“Ánh Sáng và Bóng Tối” trong
Lịch
Sử Giáo Hội Việt
“L |
ịch sử luôn pha lẫn
ánh sáng và bóng tối, cũng như đời sống
những người con của Chúa vẫn có cả ân
sủng và tội lỗi”.
Trên đây là lời Thư
Chung của Hội Đồng Giám Mục Việt
Thời điểm cho
“những vấn đề của lịch sử của đạo
Thiên Chúa ở Việt Nam được khơi dậy và
trở thành đề tài nghiên cứu cho các nhà sử
học và khoa học xă hội khi Ṭa Thánh Vatican chủ
trương phong Thánh tử đạo cho 117 vị Chân
phước đă qua đời từ trước tháng
7-1862 và đă được Giáo hội tuyên phong qua
nhiều lần trong ṿng nửa đầu thế kỷ
này” (Ban
Biên Tập, Lời Mở Đầu, cùng sách trang 5).
Mục tiêu và nội dung
của tập tài liệu này là “tham luận và thảo
luận xoay quanh mấy vấn đề chính: 1) Lịch
sử của giáo hội công giáo hồi thế kỷ 18-19
trong mối tương quan với việc chủ nghĩa
thực dân Pháp đánh chiếm nước ta. 2) Thái độ
của các vua chua Việt
Địa điểm,
tiến tŕnh và nhân lực góp phần cho cuốn “Kỷ
Yếu Hội Nghị Khoa Học Tại Thành Phố
Hồ Chí Minh ngày 11-12/3/1988” (lời ghi ở b́a sách phía
trước), đó
là “tại Viện Khoa học xă hội Thành phố Hồ
Chí Minh… Hội nghị dành nửa thời gian để đọc
Tham luận và nửa thời gian c̣n lại để trao đổi
ư kiến tự do… nhờ sự đóng góp của hơn
130 giáo sư, tiến sĩ, cán bộ nghiên cứu Sử
học và khoa học xă hội thuộc nhiều cơ quan
khoa học…” (Ban
Biên Tập, Lời Mở Đầu, cùng sách trang 5).
Chiều hướng chung
của tất cả những ǵ được phổ
biến trong tập “Kỷ yếu” này đă được
nêu lên ngay câu mở của Lời Nói Đầu: “Lịch
sử Giáo hội Thiên chúa giáo ở Việt Nam không thể
tách rời Lịch sử dân tộc Việt Nam. Đứng
từ phía Giáo hội, như thư chung của Hội đồng
Giám mục Việt Nam tháng 5-1980 từng thừa nhận:
‘lịch sử của đạo xen lẫn ánh sáng và bóng
tối” (trang
5).
Đọc kỹ những ǵ được
tŕnh bày trong tập “Kỷ yếu” này, độc giả
thấy ngay ư nghĩa của thành ngữ “ánh sáng và bóng
tối” trong Thư Chung của Hội Đồng Giám
Mục Việt Nam, do “Hội Nghị Khoa Học” này chứng
minh và dẫn giải, những chứng minh và dẫn
giải ấy có thể được tóm gọn như
sau:
·
Thiên Chúa giáo là
một sản phẩm Tây phương, được
tư bản có mưu đồ thực dân mang vào thị
trường văn hóa Nho giáo Việt Nam, đă gặp
phải sức cạnh tranh mănh liệt của chính
quyền (Thời Phong
Kiến thế kỷ 17-18 và Triều Nguyễn thế
kỷ 19) cũng
như của nhân dân (Phong Trào Văn Thân) Việt Nam, tuy nhiên, cho dù có
v́ thời thế đẩy đưa theo đạo,
những người Thiên Chúa giáo cũng vẫn trung thành
với quê hương dân tộc.
(Những hàng chữ nghiêng
trong các đoạn trích dẫn sau đây là nguyên văn từ
tập Kỷ Yếu duy nhất trên).
