Cây Dầu, Giuđa lang thang bất định, một con người
trốn lánh, một con mồi bị lương tâm gặm nhắm, oán trách về những phạm thánh xấu
xa nhất. Rồi khi hắn nghe thấy rằng Cha bị lên án tử, hắn hoàn toàn tuyệt vọng
và tự treo cổ.
Ai có thể lường được Trái Tim Cha đớn đau mãnh liệt và sâu xa là chừng nào, khi
thấy linh hồn này được tình yêu dạy dỗ lâu dài như thế..., con người nhận lãnh
giáo huấn của Cha, một con người thường được nghe môi miệng Cha nói về lòng thứ
tha đối với những tội ác xấu xa nhất, cuối cùng lại gieo mình vào lửa hỏa ngục?
A! Giuđa ơi, tại sao con lại không gieo mình xuống dưới chân Thày, để Thày có
thể tha thứ cho con? Nếu con sợ đến gần Thày, vì nhóm người man dợ đang bủa vây
chung quanh Thày, thì ít là con hãy nhìn vào Thày... Đôi mắt của Thày sẽ bắt gặp
đôi mắt của con, ngay cả cho đến lúc này đây, đôi mắt của Thày vẫn âu yếm
chú ý đến con.
Ôi, tất cả các con là những linh hồn đã bị lún sâu trong tội, và những người,
hơn một lần, không dài thì ngắn, đã sống như những kẻ hoang đàng và trốn lánh vì
những tội ác của mình..., nếu những xúc phạm mà các con lầm lỗi làm cho lòng các
con cứng cỏi và mù loà..., nếu việc để cho các đam mê này nọ làm các con chìm
đắm vào những con đường gian ác... A! khi nào những động lực hay những đồng chí
phạm tội bỏ mặc các con, và các con nhận ra tình trạng linh hồn mình, Ôi, lúc
bấy giờ các con đừng nản lòng tuyệt vọng! Vì bao lâu còn hơi thở, người ta vẫn
có thể chạy đến kêu cầu tình thương mà xin ơn tha thứ.
Nếu các con còn trẻ, mà những gương xấu của đời sống các con đã hạ thấp các con
xuống trước con mắt thế gian, thì đừng sợ hãi... Ngay cả trường hợp có lý do để
xử với các con như một tội phạm, nhục mạ và loại trừ các con đi nữa... Thiên
Chúa của các con cũng không muốn thấy các con rơi vào lửa hỏa ngục... Ngược lại,
Người nóng lòng muốn các con đến với Người để Người có thể thứ tha cho các con.
Nếu các con sợ thân thưa với Người, thì ít là hãy nhìn lên Người và hãy để cho
những nỗi lòng của các con chạm đến Người, lập tức, các con sẽ thấy bàn tay nhân
ái từ phụ của Người giơ ra dẫn dắt các con đến với những mạch nguồn thứ tha và
sự sống.
Nếu trường hợp xẩy ra là các con đã trải qua một phần lớn cuộc đời trong vô đạo
và vô tâm, thế rồi, đùng một cái, giờ chết đến làm cho các con đầy tối tăm thất
vọng... A! các con đừng để mình bị mắc lừa, vì còn thời gian là còn được tha
thứ. Dù chỉ còn một tích tắc cho các con sống, thì trong giây phút duy nhất ấy,
các con cũng có thể mua lại cho mình sự sống đời đời rồi!
Nếu cả đời các con đã trôi qua trong vô thức và lầm lạc..., nếu các con đã trở
nên căn nguyên gây ra đại ác cho các người khác, cho xã hội nói chung, hay cho
tôn giáo, mà nhờ một cảnh ngộ trong những trường hợp nào đó, các con nhận ra
rằng các con đã bị lừa dối..., thì đừng để mình bị giầy vò đè bẹp bởi sức nặng
của các tội lỗi mình, và của việc làm gian ác mà các con là công cụ' nhưng, với
một tâm hồn sâu xa ăn năn thống hối, hãy gieo mình xuống vực thẳm cậy trông và
hãy mau chạy đến với Đấng đang chờ chực các con trở về, chỉ để tha thứ cho các
con thôi.
