Kitô Giáo
Tại Âu Châu
K |
itô
Giáo tại Âu Châu gắn liền với lịch sử và
văn hóa của các nước Âu Châu, làm nên căn tính chung
của dân Âu Châu.
Sau
đây là những lời nhận định của Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II trong Bức Tông Thư ban hành ngày 1/10/1999,
ngày khai mạc Thượng Hội Giám Mục Âu Châu
lần hai, một văn kiện “Motu Proprio” để tuyên
bố 3 vị Thánh Nữ, Thánh Brigita người Thụy Điển,
Thánh Catarina Sienna và Thánh Têrêsa Bênêđicta Thánh Giá, những
vị đồng Quan Thày của Âu Châu (với 3 Thánh Nam là
Thánh Bênêđictô, Cyrilô và Mêthôđiô):
Tuy
nhiên, mặc dù tân tiến về khoa học, kỹ
thuật và kinh tế cũng như thăng tiến về
nhân bản, nhân sinh và nhân quyền, Âu Châu ngày nay đă hoàn
toàn thay đổi, không c̣n như ngày xưa nữa, đă
tỏ ra thiên về tiêu cực hơn là tích cực, tiêu
cực về đủ mọi phương diện, tâm lư,
luân lư lẫn đạo lư.
· “Chúng ta cũng nhận
thấy có một số t́nh trạng làm suy yếu đời
sống Giáo Hội ở Âu Châu hôm nay đây, những t́nh trạng
không cho phép Giáo Hội thực hiện một việc
rất khẩn trương là minh chứng Chúa Kitô và Phúc Âm
của Ngài.
Trước hết, chúng ta
không thể không nh́n nhận rằng, chính Kitô hữu,
nhất là ở phía Tây Âu, nhiều lúc đă bị nhập
nhiễm bởi tinh thần nhân bản nhất thời,
bỏ đức tin sống động, thậm chí c̣n đi
xa hơn nữa, đến độ, không phải là ít
trường hợp xẩy ra, đă hoàn toàn mất đức
tin một cách đáng tiếc. Chúng ta cũng không tỏ
ra cho thấy là chúng ta đă thắng được khuynh
hướng giải thích đức tin Kitô giáo theo đường
lối thế gian như là một chính sách cần
thiết cho việc tổ chức tốt đẹp
hơn những sự thuộc về thế gian này.
...…Thật
vậy, hầu hết mọi vấn đề căng
thẳng Giáo Hội phải đối diện vào lúc này đây
tại Âu Châu được bắt nguồn từ t́nh
trạng khủng hoảng về Sự Thật và đức
tin. T́nh trạng khủng hoảng này lại gây ra t́nh
trạng phân mảnh trầm trọng về tín lư, ảnh
hưởng đến cả lương tâm tín hữu.
Cuộc khủng hoảng
về ơn gọi linh mục cũng như tu sĩ
vẫn chưa vượt qua được. Âu Châu,
một Âu Châu không xưa lắm, đă sai các linh mục. đan
sĩ nam nữ đi đến các xứ truyền giáo cũng
như đến các Giáo Hội trẻ trên khắp thế
giới, ngày nay lại có ít ơn gọi hơn các đại
lục khác.
Đồng thời, đại lục này c̣n đang đương
đầu với những khó khăn hơn trong việc
cung cấp các vị thừa tác viên có chức thánh cho các
cộng đoàn địa phương của ḿnh. Nhiều
đan viện bị bỏ hoang và đang biến mất.
Công việc truyền bá phúc âm hóa và giáo dục lớn lao
của các ḍng tu cũng như các hội ḍng th́, hoặc là
bị giảm sút trầm trọng, hay là bị giảm sút
tới chỗ làm những ǵ có thể trong việc cộng
tác với cá nhân giáo dân hay với các tổ chức giáo dân,
hoặc là theo nhau biến mất ở một số
miền hay ở một số lănh vực. Chắc chắn
những lư do về t́nh trạng báo động này có
nhiều và phức tạp. Tuy nhiên, căn nguyên sâu xa
nhất của nó thực sự được thấy
nơi t́nh trạng tục hóa trong Giáo Hội, tức là
nơi việc giảm sút hay bỏ mất Chân Lư đức
tin trong đời sống riêng tư cũng như trong các
dấn thân hoạt động về mục vụ.