Trước hết, “Thiên
Chúa giáo là một sản phẩm Tây phương, được
tư bản có mưu đồ thực dân mang vào thị
trường văn hóa Nho giáo Việt Nam”:
Đạo
Kitô từ phương Tây được truyền bá sang
phương Đông vào thời đại có những phát
kiến lớn về địa lư; những phát kiến
ấy ‘báo hiệu buổi b́nh minh của thời đại
tư bản chủ nghĩa’ (Mác, Tư bản), đồng thời cũng
khai sinh thời đại của chủ nghĩa tư
bản thực dân phương Tây, Bồ Đào Nha, Tây Ban
Nha là hai nước tư bản đầu tiên phát
hiện những miền đất mới cũng là hai
nước tư bản đầu tiên chinh phục
những miền đất mới ấy. Các sắc
chỉ Romanus Pontifex (giáo hoàng Roma) ngày 8.1.1454 của Giáo hoàng
Nicolas V, sắc chỉ Inter Cactéra (giữa những điều
khác) ngày 3.5.1494 của Giáo hoàng Alexandre VI, không thể không đưa
tới kết luận rằng: Ṭa thánh sử dụng
quyền Chúa ban để mở mang nước Chúa dính líu
với sự bành trướng của chủ nghĩa
tư bản thực dân phương Tây ngay từ buổi
b́nh minh của thời đại tư bản chủ
nghĩa. Sự dính líu giữa Giáo hội và tư bản
thực dân là có qui mô quốc tế, sự phản ứng
lại mối quan hệ ấy cũng không chỉ xẩy
ra ở Việt Nam. Cấm đạo bắt đầu ở
Marốc 1604, ở Etiôpia 1632, ở Angiêri 1643, ở
Nhật Bản 1614, ở Trung Quốc, ở Triều Tiên, ở
Việt Nam…
Lịch
sử hoạt động giáo hội ở Việt Nam là
một bộ phận hoạt động của giáo
hội thế giới. Việc truyền đạo vừa
có mục đích tôn giáo vừa có mục đích chính trị,
mục đích truyền giáo che giấu mục đích chính
trị: việc mở mang nước Chúa gắn với
việc bành trướng của chủ nghĩa tư
bản phương Tây. Trong sự truyền đạo, đối
với các giáo sĩ phương Tây – những người
lănh đạo giáo hội lúc đó – phụng sự Chúa
thống nhất với phụng sự đất
nước họ, phụng sự chủ nghĩa tư
bản.
(GS Nguyễn Công
B́nh, Viện Khoa học xă hội, TP Hồ Chí Minh,
bài Người
Công Giáo Việt Nam Biết Đi Về Đâu Khi Pháp Đánh
Chiếm Việt Nam,
sách đang
dẫn trang 30-31, 35)
Đạo
Thiên Chúa phải là mục đích và là nỗ lực của
chính quyền thực dân nhắm đến, nó là
phương tiện dùng để củng cố sự xâm
lăng và thống trị của thực dân. Để đóng
vai tṛ đó, họ cần phải được giới
chức tu sĩ hợp tác chặt chẽ với giới
chức chính trị lănh đạo và điều khiển:
do đó, cần phải thành lập một giới tăng
lữ vừa lo việc thờ phụng vừa lo việc
truyền bá ảnh hưởng Thiên Chúa giáo và ảnh hưởng
nước Pháp trong thuộc địa mới dưới
sự kiểm soát và sẽ nhận tiền trợ cấp
của chính quyền.
Công
bố niềm tin đó cho đổng lư văn pḥng của
ḿnh và cho đô đốc Bonard, Chasseloup Laubat đă
viết: “Tôi muốn nền văn minh Thiên chúa có được
một căn cứ lớn trong vùng đất mới
chiếm của chúng ta, để tỏa chiếu trên
những vùng đất c̣n các tập quán man rợ đó” (Thư gửi Dolarbre 14-02-1862 do A.
Duchêne dẫn trong: Un ministre trop oublie: Chasseloup Laubat, tr.
