Giáo Hội
Tại Á Châu
Á |
Châu là một đại lục
diễm phúc v́ được Thiên Chúa dùng để mạc
khải và hoàn thành dự án cứu độ của Ngài.
·
“Giáo Hội
Tại Á Châu hát lên những lời chúc tụng ‘Thiên Chúa cứu
độ’ (Ps
68:20), v́ miền
đất Á Châu, qua những con người nam nữ của
ḿnh, đă được Ngài chọn làm nơi khởi
sự dự án cứu độ của Ngài. Thực
vậy, chính ở tại Á Châu, Thiên Chúa đă tỏ ḿnh
ra và đă hoàn thành mục đích cứu độ của
Ngài ngay từ ban đầu. Ngài đă hướng
dẫn các tổ phụ (x. Gen 12)
và đă kêu gọi Moisen trong việc giải phóng dân của
Ngài (x.
Ex
Bởi Chúa Giêsu được
sinh ra, sinh sống, chết đi và sống lại từ cơi
chết ở Thánh Địa mà phần đất nhỏ
bé Tây Á đó đă trở nên một mảnh đất hứa
hẹn và hy vọng cho toàn thể loài người. Chúa Giêsu nh́n nhận và yêu thương
mảnh đất này. Người đă biến lịch
sử của nó thành lịch sử của ḿnh, những khổ
đau và niềm hy vọng của dân ấy thành khổ đau
và niềm hy vọng của ḿnh. Người đă yêu thương
dân ấy và đă tuân giữ các truyền thống và di
sản Do Thái. Thật thế, từ xa xưa Thiên Chúa đă
chọn dân này và đă tỏ ḿnh ra cho họ để dọn
đường cho Đấng Cứu Thế đến.
Và rồi từ mảnh đất này, qua việc rao
giảng Phúc Âm bằng quyền năng Chúa Thánh Thần,
Giáo Hội đă ra đi chiêu mộ ‘các môn đồ nơi
mọi dân tộc’
(Mt 28:19). Cùng với Giáo Hội
khắp thế giới, Giáo Hội Tại Á Châu bước
qua ngưỡng cửa của ngàn năm thứ ba Kitô Giáo,
chiêm ngưỡng tất cả những ǵ Thiên Chúa đă
thực hiện từ ban đầu cho tới nay, với
một nhận thức mạnh mẽ là: ‘Thánh Giá được
trồng trên đất Âu Châu trong thiên niên thứ nhất,
và trong thiên niên thứ hai trên đất Mỹ Châu và Phi Châu
thế nào, th́ chúng ta cũng có thể nguyện cầu để
trong ngàn năm thứ ba sẽ gặt hái một vụ mùa đức
tin dồi dào nơi đại lục rộng lớn và
sinh động này’ (ĐTC Gioan Phaolô II, Diễn Tử ngỏ cùng
Hội Nghị Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu ngày
15/1/1995, đoạn 11: Insegnamenti XVIII, 1/1995, 159)”.
(ĐTC Gioan Phaolô
II, Tông Thư Giáo Hội Tại Á Châu Ecclesia In Asia, đoạn
1:
tuần san L’Osservatore
Romano, ấn bản Anh ngữ, 10/11/1999)
Á
Châu là một đại lục lớn nhất thế giới
và đông dân nhất hoàn cầu, một dân thiên về đạo
nghĩa, nơi phát xuất ra mọi thứ đạo giáo
lớn chính yếu trên thế giới:
·
“Á Châu là một
địa lục lớn nhất trái đất và là nơi
cư ngụ của gần hai phần ba dân số thế
giới, nguyên Trung Hoa và Ấn Độ đă
chiếm gần nửa tổng số dân trên hoàn vũ. Đặc
tính nổi bật nhất của địa lục này là
những nét khác nhau của dân chúng, thành phần là ‘con cháu thừa
hưởng các nền văn hóa, tôn giáo và truyền thống
cổ kính’ (Propositio, đoạn 3). Chúng ta không khỏi
lạ lùng trước toàn khối dân Á Châu cũng như trước
một bức họa phức hợp cấu tạo nên bởi
nhiều thứ văn hóa, ngôn ngữ, niềm tin và
truyền thống, là tất cả những ǵ bao gồm
cả một phần trọng yếu nơi lịch
sử cũng như truyền thống của gia đ́nh
nhân loại như thế.