Sau nữa, chúng ta phải nh́n
nhận rằng, t́nh trạng tục hóa đời
sống Kitô hữu trong Giáo Hội, ngoài việc
trống rỗng Chân Lư về đức tin được
đề cập đến trên đây làm suy giảm sâu
nặng đời sống của Giáo Hội, c̣n có cả
một cuộc khủng hoảng nặng nề
về lương tâm cũng như về các nguyên tắc
luân lư Kitô giáo, làm nguy hại đến việc hiệp
nhất của giáo hội và làm cho việc truyền bá phúc
âm hóa trở thành bất khả dĩ...
Một số người
Công Giáo cảm thấy rằng, việc kêu gọi tuân
giữ các giá trị tuyệt đối về luân lư không
c̣n xứng hợp với tâm thức về con người
nữa, một tâm thức thiên về bản tính tự do và trách
nhiệm của con người, cũng như thiên về
việc tôn trọng lương tâm cá nhân. Bị ảnh
hưởng bởi khuynh hướng tương đối
về lịch sử và quan niệm hẹp ḥi về lư trí
con người, c̣n có nhiều người, ít là trong
thực hành, chối bỏ Huấn Quyền của Giáo
Hội thực sự là mẫu mực về các vấn đề
luân lư. Trái lại, họ ghép cho Giáo Hội vai tṛ kêu
gọi vậy thôi, một vai tṛ chỉ thêm vào công việc
cơ bản về luân lư, thứ luân lư mà, đối với
một số người, là công việc tranh luận
thuần lư sự.
Với những chủ
trương như vậy, không lạ ǵ việc
giảng dạy về thần học, mâu thuẫn một
cách trắng trợn với tín lư của Giáo Hội, đang
được cổ vơ, nhất là về những
vấn đề liên quan đến các quyền lợi
căn bản của con người cũng như đến
việc đồng hiện hữu chính đáng của nhân
loại. Một t́nh trạng như vậy là một t́nh
trạng đáng lo ngại và thậm chí càng gây thêm bất đồng
trong giáo hội (x. Thánh Bộ Tín
Lư Đức Tin, Donum Veriatatis năm 1990, nhất là các
đoạn 32, 38).
Căn nguyên của t́nh
trạng này cũng là việc suy giảm nơi quan niệm
về nhân loại học, một khoa nhân loại học
rất xa cách với quan niệm của Kitô giáo về nhân
loại. T́nh trạng lu mờ về Thiên Chúa nơi
lương tâm tân tiến ngày nay đă dẫn con người
đến việc chấp nhận quá trớn cái tính cách
chủ quan như là một nguồn mạch và là nền
tảng của chân lư. Từ quan điểm này,
tự do, được quan niệm như nguồn
mạch tối hậu của tất cả mọi sự
thật, để rồi cuối cùng nó được
coi như là một bà chủ và là nữ hoàng của thế
giới; bà chủ này tự ư đặt ra những thứ
lề luật
để điền khuyết cho tất cả mọi
lề luật. Như thế, chúng ta có lấy làm lạ
lùng hay chăng khi thấy xẩy ra là, chẳng những
việc cá nhân vi phạm đến quyền lợi của
con người, mà c̣n cả việc ‘Chính Quyền tàn
bạo’ dùng kiểu cách và hoạt động để
tạo nên các giá trị hay tiêu chuẩn theo ‘quyền
chủ trị’ của ḿnh nữa? Chủ nghĩa quốc
gia và cộng sản đă là những tiêu biểu của
loại tổ chức Chính Quyền này...
Sau hết, việc suy yếu
về Chân Lư đức tin và lương tâm luân lư Kitô giáo
tự nhiên làm phát xuất ra một t́nh trạng
yếu kém về khả năng truyền bá phúc âm hóa
của Giáo Hội”.