201)
Gửi
cho đô đốc La Grandière, Laubat lại viết: “Tôi
muốn được thấy lan tràn ảnh hưởng
Thiên chúa mà theo tôi, được kêu gọi đến để
làm nền tảng cho văn minh chúng ta trong các vùng đất
đó. Đối với tôi h́nh như một món lợi mà
trời ban cho nước Pháp. Phải ở lại đây,
ở các tỉnh này, không có những đám dân chống
lại Thiên chúa giáo như Hồi giáo, và trong niềm hy
vọng về tương lai, tôi thấy rằng chính từ
Saigon tỏa đi khắp Viễn Đông ảnh hưởng
hết sức tự do của xứ sở tôi…” (Thư viết tay 17-09-1865 do A Duchên
dẫn cùng sách trên, trang 171)…
Đạo Thiên Chúa xuất
phát từ Châu Âu, cách đây gần 2000 năm, đă bành
trướng thế lực ra khắp thế giới
với một hệ thống tổ chức có tính thế
giới. Quá tŕnh bành trướng của nó gắn liền
một cách tất yếu với quá tŕnh của chủ
nghĩa thực dân Châu Âu. Chủ nghĩa thực dân Châu Âu
coi đạo Thiên chúa như là một lực lượng
phục vụ cho chính sách xâm lăng về tinh thần, c̣n đạo
Thiên chúa t́m ở chủ nghĩa thực dân một chỗ
dựa vật chất để truyền giáo, để
bành trướng ảnh hưởng của ḿnh. Chính v́
vậy mà nó là một tôn giáo phát triển rất nhanh,
rất rộng hơn bất cứ một tôn giáo nào khác,
nó xâm nhập vào mọi nơi của thế giới,
kể cả những nơi đă có các tôn giáo truyền thống
của địa phương rất vững chắc và
chống lại nó một cách quyết liệt. Năm tháng
trôi đi, lịch sử nhân loại đă có nhiều đổi
thay, chính sách của giáo hội Thiên chúa cũng phải thay đổi
cho phù hợp với sự biến đổi đó
của thế giới. Nhưng xét về mặt lịch
sử, trong quá tŕnh lịch sử của nó, đạo
Thiên Chúa là một ‘đế quốc tinh thần’ đă
nối gót rất sớm ‘đế quốc vật
chất’ và kết hợp với nhau rất bền
vững.
(GS Hồ Sĩ Khoách,
Khoa Sử, Đại Học Tổng Hợp, TP Hồ Chí
Minh,
bài T́m Hiểu
Mối Liên Hệ Giữa Chính Sách Thực Dân
và Gia Tô Trong
Việc Thiết Lập Thuộc Địa Pháp Ở Nam
Kỳ,
sách đang
dẫn trang 200, 211-212)
Ở thế kỷ 17, đạo
Thiên chúa đă phát triển tại Phi-lip-pin và quần đảo
Mô-luy-kô (Molluque). Nửa thế kỷ 18, đạo Thiên
chúa phát triển nhanh ở In-đô-nê-si-a (Indonésia) và Mă Lai
(Malaisie). Tại Việt Nam, Miến Điện, Thái Lan,
Campuchia, miền Nam Việt Nam, đă có mặt các cố đạo
truyền giáo người Âu ngay từ năm 1554-1556 (B. Ph. Gloslier.
‘Angkor et le Cambodge au XVI siècle’, Paris, 1959. tr. 28). Nhưng đến thế
kỷ 17 trở đi th́ Thiên chúa giáo ở miền Nam,
cụ thể là ở Đà Nẵng, Huế, Hội An đă
phát triển khá mạnh. Tất cả quá tŕnh phát triển
của Thiên chúa giáo ở Đông Nam Á đều gắn
liền với quá tŕnh thực dân hóa các nước nói trên
trong các thời gian sau đó. Đó là một sự thực
lịch sử hay nói đúng hơn là một lịch sử
của một quá khứ phức tạp không thể đổi
thay. Nói về những âm mưu của chủ nghĩa
thực dân lợi dụng tôn giáo và đặc biệt là
Thiên chúa giáo, đồng chí Nguyễn Văn Linh có nhận định
như sau: ‘âm mưu của thực dân Pháp là sử dụng
đạo Thiên chúa làm tiền trạm đi xâm lược
thuộc địa’ (Nguyễn Văn Linh. Về vấn
đề vận động quần chúng hiện nay, tr. 23).