Á Châu cũng là một cái nôi của
các tôn giáo chính trên thế giới, như Do Thái Giáo, Kitô Giáo,
Hồi Giáo và Ấn Giáo.
Nó là nơi sinh trưởng của nhiều truyền
thống về tâm linh khác nữa, như Phật Giáo, Lăo
Giáo, Khổng Giáo, Zoroastrianism, Jainism, Sikhism và Nhật Giáo.
Nhiều triệu người cũng theo các đạo giáo
cổ truyền hay đạo giáo bộ lạc, ở mức
độ khác nhau về lễ nghi được ấn định
cũng như về giáo huấn chính thức của đạo
giáo. Giáo Hội hết sức tôn trọng những
truyền thống này và t́m cách để đối
thoại chân thành với các môn đồ của các
truyền thống ấy. Các gía trị về đạo
nghĩa nơi những truyền thống này đang đợi
chờ để được nên trọn nơi Chúa Giêsu
Kitô.
Dân Á Châu hănh diện về các
gía trị đạo nghĩa và văn hóa của ḿnh, như
gíá trị về việc yêu thích thinh lặng và chiêm
niệm, về tính chất đơn thành, thuận ḥa,
thanh thoát, bất bạo động, tinh thần cần cù
làm việc, kỷ cương, sống tiết kiệm,
khao khát học hỏi và t́m hiểu triết lư (x.
Lineamenta, đoạn 3).
Họ tha thiết giữ các gía trị về việc
tôn trọng sự sống, về ḷng thương cảm đối
với hết mọi sự vật, về việc
sống gần gũi với thiên nhiên, về ḷng hiếu
kính đối với cha mẹ, với người già
cả và với ông bà tổ tiên, cũng như về
cảm quan cộng đồng cao độ (x. ibid.). Họ đặc
biệt coi gia đ́nh chính là nguồn sinh lực sống c̣n,
là một cộng đoàn quyện chặt lấy nhau
bằng một cảm quan liên kết mạnh mẽ (x. Propositio, đoạn
32). Các người
dân Á Châu nổi tiếng về tinh thần khoan ḥa theo tôn
giáo và về việc chung sống thuận ḥa. Tuy không
thể phủ nhận được là có những căng
thẳng gay cấn và những xung khắc nẩy lửa đă
xẩy ra, người ta vẫn có thể nói rằng, Á Châu
thường tỏ ra cho thấy nó có một khả
năng đặc biệt trong việc dung hợp, cũng
như có một tính cách cởi mở tự nhiên, đối
với việc hỗ tương làm cho các dân được
phong phú trong một t́nh trạng đa dạng về tôn giáo
và văn hóa. Ngoài ra, mặc dù bị ảnh hưởng bởi
trào lưu tân tiến hóa và thế tục hóa, các tôn giáo Á
Châu vẫn đang tỏ ra cho thấy những dấu
hiệu sinh động cả thể, cũng như cho
thấy có khả năng canh tân cải tiến, như được
thấy xẩy ra nơi những phong trào đổi mới
thuộc các nhóm tôn giáo khác nhau. Nhiều người,
nhất là giới trẻ, đang thực sự cảm
nghiệm thấy một nỗi khát khao những giá trị
thiêng liêng, như rơ ràng chứng tỏ nơi việc
xuất hiện của các phong trào đạo giáo mới
mẻ.
Tất cả những điều
này nói lên một minh thức thiêng liêng bẩm sinh và khôn ngoan
về luân lư nơi hồn thiêng Châu Á, và là cốt lơi cho
cảm quan ‘là dân Á Châu’ càng ngày càng tăng lên. Cái cảm quan
‘là dân Á Châu’ này thật sự được nhận thức
và nhận định không phải với tính cách khiêu khích
nhau và đối chọi nhau, nhưng trong một tinh
thần tương trợ cho nhau và ḥa hợp với nhau.