·
“Tôi thấy
nhiều người Công Giáo Âu Châu, và cả những
người Công Giáo ở Bắc Mỹ Châu với một
con số ít hơn, ngần ngại nói về đức
tin của ḿnh – không phải là một ngần ngại
của cá nhân khiêm tốn, hay của người tránh né
không dám xâm phạm đến phạm vi tư riêng của
người khác, mà hầu hết là v́ xấu hổ,
một thái độ cho rằng đức tin của đạo
đă lỗi thời và tốt nhất là nên giữ lấy
cho ḿnh thôi”.
·
“Tây Âu đang
trải qua một cuộc khủng hoảng thiêng liêng, và Đông
Âu, thay v́ được tái sinh thiêng liêng cần có, lại
bị ô nhiễm bởi trào lưu hưởng thụ,
lập lại những khía cạnh tồi tệ nhất
của Tây Âu, cũng như bị nhập nhiễm bởi
những xung khắc về liên tín và liên tôn. Giữa
việc phát triển về văn minh và các giá trị
về tinh thần có một khoảng cách lớn. Âu Châu
phải chọn lựa những ǵ cho thấy tương
lai của ḿnh. Thượng Hội Giám Mục này phải đặt
ra những vấn nạn như: ‘Hỡi Âu Châu,
ngươi phải nói ǵ về ḿnh đây? Chúa Kitô, Đấng
Cứu Thế duy nhất, Đấng đang có, đă có và
măi có, có c̣n hiện diện trên con đường
ngươi đi nữa chăng? Đức tin của
ngươi có c̣n chuyên chính và chủ động nữa
chăng?”
·
“Âu Châu ngày nay cho
thấy nhiều thắng lợi trong ngành khoa học mang
lại an sinh cho một số quốc gia, một nền an
sinh do chính dân chúng xây dựng lên, có khả năng và khôn
ngoan, thế nhưng, Âu Châu cũng đang chết đi
bởi t́nh trạng xuống dốc về dân số v́
nhiều gia đ́nh không c̣n tỏ ra muốn có sự
sống nữa. Phải chăng đây là hoa trái
của một kiểu sống buông trôi, hay của một
dự án có chiến thuật theo một ư hệ muốn t́m
cách khai thác cái tôi của con người, khi gieo rắc
những lư tưởng sai lầm làm tê bại đến
cả việc truyền bá phúc âm hóa nữa?”
·
“Theo quan điểm
tôn giáo, Âu Châu càng ngày càng trở nên đa dạng. Âu Châu
không c̣n là một Âu Châu ngày xưa nữa, bởi dân chúng từ
Đông Âu cũng như từ các quốc gia Phi Châu và Á Châu
càng ngày càng tuôn đến Tây Âu tạo nên t́nh trạng đa
dạng về chủng tộc, văn hóa nhất là về
tôn giáo. Đặc biệt đáng kể là việc
hiện diện của các người Hồi Giáo. C̣n có
cả những người Ấn Giáo, Phật Giáo và
những người thuộc các tôn giáo khác nữa. H́nh
ảnh này c̣n phức tạp ở việc xuất hiện
những giáo phái, những nhóm tôn giáo mờ ám, những phong
trào tôn giáo tương tự như vậy, những phong
trào tŕnh bày một đường lối sống đạo
mập mờ hay cho thấy việc hứa hẹn hiện
thực bản thân ḿnh, hoặc chỉ là những phong trào
dung hợp từ những tôn giáo hay giáo phái có sẵn... Âu
Châu theo truyền thống là một Âu Châu Kitô Giáo. Nay Âu Châu
càng ngày càng trở nên một Âu Châu đa dạng về tôn
giáo”.
·
“Thảm
cảnh đặc biệt xẩy ra nơi đại
lục của chúng ta là có hai thể chế độc
quyền đă phát hiện tại Âu Châu trong thế kỷ
của chúng ta đây. Theo ư nghĩ của tôi,
thảm cảnh này là do hai yếu tố căn bản:
1.
Chủ
trương về lư thuyết của những thể
chế này coi trọng nhất là các giá trị tương đối,
như cộng đồng chủng tộc hay xă hội vô
giai cấp. Bởi thế, các tân ngẫu tượng mới
xuất hiện ở xă hội Châu Âu; những ngẫu
tượng cần có những con vật tế thần bởi
các cuộc diệt chủng chưa hề xẩy ra trước
đó.