(GS Mặc Đường,
Viện Khoa học xă jội TP Hồ Chí Minh,
bài Người
Việt Nam Thiên Chúa Giáo
Ở Miền Nam
Nước Ta Từ Thế Kỷ 17 Đến Thế
Kỷ 19,
sách đang
dẫn, trang 79-80)
Về mối quan hệ
giữa thương nhân và nhà truyền giáo, Sử gia
Trần Tam Tỉnh người công giáo đă tóm lược
vị trí của Hội truyền giáo Paris và vai tṛ của
vị giám mục đầu tiên ở Việt Nam như sau:
“Hội truyền giáo ngoại quốc ở Paris được
thành lập trong những điều kiện bấy giờ
được sự ủng hộ của triều đ́nh
Pháp ở Versailles và của những thương nhân trong
Công ty Đông Ấn Độ. Những vị giám mục
này đă nhanh chóng đi vào con đường phục
vụ những tên lái buôn. Đức cha Pallu, vị giám
mục đầu tiên ở Việt Nam đă được
bổ nhiệm làm cố vấn và báo cáo viên cho Công ty Đông
Ấn Độ, khuyến khích công ty ‘tiến hành sự
nghiệp quang vinh nhằm làm cho những tên man rợ đổi
đạo và đóng ấn dấu của Thánh vào những
hoạt động thương mại của công ty, làm
như thế vừa tăng trưởng nhà thờ, vừa
làm giầu cho nước Pháp’” (Trần
Tam Tỉnh Eglise Catholique au Viet Nam. Des Chrétiens du Việt Nam
relisent l’histoire de leur Eglise. Foi et Developpement 31. Novembre 1975, tr.
1)….
Chúng ta đă thấy vai tṛ
của Alexandre de Rhode trong việc thành lập Hội
truyền giáo ngoại quốc Paris, tạo điều
kiện cho việc mộ những giáo sĩ người
Pháp đi truyền đạo ở phương Đông
không qua sự kiểm soát của người Bồ.
Nhưng người đầu tiên có tư tưởng
nhất quán và có những hoạt động kiên tŕ để
đề ra việc xâm chiếm Nam kỳ và nước ta
có lẽ là giám mục Adran. Trong tờ tŕnh của ông ngày
5-5-1787 gửi về cho nhà vua Pháp để vạch con đường
phát triển của nước Pháp ở phương Đông,
ông đă viết: “Một căn cứ Pháp ở Nam kỳ
chắc chắn sẽ tạo ra một phương
tiện để đối lập lại ảnh hưởng
lớn lao của nước Anh… với những tài nguyên
chắc chắn hơn và những việc trợ đỡ
xa hơn là trông chờ ở châu Âu, để có thể
khống chế trên tất cả những biển Trung
Quốc, những quần đảo, cuối cùng là để
làm chủ tất cả thương mại ở phần đất
này trên thế giới”
(Philippe
Heduy. Lanessan Peincipes de
la Colnoisation. Alcan Paris 1894. Nguyễn Văn Trung có trích
dẫn. Xem Chủ nghĩa thực dân Pháp. Thực chất
và huyền thoại. Nam Sơn Sài G̣n. 1963, tr. 36)
(GS Lê Văn Sáu,
bài Bức Tranh
Lịch Sử Và Những Người “Tử V́ Đạo”
Được Phong Thánh Hôm Nay, sách đang dẫn, trang
89 và 94)
Như vậy, quá tŕnh
hoạt động của Hội truyền giáo
nước ngoài và quá tŕnh bành trướng của chủ
nghĩa thực dân phương Tây, quả thật là có
mối quan hệ khá chặt. tất nhiên, các giáo sĩ có
thể bám vào lập trường đức tin và lợi
ích quốc gia để giải thích những việc làm
của họ. Nhưng ngay v́ lợi ích quốc gia mà
nội bộ các phái bộ giáo sĩ phương Tây
cũng không thể có được một sự dung ḥa.
Vả lại, không thể có chủ nghĩa yêu nước
chân chính trong những con người chủ tâm hay đồng
lơa ở những mức độ khác nhau với hành vi
cướp nước. Cho nên, nếu lúc bấy giờ,
các giáo sĩ có gặp phải sự chống đối
nào đấy, kể cũng là điều tự nhiên.
