Những
tư tưởng này không phải là thiếu thực
tế. Là Mục Tử của đoàn chiên của ḿnh ở
Đức, Quí Huynh cũng đă cảm nghiệm được,
nhất là trong những năm gần đây, nhiều đ̣i
hỏi cần đến sức mạnh và nghị lực
trong vai tṛ lănh đạo của ḿnh, khi có những nhóm đặc
biệt liên kết hành động với nhau liên tục áp
đảo Quí Huynh để đẩy mạnh việc
thay đổi Giáo Hội không hợp với ư muốn của
Chúa Kitô. Trong t́nh trạng này, công việc của Vị
Giám Mục là ra mặt, là giải quyết, là làm sáng
tỏ, là làm lắng dịu và luôn luôn mang người ta
lại với nhau – tất cả được thực
hiện bằng việc đối thoại. Tôi xin Quí Huynh đừng
thất đảm! Trong khi lắng nghe và tác hành, Quí
Huynh đừng để cho bất cứ một
quyền lực nhân loại nào làm lỏng lẻo những
mối giây liên kết bất khả phân ly giữa Quí Huynh
và Vị Thừa Kế Thánh Phêrô! (đoạn 7)
· Việc
hiệp nhất với Giám Mục là một thái độ
thiết yếu không thể thiếu của người
tín hữu Công Giáo, v́ người ta không
thể cho rằng ḿnh ở về phía Giáo Hoàng mà lại
không đứng bên các Vị Giám Mục hiệp thông với
Giáo Hoàng. Người ta cũng không thể cho rằng ḿnh hợp
với các Vị Giám Mục mà lại không đứng
về bên Vị Lănh Đạo của Giám Mục Đoàn.
(đoạn 7)
· Phải
loại trừ bất cứ một nỗ lực nào
muốn giáo sĩ hóa giáo dân hay giáo dân hóa giáo sĩ. Nó
không xứng hợp với cấp trật mầu nhiệm
của Giáo Hội theo ư muốn của Đấng Sáng
Lập Giáo Hội. Cũng phải loại trừ
cả những khuynh hướng xóa bỏ cái khác nhau chính
yếu giữa giáo sĩ và giáo dân để làm mồi thu hút
ơn kêu gọi… Cho dù có phải chờ đợi
lâu đi nữa v́ hiện trạng thiếu hụt linh mục,
cũng không được đưa cộng đồng của
ḿnh đến chỗ chấp nhận một t́nh trạng
cấp cứu như là một qui luật. Linh mục
và giáo dân cần lẫn nhau. Họ không thể thay thế
nhau mà là bổ túc cho nhau. (đoạn 9)
· Nơi
phần đất của Quí Huynh càng ngày càng xẩy ra
t́nh trạng không đồng ư với thái độ của
Giáo Hội đối với vai tṛ của nữ giới…
Phẩm vị của phụ nữ cao cả là điều
chắc và mỗi ngày cần phải cảm nhận được
điều ấy hơn nữa! Tuy nhiên, người ta
không để ư ǵ mấy đến tính cách khác nhau
giữa các quyền lợi nhân bản và dân sự nơi
con người với các quyền lợi, nghĩa vụ
và những phận sự liên hệ của họ trong Giáo
Hội. Chính v́ lư do này mà trước đây ít lâu, bằng
thừa tác vụ củng cố cho anh em của ḿnh, Tôi đă
nhắc nhở là ‘Giáo Hội không có quyền ǵ cả
trong việc phong chức linh mục cho nữ giới và
phán quyết này phải được tất cả
mọi tín hữu của Giáo Hội tuân giữ một cách
dứt khoát’ (Ordinatio
sacerdotalis, đoạn 4).
(đoạn 10)
(Tuần san L’O sservatore Romano, ấn bản Anh
ngữ 8/12/1999, trang 5 và 8)
Ngày nay, đạo lư Kitô giáo
c̣n bị cả trào lưu “văn hóa tử vong”, văn hóa
duy nhân bản, tức trào lưu sống theo đạo
làm người, mà là đạo làm người
vô thần, nghĩa là đạo thờ thần
tôi, đạo thờ nữ thần tự do,
nổi lên chống đối nữa, càng ngày càng quyết
liệt, nhất là về mặt luân lư liên quan đến
quyền làm người tuyệt đối, quyền
tự quyết hết mọi sự theo ư ḿnh, kể
cả sự sống của con người. Điển
h́nh nhất là Hội Nghị Về Dân Số ở Cairô
nước Ai Cập vào năm 1994. Để có thể
cảm nhận được sức bung phá và hận thù
như thế nào phát ra từ những con người
văn minh đang có thế hoạt động trên b́nh
diện quốc tế qua Hội Nghị này, trước
hết chúng ta hăy nghe cảm tưởng của Đức
Tổng Giám Mục Renato Martino, vị đại biểu của
Ṭa Thánh tham dự Hội Nghị, cho biết như sau:
· “Tôi lănh đạo phái đoàn
đại biểu của Ṭa Thánh ở Cairô (năm 1994).