Trong khung cảnh tương trợ và ḥa hợp này, Giáo Hội
có thể truyền đạt Phúc Âm bằng một đường
lối trung thành với cả Truyền Thống của ḿnh
cũng như với hồn thiêng Châu Á”.
(cùng nguồn, đoạn
6)
Á Châu có một lịch sử
Kitô Giáo lâu đời như chính lịch sử của Giáo
Hội Kitô Giáo, song lại là một lịch sử bị
gián đoạn, bất toàn và không đạt đến mức
trọn vẹn tối đa, cần phải được
tiếp tục cho đến hoàn thành.
·
“Lịch sử
của Giáo Hội Tại Á Châu lâu đời như chính
Giáo Hội, v́ chính ở tại Á Châu, Chúa Giêsu đă thở
Chúa Thánh Thần trên các môn đệ của Người, và
đă sai các vị đi đến tận cùng trái đất
để loan báo Tin Mừng và thành lập các cộng đồng
tín hữu. ‘Như Cha đă sai Thày thế nào, Thày cũng
sai các con như vậy’ (Jn 20:21; cũng xem
cả Mt 28:18-20; Mk 16:15-18; Lk 24:47; Acts 1:8). Theo lệnh Chúa
truyền, các vị Tông Đồ đă rao giảng lời
Chúa và đă thành lập các Giáo Hội. Cũng cần
phải nhắc lại nơi đây một số yếu
tố của gịng lịch sử lạ lùng và phức
tạp này.
Từ
Gialiêm, Giáo Hội
lan tới Antiôkia, tới Rôma và xa hơn nữa.
Giáo Hội lan tới Êthiôpia ở miền Nam, Scythia
ở miền Bắc, tới Ấn Độ ở
miền Đông, nơi mà theo truyền tụng Thánh Tôma Tông
Đồ đă đặt chân tới vào năm 52 và đă
thành lập các Giáo Hội ở miền Nam Ấn. Đáng
chú ư là tinh thần truyền giáo của cộng đồng
Syria phía Đông vào thế kỷ thứ ba và thứ tư,
có trung tâm ở Edessa. Các cộng đoàn khắc khổ của
Syria là một lực lượng chính cho việc truyền
bá phúc âm hóa ở Á Châu từ thế kỷ thứ ba trở
đi. Họ cung cấp một nghị lực thiêng liêng
cho Giáo Hội, nhất là trong những thời gian cấm
cách. Vào cuối thế kỷ thứ ba, quốc gia đầu
tiên hoàn toàn theo Kitô Giáo là Armenia, nay đang sửa
soạn mừng 1700 năm được lănh nhận phép
thánh tẩy của ḿnh. Vào cuối thế kỷ thứ
năm, sứ điệp Kitô Giáo đă lan tới các vương
quốc Ả Rập, thế nhưng, v́ nhiều lư do,
bao gồm cả lư do chia rẽ nhau giữa những người
Kitô hữu, sứ điệp này đă không ăn sâu nơi
các dân tộc này.
Các người giao thương
Ba Tư đă đem Tin Mừng đến Trung Hoa vào
thế kỷ thứ năm. Giáo Hội Kitô Giáo đầu tiên được
thiết lập ở Trung Hoa vào đầu thế kỷ
thứ bảy. Trong thời Nhà Đường (618-907
AD), Giáo Hội phát triển gần hai thế kỷ.
Việc xuống dốc của Giáo Hội sinh động ở
Trung Hoa vào cuối thiên niên thứ nhất này là một trong
những trang sử đau thương hơn hết trong lịch
sử Dân Chúa ở địa lục này.
Vào thế kỷ 13, Tin Mừng
được loan báo cho các người Mông Cổ và Thổ
Nhĩ Kỳ, cho cả người Trung Hoa một lần
nữa.