·
“Âu Châu trong
thế kỷ này đă bị đóng đanh bởi
những thứ lư thuyết tôn sùng các chủ nghĩa
hưởng thụ, quốc gia quá khích và Đức
Quốc Xă. Một xă hội đa văn hóa không chấp
nhận những chủ trương như vậy... Trong
một xă hội đa văn hóa, chúng ta lựa chọn các
giá trị từ các quầy hàng ở trên thị trường.
Tại sao chúng ta lại không thể đặt Chúa Kitô lên
trên hết?”
·
“Việc di dân
Hồi Giáo ở Âu Châu là một yếu tố mới:
nguyên ở Pháp đă có từ bốn đến năm
triệu người, một con số tương đương
với những người Công Giáo Pháp sống đạo.
Lịch sử cho chúng ta thấy rằng việc sống
liên kết thuận ḥa giữa Hồi Giáo và Kitô Giáo là
một việc bấp bênh (như ở Bắc Phi,
Cận Đông, Tây Ban Nha, Balkans). Một Giáo Hội không
vững niềm tin của ḿnh (như những người
theo bè rối Nestoriô, bè rối Monophysite ở Syria và Ai
Cập, bè rối Donatism ở Magreb, bè rối Ariô ở Tây
Ban Nha) sẽ gặp nguy hiểm ở chỗ đi theo
Hồi Giáo. Ngày nay, có một số tác giả Công Giáo đă
ca tụng các giá trị của Hồi Giáo tới độ
làm mất đi giới tuyến giữa Thánh Kinh và Koran. Ngoài
ra, tại những miền ngoại ô toàn ṭng Hồi Giáo,
nhiều Kitô hữu cảm thấy bị đe dọa, ở
chỗ có thể đi đến những phản ứng
bất lợi...”.
·
“Tiếc thay, ở
Bosnia và Hercegovina, luật mạnh được yếu
thua vẫn c̣n đó. Hầu như tất cả
mọi quyền lợi và quyền tự do căn bản
của con người đều bị vi phạm. Về
phía những vị chức trách đối với vấn đề
chính trị quốc tế hay đối với việc
giải quyết nội bộ lại không muốn làm ǵ
cả. Đối với nhiều nhà chính trị này,
họ không coi những người bị tước đoạt
quyền lợi ấy là người nữa! Đây
thực là một hổ nhục cho dân Châu Âu ở vào
cuối thế kỷ 20 này! ... Chiến tranh ở xứ
Yugoslavia trước kia là một dấu hiệu rơ ràng cho
thấy t́nh trạng khủng hoảng nơi các giá trị
của Châu Âu”.
·
“Trong thập
niên này, h́nh ảnh con người, ở Đông Âu cũng
như Tây Âu, đă bị hư hại nặng nề. Di
sản Kitô giáo được chôn vùi kỹ lưỡng.
T́nh trạng tách ĺa truyền thống là một việc
hiển nhiên, cả Đông Âu cũng như Tây Âu. Nhiều
người không c̣n biết đến đức tin và Giáo
Hội từ bên trong nữa; họ không sâu xa nắm
vững đức tin và Giáo Hội nữa, đặc
biệt là v́ bị tuyên truyền sai lạc. Bởi
thế, trước hết cần phải dấn thân
nhiều hơn nữa cho việc huấn luyện Kitô
hữu, để một lần nữa làm cho các giá
trị đức tin được sáng tỏ và không ngừng
vun xới chúng.
Hào hứng chạy theo
chiều hướng cá nhân chủ nghĩa quá trớn,
cả ở Đông Âu cũng như Tây Âu, trong mấy
năm gần đây, người ta đă đi t́m ẩn
náu nơi những quan niệm và lỗ hổng chủ quan
về tôn giáo, là những ǵ có vẻ sẽ giúp cho họ
tiến đến chỗ măn thân, cũng như đến
đặc tính riêng trong việc đương đầu
với các áp lực bên ngoài cùng với những nỗ
lực khác nhau để thắng vượt các áp lực
ấy.