(Nguyễn
Khắc Thuần, Khoa lịch sử, đại học
Tổng hợp TP Hồ Chí Minh,
bài Sự
Truyền Bá Và Tiếp Nhận Thiên Chúa Giáo Ở Việt Nam,
sách đang
dẫn trang 120-121)
Sự dính líu giữa Giáo
hội với chủ nghĩa thực dân phương Tây
vốn không thuộc về bản chất của sự
truyền giáo: đó là sự dính líu mang tính chất thời
đại lúc bấy giờ, thời đại của
sự phát sinh và phát triển của chủ nghĩa tư
bản, đă xẩy ra từ cuối thế kỷ XV, ở
b́nh diện thế giới, giữa Giáo hội với các
thế lực tư sản phương Tây, nhất là từ
sau những phát kiến địa lư…
Sự dính líu của Giáo
hội La Mă và của Hội Thừa sai Paris với
cuộc thực dân của các thế lực tư sản
phương Tây như đă tŕnh bày ở trên, hẳn là đă
không hoàn toàn phát xuất từ bản chất thiêng liêng và
nhân ái của sự truyền giáo, song lịch sử
của Tây Âu từ cuối thế kỷ XV đă đặt
ra cho Giáo hội La Mă cũng như Giáo hội Pháp một
khả năng duy nhất là phải thỏa hiệp
với các thế lực tư sản để có thể
thực hiện được sứ mạng truyền
giáo. Sự dính líu đó mang tính cách lịch sử và thời
đại, thời đại mà chủ nghĩa tư
bản đang lớn mạnh và đang tiến tới chi
phối mọi hoạt động của thời đại
kể cả hoạt động tôn giáo...
Trong
quá tŕnh xâm lược và b́nh định Việt Nam, ở đâu
thực dân Pháp cũng nhận được sự giúp đỡ
tận t́nh của các giáo sĩ của Hội Thừa sai
Paris. Về phương diện này, vẫn có thể
kể trường hợp Pellerin, Lefèbre và sau đó là
Retord, Puginier và khá nhiều giáo sĩ khác. Có thể nói mà
không sợ quá đáng là sự giúp đỡ của các giáo
sĩ Pháp đă giúp thực dân Pháp vượt qua rất
nhiều khó khăn và hoàn thành thuận lợi cuộc xâm
lược và b́nh định Việt Nam…
Sự
dính líu của việc đạo ở Việt Nam với
cuộc xâm lược của Pháp như đă tŕnh bày ở
trên đă khiến sự truyền đạo vào Việt
Nam được coi như là một cánh tay đắc
lực của thực dân Pháp và giáo dân bị coi như
kẻ đồng lơa với kẻ xâm lược. Vấn đề
có thể không hoàn toàn như vậy, song trong t́nh thế
hiện thực ấy, không có cái ǵ để thanh minh cho được.
(GS Nguyễn
Văn Kiệm, Đại học Sư phạm Hà Nội,
bài Nói Thêm
Về Những Nguyên Nhân Dẫn Tới
Sự Cấm Đạo
Của Nhà Nguyễn,
sách đang
dẫn, trang 12, 17, 20 và 22)
Chính vua Pháp – Napoléon I khi nói
về “Hội truyền giáo nước ngoài” vào năm 1804,
cũng xác nhận mối quan hệ hữu cơ giữa
hoạt động truyền giáo và sự xâm lược
của chủ nghĩa thực dân phương Tây: “Hội
truyền giáo nước ngoài sẽ rất có ích cho tôi ở
châu Á, châu Phi và châu Mỹ. Tôi sẽ cử các giáo sĩ đi
điều tra t́nh h́nh ở các xứ. Tấm áo của
họ sẽ che chở cho họ và sẽ dùng để che
giấu những mưu đồ chính trị và
thương nghiệp”
(Jean
Scout Canale – Afrique noire, Paris, 1958, p. 120)
Trường hợp giáo
sĩ Marchand (Cố Du) càng là một minh chứng ông này đă
tích cực giúp đỡ Lê Văn Khôi nhằm lập nên
một vương quốc Thiên chúa giáo, độc lập
với nhà Nguyễn nhưng lại phụ thuộc hoàn toàn
vào nước Pháp. Điều này, chính Marchand đă tự
bộc lộ trong một bức thư như sau: “Nhờ
ơn Thượng đế mà những người
nổi loạn thắng cuộc th́ chúng ta có thể hy
vọng được trông thấy vương quốc An
Nam này hoàn toàn biến thành một quốc gia công giáo” (Jacquenot. Vie de l’abbé Marchand,
missionnaire apostolique et martyr).