Tôi có thể cho quí vị (phóng viên nguyệt san Inside The Vatican
8-9/1999, trang 67) biết
là ở Hội Nghị Cairô chúng tôi có rất nhiều người,
nhiều vị đại biểu, nhiều phái đoàn đại
biểu và nhiều người khác nữa chống lại
chúng tôi. Chúng tôi thật là đau khổ khi thấy được
t́nh trạng hận thù này. Tôi sẽ không đề cập đến
thành phần thù hận chúng tôi làm ǵ, mà chỉ cho quí vị
biết những ǵ đă xẩy ra tại Hội Nghị
Cairô thôi.
“Trong
việc thương thuyết vào lúc cuối cùng của
cuộc Hội Nghị Cairô, nhóm phác họa vấn đề
đă đi đến kết luận thiên về việc
phá thai, và vị chủ tọa của nhóm này bắt đầu
kêu gọi các phái đoàn đại biểu mà ông biết là
thích phá thai. Thế rồi, chỉ vào phút cuối cùng –
chỉ vào phút cuối cùng mà thôi – ông mới nhường lời
cho Ṭa Thánh. Dĩ nhiên là Ṭa Thánh nói ‘Không đồng ư!’ –
chống lại việc phá thai.
“Sau đó, ông ta cho giải tán
phiên họp. Thế nhưng ông đă không thèm đếm
xỉa ǵ tới 17 chữ kư của các phái đoàn đại
biểu cùng chí hướng với Ṭa Thánh yêu cầu được
tŕnh bày để chống lại việc phá thai. Và cái ǵ đă
xẩy ra? Ngày hôm sau, các đầu đề của
tất cả mọi tờ báo trên thế giới đăng
là ‘Toàn Thánh Vatican Cản Trở Hội Nghị Cairô’, ‘Ṭa
Thánh Vatican Bị Cô Lập’, ‘Ṭa Thánh Vatican Đơn Thân Độc
Mă’ v.v… v.v.
“Hôm sau, vị chủ tọa
ấy đă xin lỗi về đường lối ông điều
khiển buổi họp cũng như về việc ông
phải cho các phái đoàn đại biểu yêu cầu đêm
hôm trước được phát biểu. Đây là
những mưu mô và là những phương pháp – những mưu
mô bẩn thỉu – họ chơi chúng tôi. Từ bấy giờ
họ đă cố gắng cho tới cùng, trong các cuộc
họp khác, để đẩy mạnh ư tưởng phá
thai.
“Một ḿnh chúng tôi phải
chịu trận, nếu cần, để chỉ cần
bảo vệ những ǵ Đức Giáo Hoàng đă nói. Chúng
tôi thấy có một số nước, mặc dù đồng
ư với những nguyên tắc được chúng tôi bênh
vực, song vào phút chót, đă rút lui khỏi vị thế
bênh vực của Ṭa Thánh, chỉ v́ những ư tứ
về chính trị, mặc dù họ hoàn toàn chấp nhận
nguyên tắc được Ṭa Thánh bênh vực. Thế nhưng,
vào giây phút cuối cùng họ lại nói: ‘Này, chúng tôi không
muốn làm phiền đến người này, người
kia hay người nọ’.
“Thế là, v́ ư tứ chính
trị, họ chấp nhận đứng ở vị
thế mập mờ, và họ bảo vệ một vai tṛ
mập mờ.”
Để theo dơi kỹ lưỡng
hơn tiến tŕnh chống lại “Phúc Âm Sự Sống”
(tên của
bức thông điệp Evanglium Vitae ban hành ngày 25/3/1995
của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II) cũng là chống lại
Giáo Hội, thẩm quyền bảo vệ lề luật
Thiên Chúa, chúng ta hăy theo dơi bài tường thuật “Những
Ǵ Đă Xẩy Ra Ở Hội Nghị Cairô” của Dale
O’Leary được phổ biến trong tờ Nguyệt
San Inside The Vatican 2/1999 (trang 85-87) sau đây.
· “Hội Nghị Quốc
Tế Liên Hiệp Quốc về Vấn Đề Dân
Số và Phát Triển năm 1994 đă được
tổ chức tại Cairô trong việc đối đầu
với những đe dọa của nhóm Hồi Giáo cực
đoan và trách Ṭa Thánh Vatican đă hợp tấu việc đàn
áp nữ giới. Các tham dự viên chia rẽ nhau một
cách dữ dội về vấn đề phá thai. Bên được
dẫn đầu bởi phái đoàn đại biểu Hoa
Kỳ th́ tranh đấu về từ ngữ có thể đưa
đến việc chấp nhận phá thai như một
phần của vấn đề sức khỏe sinh
sản. Bên kia chống lại bất cứ một áp đặt
nào về việc phá thai đối với các nước đang
coi phá thai là việc bất hợp pháp. Các vị đại
biểu của Ṭa Thánh đóng vai tṛ chủ động
trong cuộc tranh luận, bênh vực sự sống và gia đ́nh,
bênh vực người nghèo và các quyền lợi đích
thực của nữ giới.