Thực tế cho thấy, t́nh trạng này không hiến cho
con người cái cảm giác của một cuộc
sống vững chắc, của một căn tính bản
vị bền chặt, của một hướng dẫn
giá trị. Nếu con người buông thả theo chiều
hướng lan tràn của cá nhân chủ nghĩa, họ
sẽ không t́m thấy bản thân ḿnh mà chỉ t́m thấy
một bản sao của những xu hướng xă hội
chung vậy thôi. Những thay thế này chỉ càng cho con
người thêm thất vọng”.
·
“Âu Châu, lục địa
đầu tiên được truyền bá phúc âm hóa,
là một quan niệm về văn hóa và lịch sử
hơn là một vị thế thuần túy về địa
dư. Nó được sinh ra từ việc Kitô Giáo hóa
các dân tộc Đức và Slav, cũng như từ
việc kết nạp với nhiều dân tộc của
miền Địa Trung Hải. Chúng ta phải nhớ
rằng, trong lịch sử Châu Âu có ba cuộc phân rẽ
xẩy ra và chúng ta c̣n thấy các thương tích của nó:
đó là cuộc phân rẽ năm 1054 để
giải quyết lưỡng tính hiện hữu trong
một đức tin duy nhất giữa Byzantine và Rôma; phong
trào Cải Cách phân rẽ Giáo Hội Tây Phương; Thời
Minh Tri phân rẽ lư trí khỏi Mạc Khải và đặt
khoa học chống lại đức tin. Cuộc tự
ḿnh xâu xé xẩy ra qua hai cuộc thế chiến cũng
cần phải được thêm vào những phân rẽ
trên đây. Âu Châu được sinh ra và phát triển
trong việc nắm giữ cùng một đức tin chung,
ngày nay, đang chịu đựng v́ việc phân rẽ Kitô
Giáo ấy”.
·
“Âu Châu là
một mẫu pḥng thí nghiệm để xem diễn
tiến đối chọi giữa đức tin và t́nh
trạng tân tiến...
Vấn đề đức
tin ở Âu Châu trước hết là một vấn đề
về Kitô học.
Chúa Kitô có thực sự là Con Thiên Chúa hay không? Người
cũng có phải là Đấng Cứu Thế của chúng
ta chăng?”.
Để phục hồi
một Âu Châu Kitô Giáo mẫu mực và sinh động, Âu
Châu cần phải được tái truyền bá phúc âm hóa, qua những việc làm được
cho rằng cần thiết và hiệu nghiệm tiêu biểu
sau đây:
“Ngày nay, việc hiệp
nhất không thể nào chỉ được đặt
trên những yếu tố về giao thương hay trên
những qui chế về cục bộ. Chúng ta cần đến
một bậc thang giá trị, trên đó, con người, loài
được Chúa Giêsu Kitô cứu chuộc, ở cao
hơn bất cứ một giá trị về chính trị
hay kinh tế nào. Để có được một t́nh
trạng hiệp nhất vững bền và liên tục cho
một tương lai Châu Âu, chúng ta phải minh định
những nền tảng về nhân loại học của
nó, về các yếu tố đạo đức của nó,
về cấp trật giá trị tinh thần của nó.
Không có căn bản này sẽ không có hiệp nhất. Qua
hai ngàn năm, Kitô Giáo đă h́nh thành di sản tinh thần
cho địa lục của chúng ta, chia sẻ hy vọng
cũng như thảm kịch của nó. Nhiệm vụ
của chúng ta là tiếp tục sứ mệnh này, bằng
việc t́m kiếm một khoa nhân bản con người
và bằng việc giảng dạy cùng một Phúc Âm hy
vọng trong một tương quan sâu xa mới mẻ
của cuộc tân truyền bá phúc âm hóa”.
tuần san L’Osservatore
Romano, ấn bản Anh ngữ, 13/10/1999, trang 21-22)
·
“Ở Tây Âu, đời
sống chúng ta bị vây bọc bởi một nền
văn hóa giống như một khu vườn
mọc nhiều loại cây độc hại, như
chủ nghĩa hưởng thụ buông thả, chủ
nghĩa duy lạc, niềm kiêu hănh bất cần phục
vụ ai.