Thế nhưng, Kitô Giáo hầu như đă biến mất
ở những miền này v́ một số lư do, trong đó có
việc nổi dậy của Hồi Giáo, việc cô
lập về địa dư, việc thiếu thích ứng
xứng hợp với các thứ văn hóa địa phương,
và nhất là có lẽ v́ thiếu sửa soạn để
giáp diện với các tôn giáo lớn ở Á Châu. Việc
suy giảm thảm thương của Giáo Hội Tại Á
Châu, trừ cộng đồng bị cô lập ở Nam Ấn,
đă xẩy ra vào cuối thế kỷ 14. Giáo Hội
Tại Á Châu đă phải đợi chờ một kỷ
nguyên của công sức truyền giáo mới.
Những lao nhọc làm
việc tông đồ của Thánh Phanxicô Xaviê, việc Đức
Grêgôriô XV thành lập Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin,
và những chỉ thị cho các nhà thừa sai phải tôn trọng
và cảm nhận các nền văn hóa địa phương,
tất cả đă đóng góp vào việc thâu đạt được
những thành quả khả quan hơn trong giai đoạn
thế kỷ 16 và 17. Vào thế kỷ 19, lại tái
diễn công cuộc hoạt động truyền giáo.
Các hội ḍng khác nhau đă hết sức dấn thân
thực hiện công việc này. Thánh Bộ Truyền Bá Đức
Tin được tổ chức lại. Việc thiết
lập các Giáo Hội địa phương được
nhấn mạnh hơn. Các công cuộc về giáo dục và
bác ái sát cánh với với việc rao giảng Phúc Âm.
Kết quả là Tin Mừng đă tiếp tục lan tới
nhiều người hơn, nhất là nơi thành phần
nghèo nàn và không được ưu đăi, nơi cả một
số thành phần có thế gía về xă hội và trí thức.
Những nỗ lực mới được thực
hiện trong việc hội nhập Tin Mừng, tuy
những nỗ lực này không đi đến đâu. Mặc
dù đă hiện diện qua nhiều thế kỷ và đă
thực hiện nhiều nỗ lực tông đồ, Giáo Hội
tại nhiều nơi vẫn bị coi như là một thứ
ngoại bang đối với Á Châu, và dân chúng thực
sự nghĩ rằng các Giáo Hội này thường dính
dáng tới quyền lực thuộc địa.
... Trong một thế giới
rất khác biệt về văn hóa ở Á Châu, Giáo Hội
phải đối diện với nhiều thách đố
về triết lư, thần học và mục vụ. Công
việc của Giáo Hội càng trở nên khó khăn hơn bởi
t́nh trạng thiểu số của ḿnh, trừ duy một ḿnh
Phi Luật Tân là nơi Công Giáo chiếm đa số.
Bất cứ gặp hoàn
cảnh nào đi nữa, Giáo Hội Tại Á Châu cũng
phải ở giữa dân chúng, thành phần tỏ ra
thiết tha khát vọng Thiên Chúa. Giáo Hội biết
rằng nỗi khát vọng này chỉ có thể được
hoàn toàn thỏa măn bởi Chúa Giêsu Kitô, Tin Mừng của
Thiên Chúa cho tất cả mọi dân nước”.
(cùng nguồn, đoạn
9)
Giáo
Hội Tại Á Châu đang phải đương đầu
với vấn đề hết sức tế nhị và nhức
nhối, đó là vấn đề làm sao để loan
truyền cho dân chúng Á Châu chân lư Chúa Giêsu Kitô là Đấng Cứu
Thế duy nhất, để làm cho họ thực sự và
hoàn toàn tin nhận Người.