“Hội
Nghị Cairô không phải là hội nghị đầu tiên
về vấn đềø dân số. Năm 1974 Liên Hiệp
Quốc đă tổ chức một hội nghị về
dân số tại Bucharest chấp nhận một Dự Án
Thực Hiện Dân Số Thế Giới, đến
năm 1984, hội nghị về dân số ở Thánh
Phố Mễ-Tây-Cơ đẩy mạnh 88 đề
nghị để thực hiện dự án này hơn
nữa.
“Ở Hội Nghị
Mễ-Tây-Cơ, phái đoàn đại biểu Hoa Kỳ
dẫn đầu tranh đấu việc thêm chữ
nghĩa vào các đề nghị để làm cho sáng tỏ
vấn đề không được cổ vơ phá thai như
là một phương tiện kế hoạch hóa gia đ́nh.
“Trong thập niên giữa
Hội Nghị Mễ Tây Cơ và Cairô, Liên Hiệp Quốc
Tế Hoạch Định Vai Tṛ Phụ Huynh (IPPF International
Planned Parenthood Federation),
các nhóm muốn kiểm soát dân số, và các nhóm phụ
nữ cố gắng gây thêm ảnh hưởng của ḿnh
ở Liên Hiệp Quốc. Thay thế chính phủ Reagan và
Bush, chính phủ Clinton đă ủng hộ vấn đề
phá thai. Nắm được cơ hội này, những
nhóm ấy chống lại ‘ngôn ngữ của Hội
Nghị Mễ Tây Cơ’, thứ ngôn ngữ cần phải
được băi bỏ ở Hội Nghị Cairô.
“Ngoài ra, c̣n có những thay đổi
thật nhiều trong giới những người để
ư tới vấn đề kiểm soát dân số. Thành
phần nữ giới ở các nước đang phát
triển đă chống lại những chương tŕnh
kiểm soát dân số do các viên chức chính quyền bắt
buộc họ nỗ lực đạt tới chỉ tiêu
về việc thực hành ngừa thai hay hủy hoại
bộ phận sinh sản. Những chương tŕnh mới
đă đề cao sức khỏe và quyền lợi phụ
nữ. Theo bản tin tức chính thức của Hội
Nghị Cairô th́ ‘những mục tiêu của hội nghị
này là tăng thêm quyền cho nữ giới – một
tiến tŕnh bao gồm việc cải tiến các khía
cạnh về vị thế, sức khỏe, kiến thức
và công ăn việc làm của họ – và bảo đảm
quyền chọn lựa đối với vấn đề
kế hoạch hóa gia đ́nh’.
“Các
cuộc hội nghị của Liên Hiệp Quốc được
sửa soạn bằng những phiên họp dọn đường
để soạn thảo sẵn các dự án thực
hiện. Một cuộc họp như thế đă được
tổ chức tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở
Nữu Ước vào tháng Ba năm 1994. Như đă dự định,
ngôn ngữ được sử dụng trong Hội
Nghị Mễ Tây Cơ đă được loại
bỏ. Trong khi bản thảo không minh nhiên kêu gọi
quyền phổ quát trong việc phá thai, nó cũng nói đến
‘vai tṛ làm mẹ an toàn’, đến ‘vấn đề phá
thai không an toàn’, đến ‘vấn đề sức
khỏe sinh nở và sinh dục’, đến ‘những
quyền sinh sản và sinh dục’, đến ‘việc điều
ḥa thai nghén’ và đến ‘những dịch vụ kế
hoạch hóa gia đ́nh toàn diện’ – những từ ngữ
có trường hợp được xác định bao
gồm cả trường hợp được phép phá
thai. Có đoạn trong bản thảo viết như sau:
‘Những chương tŕnh chăm sóc sức khỏe sinh dục
và sinh sản, bao gồm cả các dịch vụ kế
hoạch hóa gia đ́nh, phải giúp cho việc tự do
chọn lựa tối đa bao nhiêu có thể’. Một đoạn
khác viết: ‘Để giúp cho các cặp vợ chồng và
cá nhân đạt được mục tiêu sinh sản’. Cụm
từ ‘các cặp vợ chồng và cá nhân’ gợi lên cho
thấy bản chương tŕnh này khích lệ sinh hoạt
dục tính ngoài hôn nhân. Bản văn cũng có các câu ‘các
h́nh thức khác nhau của gia đ́nh” và “các cuộc
phối hợp khác” là những ǵ được một
số nước Hồi Giáo cho rằng đó là nỗ
lực của Tây phương trong việc cổ động
vấn đề đồng tính luyến ái.