Như vậy, xu thế dấn thân sâu vào việc đời
của các giáo sĩ truyền đạo tới mức có
sự gắn bó mỗi ngày một mật thiết với
âm mưu xâm lược của chủ nghĩa thực dân
phương Tây là điều có thực, không thể
phủ nhận.
(Huỳnh Lứa,
Viện Khoa học xă hội, TP Hồ Chí Minh,
bài Do Đâu Mà
Có Việc Cấm Đạo Thiên Chúa Trong Các Thế Kỷ
XVII, XVIII và XIX, sách đang dẫn trang 173, 174)
Sau
nữa, “Thiên
Chúa giáo… đă gặp phải sức cạnh tranh mănh
liệt của chính quyền (Thời Phong Kiến thế
kỷ 17-18 và Triều Nguyễn thế kỷ 19) cũng như của nhân dân
(Phong
Trào Văn Thân)
Việt Nam”
(xem nhận định
có ba phần, mà đây là phần 2, ở trang 153).
· Về lư do bắt đạo
trong Thời Phong Kiến thế kỷ 17 và 18:
Ở
Việt Nam vào thế kỷ 17, Khổng giáo và thờ cúng
tổ tiên chiếm ưu thế tuyệt đối trong
tín ngưỡng của nông dân và Phật giáo đại thừa
với những qui định rộng răi là tín ngưỡng
của giai cấp phong kiến cầm quyền. Mặt
khác, ở Việt Nam ở thế kỷ 17 đă có một
vị trí rất quan trọng về kinh tế và quân sự
ở khu vực Đông Nam Á, tài nguyên Việt Nam lại
giầu có. V́ vậy, thực dân Tây Ban Nha và Bồ Đào
Nha vào cuối thế kỷ 16 đă chú ư đến
Việt Nam và sau này trong thế kỷ 18, 19 nhiều
nước thực dân châu Âu, như Hà Lan, Pháp… đều
chú ư đến Việt Nam. Tham vọng chiếm Việt Nam
của thực dân Bồ và Tây ban Nha vào thế kỷ 17 được
thể hiện qua những thủ đoạn lợi
dụng các giáo sĩ Ḍng Tên để xâm nhập vào
nước ta – nơi có những tín ngưỡng
tương đối rộng mở hơn những
nước có đạo Hồi và Phật giáo Tiểu thừa
(Campuchia, Lào, Thái Lan, Miến Điện). Ngày 18 tháng 1
năm 1615, thực dân Bồ đưa tầu buôn đổ
bộ lên cảng Đà Nẵng và dùng hai vị linh mục
ḍng Tên Francisco Busomi và Diégo Carvalho để thực hiện
âm mưu nói trên. Tuy trước đó đă có những linh
mục ḍng Dominica đến truyền giáo ở vùng Đà
Nẵng, nhưng lịch sử truyền giáo ở Việt
Nam lại được kể từ khi xuất hiện ở
đây hai linh mục Ḍng tên này. Chỉ hai năm sau,
dưới thời Săi Vương, năm 1617 từ trung
tâm truyền giáo của Ḍng tên ở Ma-cao (Trung Quốc) đă
đến Đà Nẵng khi linh mục khác là Francisco Barilo
và Francisco Pina. Linh mục Ḍng tên Pina là người giảng
đạo bằng tiếng Việt đầu tiên, người
thày dạy tiếng Việt cho cố đạo Alexandre de
Rhodes (G. Taboulet. La geste
francaise en Indochine, T. I, Paris 1955, tr. II). Năm 1624 (ngày 19 tháng 12) cố đạo
Alexandre de Rhodes và Gabriel Matos cùng giáo sĩ khác (trong đó có
một linh mục người Nhật rất giỏi
chữ Hán) đă đổ bộ lên Đà Nẵng để
mở rộng việc truyền giáo. Năm 1627, Alexandre de
Rhodes cùng linh mục Padro Marquet mở rộng việc
truyền giáo ra miền Bắc. Năm 1630, Chúa Trịnh đă
ra lệnh cấm đạo và trục xuất hai linh
mục nói trên (A.
