4.
“Thứ bốn là
Đức đói khát sự thánh thiện đi với Phúc được
no thỏa. Đức đói khát sự thánh thiện được
đứng hàng thứ bốn trong Bài Giảng trên núi Phúc Đức
này, sau Đức khó nghèo trong tinh thần, Đức
chịu sầu thương và Đức hiền lành, không
phải hay sao, là v́ chỉ sau khi có đủ ba Đức
này, người ta mới thực sự tỏ ra là ḿnh khao
khát muốn nên trọn lành và mới có khả năng nên
trọn lành, nghĩa là có thể theo Chúa Kitô.
“Đúng thế, nhờ Đức
khó nghèo trong tinh thần họ mới ‘không lo lắng
về cuộc sống phải ăn ǵ uống ǵ’ (Mt 6:25), nhờ Đức
chịu sầu thương họ mới không chạy theo
những sự thế gian như những người không
tin tưởng ǵ (x. Mt 6:32),
và nhờ Đức hiền lành họ mới không
bất nhẫn bởi sự khó ngày nào đủ cho ngày đó
(x. Mt
6:34) gây ra. Để
rồi, kết quả phát sinh nơi con người có ba Đức
này là ḷng khao khát sự thánh thiện, đến nỗi,
họ chỉ biết trước hết t́m kiếm Nước
Thiên Chúa (x.
Mt 6:33), và họ
sẽ được Phúc no thỏa. Ở chỗ: ‘Cha trên
trời của các con biết tất cả những ǵ càc
con cần’ (Mt.
6:32), Đấng
biết lo cho chim trên trời và hoa đồng nội (x. Mt 6:26-28), sẽ ban cho con cái ḿnh là
những kẻ tin tưởng bỏ hết mọi sự
theo Con Ngài tất cả những ǵ Ngài thấy cần
thiết cho họ, để họ có thể làm tôi phụng
thờ Ngài cũng như làm tông đồ cho Con Ngài.
5.
“Thứ năm là Đức
tỏ ḷng thương xót đi với Phúc được
xót thương. Sở dĩ Đức thứ năm trong
Bài Giảng trên núi Phúc Đức này được Chúa
Giêsu gọi tên ngay sau Đức khao khát sự thánh
thiện, là v́, con người đi đàng nhân đức,
theo tâm lư tự nhiên, hay mắc phải cái tội thấy
ḿnh sốt sắng đạo đức tốt lành th́ đâm
ra kiêu căng ở chỗ khinh người khác, nhất là
những người khô khan nguội lạnh hơn ḿnh.
Không phải hay sao, đó là trường hợp mà Chúa Giêsu đă
ví dụ về hai người lên đền thờ
cầu nguyện, một người Pharisiêu công chính trong
việc giữ tỉ mỉ lề luật, song lại
tỏ ra khinh người thu thuế tội lỗi là người
chỉ biết xấu hổ song ăn năn nhận lỗi
của ḿnh trước mặt Chúa (x. Lk 18:9-14), và kết quả là, như
Chúa nói: ‘Người này (thu thuế) từ đền thờ ra về được
công chính, c̣n người kia (Pharisiêu)
th́ không’ (Lk
18:14).
“Như thế, người
thu thuế nhận Phúc được xót thương bởi
Thiên Chúa, trong khi người Pharisiêu th́ không. Thật ra,
không phải chỉ kẻ nào cảm thấy ḿnh công chính, đạo
đức tốt lành mới dễ khinh người, c̣n
kẻ có tội th́ không kiêu căng khinh người bao giờ.
Nói như thế có nghĩa là người nghèo không bao giờ
ham tiền thích của. Trái lại, càng nghèo lại càng
mơ được giầu sang, được trúng
số thế nào th́ người tội lỗi cũng
vẫn có thể kiêu căng khinh người như
vậy. Ở chỗ, họ không nhận ḿnh có tội, và
như thế, đối với họ, kẻ tốt lành
có thể là kẻ giả h́nh. Người thu thuế trong
dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu
nguyện, nếu không biết nhận lỗi của ḿnh, cũng
không sai lầm khi coi thường bộ điệu và cuộc
sống công chính của người Pharisiêu, cho người
này chỉ là đồ giả h́nh (x. Mt 23:1-39).