“Một bản văn
thẩm quyền mang tựa đề ‘Việc Hoạch Định
Sức Khỏe Sinh Sản và Gia Đ́nh là Quyền Lợi của
Con Người’ do Văn Pḥng Tổng Thư Kư chính thức
của Hội Nghị Quốc Tế về Dân Số và
Phát Triển viết: ‘bước đầu tiên để
tiến đến việc cải tiến sức khỏe
của thành phần vị thành niên là cất đi những
ngăng trở về pháp lư cũng như về qui lệ làm
cản bước đường của họ đến
với những dịch vụ ấy’. Điều này được
coi như là một cuộc tấn công quyền làm cha làm
mẹ.
“Chính quyền Clinton hết
ḷng ủng hộ chủ trương của bản
thảo ấy. Năm 1994, chính quyền Hoa Kỳ đă
tăng ngân khoản tài trợ cho các chương tŕnh dân
số quốc tế lên tới 600 triệu Mỹ kim. Trong
cuộc họp sửa soạn cho Hội Nghị, các đại
biểu Hoa Kỳ làm áp lực bắt các đại
biểu Châu Mỹ Latinh không được chống đối.
Marta Casco, một đại biểu ở Honduras, đă đứng
lên phản đối áp lực của Hoa Kỳ và tỏ
ra không ưng thuận với việc dùng từ ngữ của
bản thảo.
Trong khi chờ đợi,
Cơ Quan Thông Tin Hoa Kỳ cho phổ biến một
tập tổng hợp các bài viết mang tựa đề
‘Dân Số, Phát Triển và Vai Tṛ Nữ Giới: Cần Được
Đồng Ḷng Thỏa Thuận’, với lời giới
thiệu của Tổng Thống Bill Clinton và Phó Tổng
Thống Al Gore. Hai trong các bài viết này được
trích từ cuốn ‘Vượt Ra Ngoài Những Con Số:
Một Dẫn Giải về Dân Số, về Việc Tiêu
Thụ và Môi Sinh’ (Island Press, 1994),
do Laurie Ann Mazur duyệt thảo. Một trong những bài
viết ấy, ‘Cứu Xét Các Vấn Đề Đạo
Lư’, Ruth lập luận rằng, việc từ chối không
cho nữ giới có thể phá thai một cách an toàn hợp
pháp v́ những ‘niềm tin và thói tục lâu đời’ là điều
bất nhân vô đạo’. Một bài viết khác, ‘Việc
Cân Bằng Những Mức Độ: Chính Sách về Dân
Số và Sức Khỏe của Phụ Nữ’, Adrienne
Germain và Jane Ordway lập luận: ‘Việc ngăn ngừa
trẻ vị thành niên có thai đ̣i phải được
xă hội chấp nhận vấn đề giáo dục
về t́nh dục và các dịch vụ về ngừa thai đối
với đám tuổi từ 13 tới 19’ và ‘các dịch vụ
hoạch định gia đ́nh, bao gồm cả việc
phá thai an toàn, phải làm sao cho thuận lợi, tính chất
của nó phải được cải tiến và mục
tiêu của nó phải được mở rộng’.
“Điều đáng để
ư ở đây là chính phủ Hoa Kỳ xuất bản
những bài viết chọn lọc này, những bài viết
ăn rễ sâu vào trào lưu nữ giới, vào văn từ
phản lại gia đ́nh, tức là chính phủ Clinton đă
tự đặt ḿnh vào tư thế tương khắc đối
nghịch với những quan tâm của Ṭa Thánh.
“Ủy ban chính phát xuất ra
việc sử dụng từ ngữ được bàn căi
này lại nằm dưới quyền chủ tọa của
Fred Sai ở Ghana, chủ tịch của cơ quan Liên
Hiệp Quốc Tế Kế Hoạch Hóa Vai Tṛ Phụ
Huynh, một tổ chức đă hết ḿnh vận động
cho việc hợp thức hóa vấn đề phá thai.
Ngày 30 tháng 6 năm 1994, trên
nhật báo Thời Điểm Trái Đất, tờ
tổng hợp các cuộc hội nghị của Liên
Hiệp Quốc, đă xuất hiện một nhan đề
‘Ṭa Thánh Vatican Cương Quyết Giữ Vững Lập
Trường Đối Với Hội Nghị Dân Số’.
Trong số nhật báo này, Carla Shea, tay viết của tờ
New York, đă thực hiện một cuộc phỏng
vấn Sai, mang tựa đề ‘Việc Sửa Soạn
Cho Hội Nghị Cairô Bị Trầm Trọng’. Shea hỏi
Sai: ‘Tôi có sai hay không khi đi đến kết luận
rằng mục tiêu của hội nghị này là đặt
lại vấn đề với chính những giả
thiết và nền tảng ư hệ nơi trật tự xă
hội cổ kính?’ Sai đă trả lời: ‘Đúng. Xác
nhận ấy đúng. Đúng là như thế’…
“Việc Đức Thánh Cha
phê phán về bản thảo (theo tác giả lần 1 ngày
19/3/1994, qua bức thư riêng gửi cho mọi vị
quốc trưởng, và 3 lần sau qua các Buổi
Nguyện Kinh Truyền Tin hay Triều Yết Chung vào tháng 3,
4 và 8) đă làm bùng
lên hàng loạt cuộc tấn công Ṭa Thánh Vatican cũng như
tấn công giáo huấn Công Giáo đối với vấn đề
tính dục, sự sống và nữ giới. Mặc dầu
Đức Thánh Cha đă kêu gọi nhiều lần việc
tôn trọng nữ giới và việc bênh vực nữ giới,
Ṭa Thánh cũng vẫn bị tố cáo là chống lại
việc giải phóng nữ giới.