Trường hợp cũng tương tự như thế, đối với một linh hồn đã trung thành giữ lề
luật Cha từ tấm bé, nhưng dần dần trở nên nguội lạnh, rơi vào tình trạng ương
dở, và đi vào những đường nẻo lỏng lẻo của một đời sống dễ chịu. Phải nói rằng,
linh hồn này đã quên mất bản thân mình và những hứng thú cao qúi của mình. Thiên
Chúa cần những cố gắng lớn hơn nữa của linh hồn này, nhưng bị mù lòa bởi những
sa ngã theo thói quen, linh hồn lại rơi vào một tình trạng ương ương dở dở còn
tệ hơn cả tội lỗi thật sự, vì lương tri của linh hồn này bị say xẩm và điếc lác,
không còn cảm thấy hối tiếc gì cả, hay còn nghe được tiếng của Thiên Chúa nữa.
Bấy giờ, có lẽ, linh hồn này thức tỉnh khi nhận thức được đánh động bằng một đời
sống như thể thất bại, trống rỗng và vô bổ cho phần rỗi của mình... Linh hồn đã
làm mất đi vô số ân sủng, và tên gian ác, không để mất linh hồn, làm cho linh
hồn hết sức ê chề, dìm linh hồn vào thất đảm, buồn phiền và chán chường..., cuối
cùng đẩy linh hồn vào sự sợ hãi và tuyệt vọng.
Ôi linh hồn Cha yêu thương, đừng để ý đến kẻ thù dã tâm này..., song hãy chạy
đến kêu cầu cùng Cha sớm bao nhiêu có thể, và với một tấm lòng đầy những xót xa
sâu thẳm nhất, hãy van xin lòng thương của Cha, đừng sợ gì cả. Cha sẽ tha thứ
cho con. Hãy bắt đầu cuộc sống ân phúc của con, con sẽ lấy lại được những công
nghiệp đã mất của con, ơn Cha sẽ không bao giờ làm con thất vọng.
Sau hết, Cha nói với các linh hồn tuyển chọn của Cha được không? Giả sử một linh
hồn đã sống nhiều năm trong việc liên lỉ thực thi Lề Luật và các bổn phận tu trì
của mình..., một linh hồn được phúc nhờ các ơn Cha ban và được hướng dẫn bỡi các
huấn dụ của Cha..., một linh hồn trung thành nghe tiếng Cha, và với những linh
hứng của ân sủng..., mà nay linh hồn này đã nguội lạnh theo lòng hâm mộ
của linh hồn, hướng chiều về một vài đam mê nào đó..., những dịp lỗi lầm
không tránh né..., một chiều theo nào đó cho những đòi hỏi của bản tính tự
nhiên, và cho việc tạm nghỉ cố gắng..., mà hậu quả là, linh hồn bị rơi xuống một
mức độ thấp kém hơn..., xuống một thứ đời sống tầm thường..., để rồi, cuối cùng
là hâm hâm dở dở đúng nghĩa của nó. Nếu vì một nguyên nhân này hay nguyên do
kia, con thức tỉnh từ tình trạng ù lì này, ma qủi lập tức tấn công con bằng mọi
cách, giành giật một linh hồn mà hắn mong chiếm được. Hắn sẽ cố gắng thuyết phục
các con là quá trễ mất rồi và cố gắng cũng bằng thừa, hắn sẽ gia tăng lòng chống
đối của con về việc dứt khoát với tình trạng linh hồn các con..., tức là hắn sẽ
đè nén không để các con nói năng hay nhận được ánh sáng... Hắn sẽ làm hết sức để
dập tắt niềm tin tưởng và cậy trông trong linh hồn các con.
Thế nhưng, tốt hơn hãy lắng nghe tiếng của Cha, và hãy để Cha cho con biết cách
hành động: Vừa khi linh hồn các con chạm được ân sủng, và trước khi cuộc giằng
co xẩy ra, hãy mau mắn đến với Trái Tim Cha' van xin Cha nhỏ xuống hồn con một
giọt Máu của Cha... A! hãy mau đến với Trái Tim Cha..., và đừng lo về quá khứ'
tất cả đều đã được vực thẳm của tình thương Cha nuốt hết mất rồi, và tình yêu
của Cha đang sửa soạn những ân sủng mới cho con. Hồi niệm về những sa sút của
con sẽ là một khích tố để con tự hạ và là một nguồn công phúc cho con, vì con
không thể dâng cho Cha một chứng cớ mến thương nào to lớn hơn là tin cậy vào
việc thứ tha trọn vẹn của Cha, và tin rằng các tội lỗi của con sẽ không bao giờ
to lớn hơn được lòng thương xót của Cha, một lòng xót thương vô cùng bất tận.
Josefa ơi, hãy sống ẩn thân trong vực thẳm của tình yêu Cha, nguyện cầu cho các linh hồn được tràn đầy cũng những cảm nhận này.