“Dù nhận xét của người
thu thuế về người Pharisiêu có chính xác đi
nữa, người thu thuế sẽ không c̣n nhận Phúc được
xót thương như thái độ đấm ngực
ăn năn lỗi lầm của ḿnh nữa, cũng là
thái độ tỏ ra khao khát sự thánh thiện. Chính v́
thế, trong Bài Giảng trên núi Phúc Đức, Chúa Giêsu c̣n dạy
các môn đệ của Người là ‘Nếu các con
muốn khỏi bị đoán xét th́ đừng xét đoán.
Các con kết án kẻ khác thế nào các con cũng sẽ
bị kết án như vậy’ (Mt. 7:1).
“Như thế, Phúc được
xót thương của người biết thương xót
là ở chỗ họ không bị xét đoán. Tuy nhiên, kinh
nghiệm tu đức thường cho thấy, để
có thể thương xót những kẻ khác, nhất là
biết thông cảm với những lỡ lầm yếu đuối
của tha nhân, Thiên Chúa hay để cho những người
càng khao khát nhân đức trọn lành lại càng hầu như
không thể đạt được kết quả như
ḷng mong ước, trái lại, họ cảm thấy ḿnh
yếu đuối lạ lùng, cứ sa đi ngă lại cùng
một lầm lỗi, thường là lỗi nhẹ, đôi
khi lỗi nặng.
“Cho đến khi con người
khao khát nhân đức trọn lành biết thương
cảm tha nhân, không dám khinh thường một ai, dù người
đó có xấu xa tội lỗi đến thế nào đi
nữa, th́ bấy giờ họ mới bắt đầu
biết thương xót, một Đức thương xót
phát xuất từ Phúc họ được xót thương
như họ thực sự cảm nhận thấy nơi
Thiên Chúa là Đấng đă thương xót họ, tha cho
họ món nợ họ không thể trả (x. Lk 7:42), Đấng cũng đă
dậy họ phải ‘xin tha cho chúng con điều sai trái
chúng con đă làm, như chúng con cũng tha cho những ai
phạm đến chúng con’
(Mt. 6:12).
6.
“Thứ sáu là Đức
có tâm hồn thanh sạch đi với Phúc được
thấy Thiên Chúa. Đức có tâm hồn thanh sạch này là Đức
được Chúa Giêsu kể đến sau Đức thương
xót và Đức khao khát sự thánh thiện, tức là nó
phải có một liên hệ mật thiết với hai Đức
này. Bởi v́, chỉ sau khi con người khao khát nhân đức
trọn lành thật, không dám khinh thường thành phần
tội nhân, trái lại c̣n biết thương cảm thành
phần này, th́, kinh nghiệm tu đức cho thấy, từ
bấy giờ họ mới bắt đầu có tâm
hồn thanh sạch. Ở chỗ, tất cả mọi và
từng việc đạo đức họ làm, như làm phúc
bố thí, đọc kinh cầu nguyện, hy sinh hăm ḿnh,
họ chỉ thi hành hoàn toàn v́ và cho ‘Đấng thấy
nơi kín đáo’ (Mt 6:4),
‘Đấng thấy những ǵ con người không
thấy’ (Mt
6:6), ‘Đấng ở
nơi kín ẩn" (Mt.6:18)
mà thôi, không c̣n một ư hướng phụ thuộc hay pha
phôi nào khác.
“Chưa hết, ngoài ư hướng
ngay lành trong khi làm việc lành phúc đức này ra, bằng Đức
hiền lành đối với giá trị khách quan của các
tạo vật, và bằng Đức thương xót đối
với giá trị luân lư nơi đồng loại, con người
khao khát nhân đức trọn lành sẽ chỉ nh́n tạo
vật với một con mắt lành thánh, dưới ánh
sáng Đức Tin trong Thiên Chúa. Do đó, họ hết sức
tôn trọng mọi sự, chứ không c̣n đôi mắt thèm
thuồng chỉ biết t́m kiếm tạo vật theo đam
mê nhục dục của ḿnh nữa, nhất là đối với
nhân vật khác phái tính với ḿnh, như kiểu diễn
tả của Chúa Giêsu trong Bài Giảng trên núi Phúc Đức
về con người dâm dục nh́n người nữ
(x. Mt
5:28).