“Trong khi có một số người
ửng hộ bản thảo cho rằng Ṭa Thánh Vatican đă
hiểu lầm nó và cho rằng văn kiện này không
tấn công gia đ́nh hay vấn đề phá thai, th́
lần nào các vị đại biểu yêu cầu các câu định
nghĩa loại trừ vấn đề phá thai ra cần
phải cho vào bản thảo họ đều bị
chống đối kịch liệt.
“Ngày
5 tháng 9 năm 1994, ngày khai mạc hội nghị, Gro
Brundtland, Thủ Tướng nước Na-Uy, kêu gọi
‘việc tha phép cho phá thai’ như là ‘một phương
thế cần thiết trong việc bảo vệ sự
sống của nữ giới’.
“Những phần tử của
Các Tổ Chức Ngoài Chính Quyền (NGO: Non-Government
Organizations) được
phép phát biểu trong hội nghị cũng như được
phép vận động các đại biểu. Một
số đă cổ vơ ‘quyền’ cho nữ giới phá thai.
Francis Kissling, chủ tịch tổ chức Các Người
Công Giáo Tự Do Chọn Lựa, một nhóm bị các giám mục
Hoa Kỳ cho de, đă lợi dụng vị thế là
một tổ chức ngoài chính quyền của ḿnh để
tấn công Ṭa Thánh Vatican. Muthgard Toewe, thuộc nhóm Linh Động
Truyền Thông với Nữ Giới theo Văn Hóa của
Họ, tuyên bố rằng: ‘Mọi người phụ
nữ đều có quyền – v́ đó là một phần thuộc
phẩm vị cũng như nhân quyền của họ –
trong việc phá bất cứ một cái thai nào không cần
thiết’.
“Tuy nhiên, có một vài đại
diện của các tổ chức ngoài chính quyền
thuộc các Đệ Tam Quốc Gia đă phê b́nh việc
Liên Hiệp Quốc đang nhấn mạnh đến
vấn đề ngừa thai đối với người
nghèo. Margaret Ogla, một bác sĩ nhi đồng ở Kenya, đă
nói đến những nạn ở xứ sở của
ḿnh: ‘Chúng tôi đang hết cả thuốc chính ngừa. Chúng
tôi không có lấy cả ống tiêm, cả mũi chích,
cả thuốc khử trùng, cả thuốc trụ sinh, thế
mà các Trung Tâm An Sinh Gia Đ́nh của chúng tôi lại không bao
giờ thiếu các đồ dự trữ cho việc
kiểm soát sinh sản. Nữ giới chết xuất
huyết bởi các thứ thuốc IUD’
“Zainab Sa’id Kabir, một giáo sư
của Đại Học Bayero ở Nigeria, cũng phàn nàn rằng
việc quá chú trọng tới ‘sức khỏe sinh sản’ đă
đưa đến việc chểnh mảng chăm sóc sức
khỏe căn bản: ‘Ở Châu Phi chúng tôi không chăm sóc
về y tế cho lắm, chúng tôi không có các thứ thuốc
kháng tố, song lại có đầy những thứ ngừa
thai… Chúng tôi không thể nào không nghĩ rằng các thành
phần viện trợ đă có những mưu đồ
bí ẩn nào đó’.
“Henri Boulad, Giám Đốc của
tổ chức Caritas Ai Cập, đă thách thức thuyết
chủ trương dân số tăng gây ra nghèo khổ
rằng: ‘Các trường hợp ở Ai Cập, Ấn Độ
và Trung Hoa cho thấy việc tăng nhân số thực
sự giúp cho các xứ sở ấy thoát được
cảnh nghèo khổ. V́ t́nh trạng phong phú của một xứ
sở là chính dân chúng của ḿnh, nên việc tăng dân
số lên thực sự không nguy hiểm bằng việc
giảm dân số xuống… nạn dân số tăng quá
nhiều là chuyện hoang đường, một chuyện
v́ được lập đi lập lại và tuyên
truyền mới trở thành một tín điều vậy
thôi’.
“Cuộc tranh căi giữa
những vị đại biểu xẩy ra dữ dội.