·
“Thật vậy,
ngay khi c̣n trong giai đoạn tham vấn trước Cuộc
Thượng Hội, nhiều vị Giám Mục Á Châu đă
quan tâm tới những khó khăn nơi việc loan báo Chúa
Giêsu là Đấng Cứu Thế duy nhất. Trong Cuộc
Thượng Hội, vấn đề được tŕnh
bày như sau: ‘Một số môn đồ của các tôn
giáo lớn khác ở Á Châu không gặp trục trặc ǵ
về việc chấp nhận Chúa Giêsu như là một
biểu hiện của Thần Linh hay của Đấng
Tối Cao, hoặc như là một ‘vị được
minh tri’. Thế nhưng, họ khó có thể coi Người
như là một biểu hiện duy nhất của Thần
Linh’ (Relatio
Ante Disceptationem,
đoạn 5). Thật
vậy, nỗ lực để chia sẻ tặng ân đức
tin vào Chúa Giêsu như Đấng Cứu Thế duy nhất
gắn liền với những khó khăn về triết
lư, văn hóa và thần học, nhất là gắn liền với
những khó khăn về niềm tin nơi các tôn giáo lớn
ở Á Châu, là những ǵ đă sâu xa kết chặt vào các
gía trị văn hóa cũng như vào các vũ trụ quan
riêng biệt.
Theo
ư nghĩ của các vị Nghị Phụ trong Thượng
Hội th́ cái khó khăn này c̣n được nối
kết với sự kiện là Chúa Giêsu thường được
coi như người ngoại quốc đối với Á
Châu. Thật là ngược đời ở chỗ,
hầu hết dân Á Châu có khuynh hướng coi Chúa Giêsu, vị
được sinh ra tại đất Á Châu, như là một
người Tây Phương hơn là một nhân vật Á
Châu. Khó có thể tránh được việc các vị thừa
sai Tây Phương loan báo Phúc Âm bị chi phối bởi các
thứ văn hóa của quê hương xứ sở của
các vị. Các Nghị Phụ Thượng Hội đă nh́n
nhận điều này là một sự kiện không thể
tránh được trong lịch sử truyền bá phúc âm hóa...
... Bởi thế, công
việc loan truyền Chúa Giêsu bằng đường
lối làm sao cho dân chúng Á Châu nhận ra Người
giống như họ, trong khi vẫn trung thành với
cả tín lư về thần học của Giáo Hội và trung
thành với cả các nguồn gốc riêng của Á Châu,
quả là một thách đố ngất trời”.
(cùng nguồn, đoạn
20)
Để loan báo Chúa Giêsu Kitô
là Đấng Cứu Thế duy nhất của loài người,
Giáo Hội Tại Á Châu phải vừa hội nhập
văn hóa lại phải vừa trung thành với căn tính
Kitô Giáo của ḿnh nữa.
·
“Việc tŕnh
bày Chúa Giêsu Kitô như là một Đấng Cứu Thế
duy nhất cần phải có phương pháp để đem
con người từ từ đến việc hoàn toàn
thấu triệt được mầu nhiệm này.
Hiển nhiên là việc truyền bá phúc âm hóa tiên khởi cho
những người ngoài Kitô giáo và việc tiếp tục
loan báo Chúa Kitô cho tín hữu khác nhau về phương pháp.
Chẳng hạn, trong việc loan báo tiên khởi, th́
‘việc tŕnh bày về Chúa Giêsu Kitô có thể như là một
việc làm thỏa măn những khát khao được bộc
lộ qua các huyền thoại và truyền thuyết của
những người dân Á Châu’ (Relatio Post Disceptationem, đoạn 15). Nói chung, các phương
pháp kể truyện quen thuộc với các h́nh thức
văn hóa Á Châu phải được coi trọng. Thật
vậy, việc loan báo Chúa Giêsu Kitô có thể gây tác dụng
nhất bằng cách kể truyện về Người như
Phúc Âm đă từng làm. Những quan niệm siêu h́nh
trong truyện kể, những quan niệm bao giờ cũng
phải được nghĩ tưởng và bày tỏ khi
nói về Chúa Giêsu, có thể được dẫn giải
bằng những phối cảnh tương quan, phối
cảnh lịch sử và ngay cả phối cảnh về
vũ trụ nữa. Các Nghị Phụ của Thượng
Hội đề nghị là Giáo Hội phải cởi mở
hơn đối với những cách thức mới
mẻ và lạ lùng làm cho dung nhan của Chúa Giêsu được
tŕnh bày theo kiểu Á Châu (x.
ibid.).