“Chính v́ thành phần khao khát
nhân đức trọn lành có một tâm hồn thanh sạch
như vậy, không có ước muốn xấu xa tội lỗi,
nhất là không có những ư hướng bất chính
trần tục trong việc lành phúc đức, trái lại,
chỉ biết t́m Chúa trong mọi sự, mà họ được
Phúc thấy Thiên Chúa, Đấng mà trong Ngài họ nh́n
thấy mọi sự và ôm ấp tất cả mọi
sự. Và cũng nhờ được thấy Thiên Chúa
trong mọi sự bằng Đức Tin chiếu sáng của
ḿnh mà các việc họ làm lại càng được nên
thanh sạch và càng đẹp ḷng Ngài.
7.
“Thứ bảy là
Đức kiến tạo ḥa b́nh đi với Phúc được
gọi là con Thiên Chúa. Đức kiến tạo ḥa b́nh này
không thể nào có nơi con người trần gian nếu
họ không được Phúc thấy Thiên Chúa, ‘Đấng
muốn mọi người được cứu rỗi
và nhận biết chân lư’ (1Tim 2:5).
Chính v́ thế, với Đức có ḷng thanh sạch
chỉ t́m Chúa trọng mọi sự và nh́n mọi sự
trong Chúa, nghĩa là khi họ được hoàn toàn kết
hợp với Chúa, Chúa sống trong họ và họ sống
trong Chúa, họ sẽ sống trong b́nh an và sẽ làm cho
những người khác được an b́nh nữa,
nhất là đối với những ai đụng
phạm đến họ hay giao tiếp với họ.
“Thực tế không cho
thấy hay sao, các thánh nhân là những vị một khi đă
đạt đến tŕnh độ kết hợp với
Chúa sâu xa th́ không ǵ có thể tách các ngài ra khỏi t́nh yêu
Thiên Chúa được nữa, như trường hợp
của Thánh Phaolô Tông Đồ Dân Ngoại (x. Rm 8:35-39). Trái lại, sự
sống viên măn nơi các ngài sẽ làm cho mọi sự
xẩy ra trong cuộc đời các ngài được
thông phần với sự sống của các ngài mà nên
trọn như Thánh Ư Chúa muốn. Điển h́nh nhất là
đối với những ai có làm điều ǵ phạm đến
các ngài, không cần họ phải đến xin lỗi, các
ngài cũng đă tha thứ cho họ rồi (x. Mt 5:23-24), như các ngài chưa hề
bị xúc phạm đến, v́ cuộc đời của
các ngài lúc nào cũng là một cuộc cử hành Mầu
Nhiệm Thánh, Mầu Nhiệm Yêu Thương.
“Phải, chính v́ thành
phần được Phúc thấy Thiên Chúa biết ‘cho vay
mượn mà không cần trả lại’ (Lk 6:35) này, tức thành phần
‘không chối từ kẻ vay mượn ḿnh’ (Mt 5:42) món nợ bác ái (x. Rm 13:8), mà họ mới ‘đáng
gọi là con Đấng Tối Cao, v́ chính Ngài đối
xử tốt lành với cả người vô ơn
lẫn kẻ gian ác’ (Lk 6:35).
Đức bác ái trọn lành trong việc kiến tạo
ḥa b́nh nơi tha nhân như thế thực sự đă chứng
tỏ họ là con cái Thiên Chúa, thành phần phản ảnh
sống động ‘Người Con duy nhất đến
từ Cha’ (Jn.1:14), Đấng mà ‘Thiên Chúa giải
ḥa nơi bản thân Người tất cả mọi
sự dưới đất cũng như trên trời’
(Col 1:20).
8.
“Thứ tám là Đức
chịu bắt bớ v́ sự thánh thiện đi với
Phúc chiếm được nước Thiên Chúa. Trong Bài
Giảng trên núi Phúc Đức, Phúc chiếm được
Nước Thiên Chúa ở Đức thứ tám này, tuy cũng
là Phúc của Đức thứ nhất là Đức khó
nghèo trong tinh thần, nhưng chúng khác nhau về mức độ.