Đến lúc căng thẳng nhất th́ Dr. Sai đă đổ
lỗi cho Ṭa Thánh Vatican là gây cản trở cho việc đồng
ḷng thỏa thuận với nhau. Vào ngày 8 tháng 9 năm 1994,
nhật báo Terra Viva, tờ tường thuật về các
hoạt động của Liên Hiệp Quốc, đăng
một đầu đề: ‘Các quyền của nữ giới
bị giữ làm con tin: Nạn nhân của t́nh trạng
thiếu đồng ư về việc phá thai’. Một bức
tranh hí họa vẽ một đấng bậc Công giáo đang
cau mày giữ chặt lấy cây thập giá và quay lưng
lại với một đám đông đa văn hóa đang
cầm các bảng hiệu yêu cầu ‘cùng nhau đồng
thỏa thuận ḷng’ và ‘dung ḥa’.
“Thật ra, không có một
sự thỏa thuận nào cả, v́ các đại biểu
của các nước Hồi Giáo và Công Giáo lo ngại là,
nếu ngôn từ đang tranh luận về sức
khỏe sinh dục và sinh sản được chấp
nhận, th́ việc ngoại quốc viện trợ sẽ
dính liền với việc chấp nhận các chương
tŕnh cổ vơ phá thai hay làm băng hoại các giá trị tôn
giáo. Hội nghị đă đi đến chỗ tắc
nghẽn.
“Bấy
giờ phái đoàn đại biểu Ai Cập mới đề
nghị dung ḥa: vấn đề ngôn từ về sức
khỏe sinh dục và sinh sản vẫn để nguyên
trong bản văn, nhưng sẽ được thêm vào ở
đầu văn kiện một chapeau (đoạn rào đón) là vấn đề thực
hiện Chương Tŕnh Thực Hiện là quyền
tối hậu của mỗi quốc gia đối với
việc hoàn toàn tôn trọng các giá trị đạo giáo và
luân thường khác nhau của dân chúng.
“Bản Chương Tŕnh
Thực Hiện cũng nói rơ ràng là hội nghị không có
thẩm quyền ban bố các thứ nhân quyền mới,
như thế là phủ nhận chủ trương ‘các
quyền sinh sản và sinh dục’. Ngôn từ của
Hội Nghị ở Mễ Tây Cơ không bị băi bỏ.
Thay vào đó, thành ngữ đă được chấp
nhận ở Hội Nghị Mễ Tây Cơ – ‘không có
một trường hợp phá thai nào được
cổ vơ như phương pháp kế hoạch hóa gia đ́nh’
– xuất hiện ở hai phần tách biệt. Chương
Tŕnh Thực Hiện cũng xin tài trợ 17 tỉ rưỡi
Mỹ kim cho các chương tŕnh kiểm soát dân số.
“Cả hai phía đều cho
rằng ḿnh thắng. Một nữ phát ngôn viên cho Tổ Chức
Đại Đa Số Nữ Giới cho rằng Bản Chương
Tŕnh Thực Hiện được chấp thuận là ‘cái
tát vào nỗ lực của Ṭa Thánh Vatican trong việc làm
trật đường rầy t́nh trạng phát triển của
giới phụ nữ’.
“Olivia Gans, đại diện
tổ chức Liên Hiệp Quyền Sống Quốc Tế
cho rằng bên ḿnh thắng, v́ ngôn từ của Hội
Nghị ở Mễ Tây Cơ vẫn c̣n giữ nguyên.
“Một số người ủng
hộ bản thảo nguyên thủy công nhận là họ
không thắng nổi ở những vấn đề then
chốt. Jan Pronk, một đại biểu ở Nertherlands
phàn nàn rằng: Câu ‘quyền sinh dục’ bị loại
bỏ thật là đáng tiếc”.
Tuy nhiên, theo George Weigel,
một trong những b́nh luận gia hàng đầu về
t́nh h́nh luân lư và xă hội ở Hoa Kỳ, cũng là tác
giả viết cuốn tiểu sử chân thực nhất
về Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II qua cuốn “Witness to
Hope” (Cliff
Street Books, 1999), th́:
· “Việc thảm bại của
chính quyền Clinton cũng như của nhóm liên minh
quốc tế ở hội nghị dân số Cairô chắc
chắn không phải là thành quả của riêng một ḿnh
Ṭa Thánh… Tất cả những yếu tố này (được
tác giả cho biết là
do
khối các quốc gia đệ tam thực hiện từ
hai hội nghị dân số trước đó cho tới
hội nghị lần ba đây),
cộng với những can thiệp của Ṭa Thánh (như những
lần Đức Thánh Cha chính thức công khai liên tục
lên tiếng chống lại tinh thần và h́nh thức của
bản thảo đề ra cho hội nghị dân số ở
Cairô vào tháng 9, qua các Buổi Nguyện Kinh Truyền Tin trưa
Chúa Nhật hằng tuần hay các Buổi Triều
Kiến Chung mỗi ngày Thứ Tư hằng tuần, được
tác giả liệt kê ở trang 723-724, chẳng hạn các
ngày 12/6, 19/6, 22/6, 26/6, 3/7, 10/7, 17/7, 24/7, 31/7, 7/8, 14/8, 28/8/1994,
nhất là lời Ngài viết gửi cho mọi vị
quốc trưởng ngày 19/3/1994, trong đó, cả tác
giả cuốn sách này, ở trang 718, và tác giả của