Thượng Hội đề
nghị là việc dạy giáo lư sau này phải theo ‘phương
pháp gợi bày, bằng việc dùng những câu truyện, dụ
ngôn và các biểu tượng có đặc tính phương
pháp giảng dạy của Á Châu’ (ibid.).
Sứ vụ của chính Chúa Giêsu tỏ tường cho
thấy giá trị của việc tiếp xúc riêng tư, một
việc tiếp xúc đ̣i nhà truyền bá phúc âm hóa chú ư đến
t́nh trạng của thính giả, để làm cho việc
loan báo thích ứng với tŕnh độ trưởng thành
của người nghe, cũng như bằng một
thể thức và ngôn từ thích hợp. Theo quan niệm
này, Các Nghị Phụ Thượng Hội đă nhiều
lần nhấn mạnh đến nhu cầu truyền bá phúc
âm hóa bằng cách thức đánh động cảm t́nh của
những người dân Á Châu, và các vị cũng đề
nghị h́nh ảnh về Chúa Giêsu cần phải được
tỏ hiện đối với tâm trí và văn hóa Á Châu, đồng
thời vẫn trung thành với Thánh Kinh và Truyền
Thống. Trong số các h́nh ảnh này có h́nh ảnh ‘Chúa
Giêsu Kitô là Vị Tôn Sư Khôn Ngoan, là Đấng Chữa
Lành, là Nhà Giải Phóng, là Vị Hướng Dẫn
Thần Linh, là Đấng Minh Tri, là Người Bạn
Cảm Thương Kẻ Nghèo Khó, là Người Samaritanô
Nhân Từ, là Vị Mục Tử Tốt Lành, là Đấng
Phục Tùng’ (Propositio, đoạn 6). Chúa Kitô có thể được
tŕnh bày như Sự Khôn Ngoan Nhập Thể của Thiên Chúa,
Đấng làm cho các ‘hạt giống’ của Sự Khôn
Ngoan thần linh vốn có nơi đời sống, tôn giáo
và dân chúng Á Châu sinh hoa kết trái (x. Relatio Post Disceptationem, đoạn
6). Giữa bao
nhiêu khổ đau xẩy ra nơi dân chúng Á Châu, Người
cần phải được loan báo như là một Vị
Cứu Tinh, ‘Đấng có thể cống hiến ư nghĩa
sống cho những ai chịu đớn đau và thống
khổ khôn xiết tả’ (ibid.).
Đức
tin được Giáo Hội hiến ban cho con cái nam nữ
Á Châu của ḿnh không thể bị đóng khung trong
những giới hạn về hiểu biết và diễn
tả của bất cứ một nền văn hóa nhân
loại đơn độc nào, v́ đức tin này siêu
việt trên những giới hạn ấy và thực
sự thách đố tất cả mọi nền văn hóa
vươn lên tới những mực độ mới cao
hơn trong việc hiểu biết và diễn đạt.
Các Nghị Phụ của Thượng Hội Giám Mục Á
Châu cũng thừa biết nhu cầu khẩn thiết của
các Giáo Hội địa phương ở Á Châu trong
việc tŕnh bày mầu nhiệm Chúa Kitô cho dân chúng, theo cung
cách văn hóa của họ cũng như theo đường
lối suy tư của họ. Các vị cho thấy
rằng, một cuộc hội nhập văn hóa của đức
tin như vậy nơi địa lục của các vị
bao gồm cả việc tái khám phá ra dung nhan Á Châu của Chúa
Giêsu, cùng những đường lối tương
tự giúp cho các nền văn hóa Á Châu có thể nắm được
tầm quan trọng cứu độ phổ quát nơi
mầu nhiệm Chúa Giêsu cũng như nơi mầu
nhiệm Giáo Hội của Người. (x. Relatio ante
disceptationem, đoạn 5).
Việc hiểu biết sâu xa về dân chúng cũng như
về văn hóa của họ, điển h́nh nơi một
số con người nên nhắc đến như Giovanni
da Montecorvino, Matteo Ricci và Roberto de Nobili, cần phải được
bắt chước áp dụng vào thời điểm
hiện nay”.
(cùng nguồn, đoạn
20)