Nếu Phúc chiếm được Nước Thiên Chúa ở
Đức khó nghèo trong tinh thần, như đă nói, là t́nh
trạng hạt giống Đức Tin chất chứa
tất cả Mạc Khải của Thiên Chúa bắt đầu
đâm rễ và phát triển nơi Kitô hữu thế nào,
th́ Phúc chiếm được Nước Thiên Chúa ở Đức
chịu bắt bớ v́ sự thánh thiện này là Phúc
chiếm được ‘tất cả sự thật’ (Jn 16:13), một tầm vóc hoàn toàn
nhất của Đức Tin, phản ảnh trung thực
tất cả những ǵ Thiên Chúa muốn Mạc Khải
cho con người.
“Tuy nhiên, trên thực hành,
nếu không có Đức kiến tạo ḥa b́nh cũng
sẽ không có Đức chịu bắt bớ v́ sự
thánh thiện được, và do đó cũng không có Phúc
chiếm được Nước Thiên Chúa ở tầm mức
hoàn toàn nhất của nó nơi thụ tạo sống Đức
Tin. Thực hành c̣n cho thấy, cũng chính v́ ánh sáng đức
ái tỏa ra từ thành phần khao khát nhân đức
trọn lành được gọi là con cái Thiên Chúa trong
việc họ kiến tạo ḥa b́nh, mà họ đă bị
thế gian ‘yêu tối tăm hơn ánh sáng’ (Jn 3:19) chống đối, khủng
bố vàbắt bớ họ (x. Wis 2:12-20).
“Thế nhưng, bóng
tối không thể lấn át ánh sáng thế nào, ánh sáng đức
ái trọn lành tỏa ra từ thành phần có Đức
kiến tạo ḥa b́nh qua Đức chịu bắt bớ
v́ sự thánh thiện cũng sẽ làm tan biến đi
dần dần bóng tối sự chết trên thế gian như
vậy, để ánh sáng thế gian là Chúa Kitô (x. Jn 8:12), Mạc Khải của
Thiên Chúa, được thế gian nhận biết.
Nếu việc Thiên Chúa Mạc Khải là việc Thiên Chúa
yêu thương th́ thành phần được Phúc gọi
là con cái Thiên Chúa, khi chỉ biết ‘yêu thương kẻ
thù ḿnh và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ
ḿnh’ (Mt.
5:44), ‘chứng
tỏ ḿnh là con cái của Cha trên trời’ (Mt 5:45), th́ họ đă hoàn thành
‘cuộc tỏ hiện của con cái Thiên Chúa’ (Rm 8:19) nơi thế giới
tạo vật, nhờ đó họ cũng đồng thời
làm cho ‘Nước Cha trị đến’ (Mt. 6:10).
9.
“Thứ chín là Đức
chịu nhục mạ, bắt bớ và rủa xả v́
Thày đi với Phúc được phần thưởng lớn
lao ở trên trời. Theo cấp trật về Phúc trong Bài
Giảng trên núi Phúc Đức của Chúa Giêsu, Phúc được
phần thưởng lớn lao ở trên trời đây là
Phúc cuối cùng, được kể đến tên ngay sau
Phúc chiếm được Nước Thiên Chúa. Như
thế, Phúc chiếm được Nước Thiên Chúa và
Phúc được phần thưởng lớn lao ở
trên trời (theo
thứ tự rất hợp lư như mầu nhiệm thứ
bốn và thứ năm Năm Mầu Nhiệm Mân Côi Mùa Mừng,
song lại) là hai
Phúc hoàn toàn khác biệt, chứ không phải chỉ là một
Phúc, như Phúc tử đạo chẳng hạn, v́ nơi
hai Đức liên quan đến hai Phúc này đều nói đến
việc chịu ‘bắt bớ’. Tuy nhiên, cả về Đức
cũng thế, chúng cũng
khác biệt nhau, ở chỗ, một Đức chịu
bắt bớ v́ sự thánh thiện, c̣n một Đức
chịu bắt bớ v́ Thày.