de Rhodes. Divers voyages et missions, de A. De Rhodes de la Chine et autres
royaumes de l’ Orient, Paris, 1653, tr. 17 – 33). Đó là lệnh cấm đạo
Thiên chúa đầu tiên ở Việt Nam. Alexandre de Rhodes
phải từ bỏ Việt Nam đến Ma Cao và hơn 6
năm sau khi giám mục Busomi thuộc địa phận
Huế – Đà Nẵng – Hội An qua đời, Rhodes
mới trở lại miền Nam Việt Nam thay thế
Busomi. Lúc đó, ở Đàng trong, mà chủ yếu là ở
Đà Nẵng – Huế – Hội An, tín đồ Thiên chúa
giáo đă có đến 12.000 người (E. Veuillot. La Cochinchine et le Tonkin,
Paris, 1859, tr. 110, tr. 140, 141, tr. 111, 119). Ngày 3 tháng 7 năm 1645, Chúa Nguyễn Phúc
Lan ra lệnh cấm đạo và trục xuất giáo
sĩ Ḍng tên nhưng linh mục Ḍng tên Alexandre de Rhodes
lại được tín dùng. Trước đó một
năm, 1644, chúa Nguyễn đă ra lệnh hành h́nh người
Thanh niên tín đồ Thiên chúa giáo 19 tuổi tên là André Trung
(cũng sách vừa dẫn). Cuối năm 1645,
Alexandre de Rhodes bị kết án hành h́nh và được
nhiều quan lại Việt Nam quen biết cứu được
tội chết để trục xuất về La Mă (cũng sách vừa
dẫn). Mặc
dù vậy, công việc truyền giáo vẫn được
phát triển vào những năm cuối thế kỷ 17 và
giáo phận Thiên chúa ở Huế – Đà Nẵng –Hội An
trở thành một trung tâm truyền giáo lớn ở
nước ta thời đó.
(GS Mặc Đường,
Viện Khoa học xă jội TP Hồ Chí Minh,
bài Người
Việt Nam Thiên Chúa Giáo
Ở Miền Nam
Nước Ta Từ Thế Kỷ 17 Đến Thế
Kỷ 19,
sách đang
dẫn, trang 64-65)
Lẽ dĩ nhiên, khi nói đến
chính sách mở rộng cửa này của các tập đoàn
Trịnh, Nguyễn, chúng ta không nên loại trừ một
sự thực là ngay từ đầu, trong thâm tâm, các
tập đoàn phong kiến thống trị – cả
Trịnh lẫn Nguyễn – đều không ưa đạo
Thiên chúa v́ giáo lư của đạo này đối nghịch
với những tín điều của Nho giáo – hệ tư
tưởng chính thống, nền tảng chính trị và đạo
đức của nhà nước phong kiến – nó phủ định
Nho giáo, phủ định việc thờ cúng tổ tiên –
một tập tục, một truyền thống lâu đời
của dân tộc. Có điều là, trong thế kỷ đầu,
việc truyền đạo chưa mở rộng đến
mức đe dọa làm lung lay trật tự xă hội phong
kiến, chưa bộc lộ sự dính dáng trực
tiếp với âm mưu xâm lược của chủ
nghĩa thực dân phương Tây, và điều quan
trọng hơn cả là cả hai tập đoàn phong
kiến đều muôùn lợi dụng sự buôn bán này để
tăng cường tiềm lực kinh tế và quân sự
nhằm đối phó với đối phương.
Tuy
nhiên, ngay trong thế kỷ XVII, các thương nhân và giáo
sĩ đều đă vừa buôn bán và truyền đạo
vừa t́m cách can thiệp vào nội t́nh chính trị của
đất nước, lợi dụng những mâu
thuẫn và sự tranh chấp giữa các phe phái phong
kiến Trịnh - Nguyễn để thủ lợi cho
ḿnh. Họ giúp cho bên này chống lại bên kia, hoặc giúp
cho bên kia chống lại bên này: người Bồ Đào
Nha th́ mở xưởng đóng tầu và đúc súng, cung
cấp vũ khí cho chúa Nguyễn đánh chúa Trịnh, c̣n
người Hà Lan th́ cung cấp súng đạn cho Chúa
Trịnh đánh chúa Nguyễn. Chính sự chia nhau can
thiệp vào nội t́nh chính trị của nước ta
giữa thương nhân và giáo sĩ các nước (Bồ Đào
Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan, Pháp) mà nhiều khi không thực hiện
lời hứa giúp đỡ, cùng với sự tranh
chấp quyền lợi, tố cáo lẫn nhau giữa các
Hội truyền giáo (Ḍng Tên, Ḍng Đaminh, Hội Truyền
giáo nước ngoài) đă dẫn đến sự bất
b́nh và nghi kỵ của các tập đoàn phong kiến
thống trị Việt Nam vốn đă không ưa giáo lư đạo
Thiên Chúa. Kết quả là vào những thập kỷ đầu
thế kỷ XVII, nhiều vụ cấm đạo đă
nổ ra cả ở Đàng Trong và Đàng Ngoài: năm 1630,
ở Đàng Ngoài, chúa Trịnh ra lệnh trục xuất
Alexandre de Rhodes; c̣n ở Đàng Trong th́ năm 1664 và
những năm sau đó, Chúa Nguyễn liên tiếp ra
lệnh cấm đạo và sát đạo rất gắt
gao.