bài viết trên đây, trang 86, đă trích lại cùng câu: ‘Có
lư do để mà sợ rằng bản thảo ấy có
thể gây ra một t́nh trạng suy thoái về luân lư
khiến cho nhân loại bị thụt lùi một cách
trầm trọng’), đă
giúp vào việc chuyển hướng mẫu thức
kiểm soát của hội nghị dân số ở Cairô từ
‘việc kiểm soát dân số’ đến ‘việc cho
quyền nữ giới’…
Nếu mẫu thức trao quyền cho nữ giới được
phối hợp với việc tái sinh hóa đời
sống gia đ́nh cũng như việc tái xác nhận
quyền năng làm mẹ của nữ giới, hơn là với
cuộc cách mạng dục tính như đang diễn
tiến nơi thế giới các nước phát triển,
th́ trên cầu trường chính trị quốc tế ở
thế kỷ 21 sẽ xẩy ra khác hẳn…
“Hội
nghị Cairô đă diễn tiến như thể hoàn toàn
không đếm xỉa ǵ tới cuộc vận động
của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong những tháng trước
đó…
“Ai
cũng nắm chắc được là trong tương
lai vẫn không thể nào thoát được những
cuộc đối chọi tương tự như
thế xẩy ra… Tuy nhiên, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng
đă đẩy mạnh cái chính yếu của luân lư trong
lập luận về dân số lên chính tâm điểm của
khấu trường thế giới, đă làm thay đổi
được bản chất của cuộc tranh luận
chung này, và đă giúp vào việc chuyển hướng cái
bố cục của cuộc bàn luận từ ‘việc
kiểm soát’ dân số sang việc cho quyền nữ giới.
“Tiến
tŕnh hội nghị dân số ở Cairô đă được
thay đổi là như thế”.
(Witness to Hope
trang 726-727)
Trường hợp điển
h́nh cuộc chiến đấu giữa ánh sáng và bóng
tối tại Hội Nghị Cairô năm 1994 trên đây đă
chứng thực là “bóng tối không át được ánh
sáng” (Jn
1:5). Nói như
thế không có nghĩa là hoàn toàn phủ nhận “quyền
thống trị của tối tăm” (Col 1:13) trên thế gian này, một
quyền thống trị đến nỗi có thể có
thể “át được” (Jn 1:5)
cả chính “ánh sáng thực” (Jn 1:9) là Chúa Kitô: “Đây là giờ của các người
– giờ chiến thắng của tối tăm!” (Lk 22:53), tất nhiên cũng sẽ “át
được” cả “các con là ánh sáng thế gian”
(Mt 5:14) khi tới thời điểm
“được phép” (Rev 13:7; cũng xem 20:3,7) của nó, đến
nỗi, như Người cảnh báo trước “lúc
Con Người tới không biết Người có c̣n
thấy đức tin trên thế gian này nữa chăng?”
(Lk 18:8).
Tuy nhiên, cũng chính “trong
tăm tối ánh sáng đă chiếu soi” (Jn 1:5) thế nào và ánh sáng mới
cần phải chiếu soi cũng như mới là môi trường
thuận lợi để chiếu soi thế nào, (bởi
vậy không phải vô cớ Lễ Chúa Giáng Sinh được
Giáo Hội cử hành vào một đêm tăm tối của
mùa đông trần thế, và không phải ngẫu nhiên Chúa
Kitô đă phục sinh từ âm u cơi chết), th́ Đấng
“đă chiến thắng thế gian” (Jn 16:33), cũng chính là Đấng
sẽ đến phán xét “tất cả mọi dân nước”
thế gian trong ngày chung thẩm (xem Mt 25:31-32), mới mạnh mẽ khẳng định
với đại diện cho thẩm quyền thế gian
bấy giờ là quan tổng trấn Philatô rằng: “Ai
t́m kiếm chân lư sẽ nghe thấy tiếng Tôi” (Jn 18:37).
Chẳng hạn như
những vị đại sứ của một số nước,
khi bắt đầu sứ vụ của ḿnh tại Vương
Quốc Vatican, đă bày tỏ với Vị Lănh Đạo
Thế Giới Công Giáo các lời lẽ sau đây.
· “Là một phụ nữ Phi
Luật Tân đầu tiên làm đại sứ ở Ṭa
Thánh Vatican, tôi thấy công việc của ḿnh thật là một
thách đố lớn lao… Chúng tôi hoàn toàn đồng ư với
tinh thần của Bức Thư Đức Thánh Cha gửi
cho phụ nữ khắp thế giới, cũng như lời
Đức Thánh Cha kêu gọi hăy làm cho phụ nữ
hiện diện nhiều hơn nữa nơi tất
cả mọi lănh vực của xă hội. Những năm
qua, phụ nữ Phi Luật Tân càng ngày càng chiếm được
chỗ đứng trong chính mạch phát triển, chẳng
những như là những thừa hưởng viên mà c̣n như
tác nhân chính và là những người cầm quyền
quyết định tại xứ sở của chúng tôi,
nhiều người trong họ nắm vai tṛ cao cấp
trong Chính Quyền và ở vị trí sáng giá trong lănh vực
riêng tư”.