Thế nhưng, mỗi
một thứ cây độc hại này lại có một
chất kháng độc riêng. Tất cả những
chất kháng độc này không phải là bất lợi.
1.
Dân Âu Châu hiện đại có một nỗi khao khát khôn
thỏa đối với hạnh phúc, đó là một
tuyệt phúc theo vật chất, cả về số lượng
cũng như về cấp thời. Thế nhưng,
nỗi khao khát này là một kêu cầu mănh liệt lên cùng
Giáo Hội trong việc ‘hát lên Phúc Âm theo âm điệu
hạnh phúc’. Những giáo phái đă thừa biết được
điều này. Nếu đáp ứng của con người
hiện đại đối với nỗi khao khát
hạnh phúc này thường sai lầm th́ thật sự sứ
điệp của Chúa Kitô chính là phương dược
trị liệu và phải là sứ điệp làm cho chúng ta
được hạnh phúc.
2.
Địa lục của chúng ta đang loại trừ đi
những phản kỵ của khổ đau và sự
chết. Thế nhưng, nhân loại lại vẫn cứ
hết sức tiếp tục đè nén tiếng kêu âm
thầm muốn sống và muốn sống muôn đời
này. Giáo Hội sẽ được lợi điểm để
mạnh mẽ nói lên tính cách cánh chung về sự sống đời
đời và về cuộc phục sinh...
4. Đối với
những người đương thời của chúng ta
th́ tất cả mọi tôn giáo đều xứng đáng
như nhau, và Chúa Kitô chỉ là một trong những vị
tiên tri cao cả nhất mà thôi. Nói đến bản tính
chân thực của Người mà nói như thế th́
thật là thiếu sót. Chưa bao giờ trong gịng lịch
sử thần học lại xẩy ra vấn đề
về duy nhất tính của Chúa Kitô được tŕnh bày
một cách nhức nhối như vậy. Điều này
sẽ thôi thúc chúng ta cần phải suy nghĩ và xác
nhận sâu xa hơn niềm tin của chúng ta vào Vị Thiên
Chúa Làm Người này.
5. T́nh trạng
trống rỗng về đạo nghĩa, một đặc
tính của thời đại chúng ta, được
tỏ ra qua nỗi khao khát của nó hướng về
nội tâm và tĩnh niệm, là một dấu hiệu
tốt. T́nh trạng này thường biến việc
cầu nguyện và phụng thờ trở thành một thứ
văn hóa bản ngă. Thế nhưng, nó cũng là một
thứ trạm phóng để thăng tiến, hướng
đến một sự thật mầu nhiệm không
tự khép ḿnh lại mà là vươn ḿnh lên Thiên Chúa.
6. Hồi giáo đă
hiện diện ở Âu Châu nhiều hơn bao giờ
hết. Kiểu Hồi Giáo có những độc đoán
về niềm tin, về ngôn ngữ, văn hóa, và quyền
lực kinh tế cũng như về chính trị, là
một thực thể khó cho việc nói chuyện để
trao đổi, thậm chí không thể nói chuyện ǵ được.
Cũng có kiểu Hồi Giáo giúp chúng ta tái nhận thức
cảm quan về siêu việt tính của Thiên Chúa, của
việc cầu nguyện và chay tịnh, cũng như
của tác dụng đạo giáo trên đời sống xă
hội.
Trong nhiều xứ sở,
Giáo Hội đang trở thành thiểu số và thiếu
nhân sự, phương tiện tài chính, quyền hành và
thế lực. Thiên Chúa có thể đang dẫn chúng ta tới
một loại ‘lưu đầy Babylon’ tân thời, để
dạy chúng ta biết khiêm tốn hơn và sống tín lư
về quyền toàn năng của ân sủng hơn. Đối với ‘những
ai ngồi ở bờ sông Babylon’ th́ không có ǵ là bất lợi
cả.
Nếu
quả thực ‘đêm tối thiêng liêng’ có lẽ đang
phủ xuống khắp cả Châu Âu, th́ chúng ta hăy bắt
chước các cô trinh nữ khôn ngoan và hăy canh thức, v́
chàng rể đang tới. Thế nhưng, canh thức không
có nghĩa là sợ hăi hay đào thoát. Chúng ta hăy cầm lấy đèn
của ḿnh cùng với dầu. Chúa Kitô sẽ cung cấp
dầu (Phúc Âm) cho chúng ta. Chúng ta hăy chúc tụng Người.