Như
vậy phải nói rằng, vào nửa thế kỷ đầu
thế kỷ XVII những vụ cấm đạo, sát đạo
nổ ra một phần do chính sách nghiệt ngă, cận
thị của các tập đoàn phong kiến nhưng
một phần – có thể là quan trọng hơn – do sự
dấn thân vào việc đời một cách không đứng
đắn của các giáo sĩ các nước…
Trong
các thế kỷ XVII, XVIII, mặc dù các nhà nước phong
kiến liên tục tiến hành nhiều cuộc cấm đạo
(1630, 1644, 1658, 1663, 1665, 1668, 1700, 1712, 1737, 1744, 1750, 1765, 1773,
1785) nhưng sự truyền giáo vẫn không ngừng phát
triển, số người theo đạo vẫn ngày
một đông ra. Có thể giải thích t́nh h́nh này tự
sự đổ vỡ, bế tắc của xă hội kéo
dài qua các thế kỷ XVI, XVII, XVIII. Lúc bấy giờ,
chế độ phong kiến ở nước ta đă
rơi vào khủng hoảng trầm trọng dẫn tới
các cuộc chiến tranh giành giật giữa các tập đoàn
phong kiến diễn ra triền miên. Chiến tranh và thêm vào đó
là sự bóc lột, hà hiếp của bọn cường
hào ác bá đă đẩy các tầng lớp nhân dân lao động
vào cảnh chết chóc, đói nghèo, lầm than, bế
tắc. T́nh h́nh đó khiến họ không c̣n tin tưởng
vào các chế độ phong kiến, thậm chí họ
mất cả ḷng tin vào các tín điều Nho giáo,
cương thường đạo lư phong kiến – đạo
lư “quần thần” không c̣n mang tính chất linh thiêng đối
với họ nữa, vua chúa không c̣n là những thần
tượng đầy uy lực như ngày xưa. Trong khi
quần chúng nghèo khổ đang bị bế tắc trong
cuộc sống hiện tại th́ giáo lư đạo Thiên
chúa đến với họ như nước uống đến
với người đang khát. Họ bỗng có được
một Đức Chúa để được cứu
rỗi, và sẽ có được một cuộc sống
tốt đẹp trên nước Chúa, trên thiên đường.
Điều đó đem lại cho họ một sự an
ủi tinh thần to lớn. Do đó bất chấp
mọi cấm đoán, họ vẫn tin theo Chúa, trong khi vua
quan không c̣n là “tối thượng” đối với
họ nữa. Chính điều này đă làm lung lay đến
tận gốc những cơ sở tư tưởng và đạo
đức của nền thống trị phong kiến, đe
dọa cả trật tự xă hội phong kiến, gây nên
sự lo ngại hết sức to lớn cho giai cấp
phong kiến cầm quyền. Cho nên không phải ngẫu
nhiên mà các sắc dụ cấm đạo của các vua
triều Nguyễn đều mở đầu bằng các
câu đại loại như “Gia-tô tả đạo.
Tả đạo ấy mê hoặc ḷng người, rất
có hại cho phong hóa v.v.”.
(Huỳnh Lứa,
Viện Khoa học xă hội, TP Hồ Chí Minh,
bài Do Đâu Mà
Có Việc Cấm Đạo Thiên Chúa Trong Các Thế Kỷ
XVII, XVIII và XIX, sách đang dẫn trang 170-171 và 174- 175)