(Bà Đại Sứ
Henrietta Tambunting de Villa, Cộng Ḥa Phi Luật Tân,
ngỏ lời với
Đức Thánh Cha ngày 9/7/1996,
tuần san
L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ 17/7/1996)
· “Trong những năm
gần đây, chúng tôi đă chứng kiến thấy
việc hoàn toàn sụp đổ của các ư thức
hệ cũng như các thể chế đă cố gắng
đè nén và hủy hoại những giá trị ấy (Bài Giảng Muôn
Thuở của Chúa Kitô).
Chúng tôi công nhận vai tṛ của Ṭa Thánh cũng như
việc đóng góp riêng của Đức Thánh Cha vào các
biến cố lịch sử thực sự đă dẫn đến
cuộc tái sinh t́nh trạng tự do và dân chủ nơi đại
lục của chúng ta đây. Chúng tôi hết ḷng cảm phục
trước việc Đức Thánh Cha liên lỉ quan tâm đến
con người và phẩm vị của họ, cũng như
quan tâm đến việc tôn trọng các quyền lợi của
con người, và các nỗ lực không mỏi mệt của
Đức Thánh Cha trong việc tranh đấu cho công lư và hoà
b́nh trên thế giới”.
(Ông Đại Sứ
Nikolaos Kalantzianos, Cộng Ḥa Hellenic
ngỏ lời với
Đức Thánh Cha ngày 3/6/1996,
tuần san
L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ 12/6/1996)
· “Ṭa Thánh, trong thế giới
tân tiến, cũng như trong quá khứ, đă đóng vai
tṛ như là một lực lượng tranh đấu cho
các giá trị luân lư và thiêng liêng, cũng như cho các
quyền làm người và các quyền tự do căn
bản. Việc tôn trọng các quyền của kẻ khác
là việc trở về với các giới răn cao cả
của Tân Ước – đó là yêu thương tha nhân như
bản thân ḿnh. Chúng ta đang đứng ở biên giới
của ngàn năm thứ ba thuộc kỷ nguyên Kitô giáo, vai
tṛ của Ṭa Thánh trong việc cổ vơ các giá trị
phổ quát này lại càng quan trọng hơn trước
nữa…
“Ṭa Thánh cũng là một
tay xây cất những cây cầu liên kết. Nếu tiếng
Latinh của tôi không sai, th́ đó là ư nghĩa của
khẩu hiệu Pontifex Maximus, một khẩu hiệu xưa
hơn cả chính Ngôi Giáo Hoàng nữa. Việc xây cất
những cây cầu liên kết giữa các Chính Quyền và
dân chúng, giữa những chi nhánh khác nhau của gia đ́nh
Kitô giáo, cũng như giữa Kitô hữu với các người
ngoài Kitô giáo, là một việc làm rất quan trọng trong
việc bảo tŕ ḥa b́nh và nền tảng vững
chắc. Đức Thánh Cha đă thực hiện những
nỗ lực to tát, đặc biệt là bằng việc
du hành tới rất nhiều xứ sở – gần đây
nhất là đến Croat – để gặp gỡ rất
nhiều quốc gia và các dân tộc khác nhau, hầu có
thể nắm chắc được việc xây cất
lên những cây cầu liên kết, và một khi đă được
xây cất lên th́ các cây cầu ấy phải vững vàng
chắc chắn”.
(Ông Đại Sứ
Eamon Ó Tuathail, Ái Nhĩ Lan
ngỏ lời với
Đức Thánh Cha ngày 23/10/1998,
tuần san
L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ 28/10/1996)
“Những ai t́m kiếm chân
lư” chẳng những sẽ nghe tiếng Chúa Kitô qua
Vị Mục Tử Tối Cao mà c̣n qua các con chiên trong đàn
Giáo Hội nữa, như trường hợp của
vị thủ tướng Hồi Giáo Pakistan, ông Nawaz Sharif, (theo tường
thuật của Fr. James Channan, O.P., tuần san L’Osservatore
Romano, ấn bản Anh ngữ 21-1-1998) đă khoản đăi một
bữa tiệc Giáng Sinh đặc biệt tại Phủ
Thống Đốc ngày 22/12/1997, để tỏ ḷng
cảm tạ cộng đồng Kitô hữu. Ông đă
hết ḷng cảm mến cộng đồng Kitô hữu đă
đóng vai tṛ tích cực và xây dựng trong những lănh
vực khác nhau để phát triển đất nước
Pakistan. Ông cũng ca ngợi những việc phục vụ
của các nhà lănh đạo Kitô giáo đă v́ nhân dân Pakistan
hỗ trợ trong phong trào tự do. Ông nói rằng những
người Kitô hữu đă đóng góp vào việc kiến
tạo đất nước Pakistan cũng tương đương
như là các anh em Hồi giáo vậy.