Tuy nhiên, những ngọn đèn (hội nhập văn hóa)
là dân chúng của hết mọi thời sử, thành
phần ngày ngày hiến ḿnh làm cơ hội cho chúng ta. Chúng
ta cũng phải biết ơn cả thời đoạn
của chúng ta nữa, v́ mọi sự không quá
bất lợi đâu”.
·
“Ở Âu Châu
ngày nay người ta đang t́m kiếm ư nghĩa cuộc
sống và niềm hy vọng, cho dù ngày ngày họ sống
‘như không có Thiên Chúa’. Việc rao giảng về
‘bốn sự sau hết’ có thể nói lên một số
những vấn đề cùng với những nỗi lo âu
sâu xa nhất đang thách đố ở thời buổi
ngày nay: nghi ngại và sợ hăi sự chết; khúc mắc
về việc phán xét; ham muốn về thiên đàng; kinh
khiếp trước hỏa ngục... Dân Âu Châu
chúng ta là những chuyên viên khéo kiến tạo nên hỏa
ngục trên trái đất này, qua những cuộc chiến
tranh và những trại tập trung... Việc rao
giảng về ‘bốn sự sau hết’, bằng một
cách thức mới mẻ, chứ không sử dụng chúng để
gây nên sợ hăi hay khiến phải giữ luật, là
một phần quan trọng trong việc tân truyền bá phúc
âm hóa. Những sự thật này là sứ điệp
hy vọng và có ư nghĩa cho cuộc sống mà dân chúng ngày
nay hết sức mong ước”.
·
“Ngày nay, theo báo
chí, dân số trên trái đất này đă tiến đến
con số sáu tỉ người. Hôm nay đây có chừng
một tỉ người Công Giáo trên thế giới và
quăng cùng một con số người Kitô hữu khác,
thế nhưng, hai phần ba loài người vẫn chưa
biết đến Chúa Giêsu Kitô theo đức tin.
C̣n một ít ngày nữa thôi
chúng ta sẽ cử hành hai ngàn năm kỷ niệm
việc giáng sinh của Đấng ‘v́ loài người chúng
tôi và để cứu rỗi chúng tôi đă từ trời
xuống thế trong ḷng Trinh Nữ’, như lời tuyên xưng
của Kinh Tin Kính. Bởi thế, Cuộc Kỷ Niệm
Mừng Chúa Giáng Sinh chính là cuộc kỷ niệm của
việc truyền giáo vậy.
Âu Châu được Thiên Chúa
ưu ái đặc biệt, v́ nó thực sự đă được
truyền bá phúc âm hóa hoàn toàn, và từ xa xưa đă
nhận được sứ điệp cứu độ. Ngày nay Âu Châu này có quên
mất tặng ân đức tin của ḿnh hay chăng? Nó có
bỏ qua không thực hiện việc ban tặng ân đức
tin ấy cho các dân tộc khác chưa biết đến
Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, chính Đấng đă phán ‘Ngài
muốn mọi người được cứu độ
và nhận biết chân lư’ (1Tim 2:4) hay chăng?
Trong quá khứ, Âu Châu đă
liên tục và hăng say đóng góp vào việc truyền bá
phúc âm hóa cho các địa lục khác. Nhờ các nhà thừa
sai nam nữ của Âu Châu này, Mỹ Châu Latinh đă có 90%
Công Giáo. Phi Châu cho biết con số tăng từ 2
triệu tới 110 triệu tín hữu trong một thời
gian ngắn của thế kỷ chúng ta đây. Đại
Dương Châu đạt tới con số chừng 30%
trong tổng số dân, và Á Châu đă bị đẫm
mồ hôi cùng máu đào của rất nhiều vị thừa
sai sẽ sinh hoa kết trái trong tương lai. Vấn đề
truyền giáo ad gentes (cho các dân tộc) cũng cần phải được
tiếp tục cả ở Âu Châu nữa...”