“Nếu ‘chịu bắt bớ
v́ sự thánh thiện’ là chịu bắt bớ v́ cuộc
sống trong Chúa Kitô, một cuộc sống yêu mến Thày
th́ tuân giữ những lời Thày truyền (x. Jn 14:23), th́ ‘chịu bắt bớ
v́ Thày’ tức là chịu bắt bớ v́ Chúa Kitô sống
trong kẻ bị bắt bớ, kẻ được Người
thương và tỏ ḿnh ra cho họ (x. Jn 14:21). Như thế, Đức
chịu bắt bớ v́ Thày chứng tỏ con người
chịu bắt bớ v́ Thày này đă thực sự nên một
với Chúa Kitô, nên ánh sáng thế gian (x. Mt 5:14) như Người là ánh
sáng thế gian (x.
Jn 8:12). Điển
h́nh là trường hợp của Thánh Stephanô, vị tử
đạo tiên khởi, đối đáp khôn ngoan vô địch
(x. Acts
6:10), mặt mũi
sáng láng như thiên thần (x. Acts 6:15), được thấy trời mở
ra và thấy Con Người ngự bên hữu Thiên Chúa (x. Acts 7:55). Hay Maximilianô Kolbe yêu như
Thày đến chết thay cho tha nhân ở thế chiến
II.
“Cũng có thể phân tách
hai Đức chịu bắt bớ này như sau. Đức
chịu bắt bớ v́ sự thánh thiện có thể
xẩy ra cho tất cả mọi Kitô hữu chân chính
sống ngược lại với chiều hướng của
thế gian, khiến cho những người sống theo
thế gian, kể cả bạn bè hay gia đ́nh, cảm
thấy khó chịu, xa lánh, làm khó dễ, c̣n Đức
chịu bắt bớ v́ Thày thường xẩy ra cho
những nhà truyền giáo, hay những vị có thẩm
quyền tháo gỡ trong Giáo Hội, gây ra bởi quyền
lực thế gian, hay bởi chính áp lực nội bộ,
có thể làm thương tổn đến cả mạng
sống của nhà truyền giáo hay của vị có thẩm
quyền.
“Bởi vậy, xét khách quan
về tính cách cũng như h́nh thức của sự
việc th́ Đức chịu bắt bớ v́ Thày có giá
hơn (cao
hơn) Đức
chịu bắt bớ v́ sự thánh thiện. Do đó, Phúc được
phần thưởng lớn lao trên trời, xét về giá
trị công nghiệp, vẫn đáng ước mong hơn,
v́ đó chính là Phúc được Tử Đạo, Phúc được
hưởng Thánh Nhan Thiên Chúa ngay sau khi chết, mà không
cần qua lửa luyện tội. Trong khi đó, một
vị thánh sống đến đâu đi nữa, sau khi
chết, chưa chắn đă được về
thẳng Thiên Đàng, hay là c̣n phải chờ đền tội
một thời gian, cho dù rất ngắn đi nữa.
“Tuy nhiên, việc được
về hưởng kiến Thánh Nhan Thiên Chúa ngay cũng chưa
phải là Phúc được phần thưởng lớn
lao trên trời của thành phần có Đức chịu
bắt bớ v́ Thày. Phúc được phần thưởng
lớn lao trên trời của họ cũng không phải ở
chỗ họ sẽ cùng với Thày ngồi trên ṭa mà phán xét
12 chi tộc Yến Duyên (x. Mt 19:28), cho bằng Người ở đâu
họ cũng ở đó để chiêm ngắm vinh
hiển Người (x. Jn 17:24)
(Đaminh Maria Cao
Tấn Tĩnh, BVL, Gịng Sông Chảy Nước Ban Sự
Sống,
Cao-Bùi 1998, trang
326-340)
Nếu t́nh trạng vô luân
tỏ ra cho thấy con người chưa hoàn toàn trưởng
thành về nhân bản, th́ tu tŕ, truyền giáo và tử đạo,
theo tiến tŕnh của Chín Mối Phúc Đức, phải
là dấu chứng tỏ con người đang sống
Sự Sống Thần Linh, được tỏ ra
bằng những Nhân Đức Trọn Lành, và là một
“sự sống viên măn hơn” (Jn 10:10),
được cảm nghiệm qua những Hạnh Phúc
Đích Thực.
Nếu “sự sống trường
sinh là nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất
và Đấng Cha sai là Đức Giêsu Kitô” (Jn 17:3), th́ “sự sống viên măn
hơn” đây là mức độ Kitô hữu đă hoàn toàn
nhận biết Thiên Chúa, đă được “Thần
chân lư đưa vào tất cả sự thật” (Jn 16:13), qua tiến tŕnh Chín Mối
Phúc Đức. Như thế, ngược lại, t́nh
trạng con người văn minh ngày nay, đặc
biệt ở các nước Âu Mỹ, thế giới của
Kitô giáo, đang có những hành động phi nhân bản, phản
luân thường đạo lư, chứng tỏ con người
không nhận biết Thiên Chúa, không sống sự sống
thần linh, không sống đức tin hay sống như
thể không có Thiên Chúa.
“Tuy nhiên, chỉ có một phương
thế hiệu nghiệm có thể chắc chắn cứu
văn loài người khỏi bị hủy hoại bởi
luồng khí ‘văn hóa tử vong’ vô cùng độc hại
này, một phương thế làm cho Mùa Đông Lịch
Sử tan biến trước Mùa Xuân Cứu Rỗi, được
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nhắc lại vào ngày
19-6-1998, trong bài giảng tại Vương Cung Thánh Đường
Chính Ṭa Salzburg Nước Aùo, như sau:
·
’Người
dọn bàn ăn cho tôi trước mặt đối phương
tôi’ (Ps.23/22:5). Cho dù không có những cuộc
bắt bớ dữ dội, th́ công việc làm chứng nhân
như thành phần Kitô hữu cũng không phải bao giờ
cũng dễ dàng. Họ thường đụng
độ với t́nh trạng khô đạo đông đảo
là t́nh trạng khó khăn cũng không thua ǵ t́nh trạng thù
ghét. Bởi thế mới xẩy ra t́nh
trạng linh mục và các cộng tác viên của các vị
dọn bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể,
thế nhưng lại thất vọng khi thấy rằng
số khách dự tiệc chấp nhận lời mời mỗi
ngày một ít đi. Bàn tiệc lợi lộc và
khuynh hướng thụ hưởng lại có vẻ
hấp dẫn hơn. Đó là lư do tại sao hiện nay có
nhiều người sống như thể Thiên Chúa không
hiện hữu. Các h́nh thức phổ quát
diễn đạt đạo đức thông dụng
vẫn c̣n, tuy nhiên lại thiếu mất căn bản xác
tín minh tường. Bởi thế chúng bị đe dọa
bị cuốn đi theo gịng tục hóa đang dâng lên. T́nh
trạng dửng dưng đối với gia sản Kitô
giáo th́ nguy hại cũng giống như bị hận thù
ghen ghét ra mặt vậy.
‘Chỉ có việc tân phúc âm
hóa mới bảo đảm được việc đào
sâu vào một đức tin tinh tuyền và vững chắc,
một đức tin có thể biến các truyền
thống lưu tồn thành một quyền lực giải
thoát’.
(tuần san
L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 1-7-1998, trang 8, đoạn
5)
“Như thế, việc Giáo Hội
truyền bá phúc âm đây chính là việc thực tế
nhất Giáo Hội ‘xin sai Thánh Thần Chúa đến và xin
canh tân bộ mặt trái đất’, tức là canh tân con người
là chính ‘bộ mặt trái đất’, là ‘bộ mặt’ của
‘muôn vật hữu h́nh’, hay là phúc âm hóa văn hóa làm nên bộ
mặt con người cũng vậy. Một khi con người
‘làm chủ trái đất’ được canh tân, hay văn
hóa là bộ mặt của con người được
phúc âm hóa, th́ chắc chắn ‘bộ mặt trái đất’
sẽ được canh tân. Bởi v́:
‘Toàn thể tạo vật
ngong ngóng trông đợi việc tỏ hiện của con
cái Thiên Chúa. V́ thế giới tạo vật bị lụy
thuộc vào t́nh trạng hư hoại, không phải tự
chúng muốn, mà bởi Đấng bắt chúng phải
chịu với niềm hy vọng tất cả tạo vật
sẽ được giải thoát khỏi số phận hư
vong để thông phần tự do và vinh hiển của
con cái Thiên Chúa’ (Rm.8:19-21).
“Đúng thế, sau khi phục
sinh, Chúa Kitô ‘được toàn quyền trên trời dưới
đất’ (Mt
28:18) chẳng
những sai các môn đệ của ḿnh ‘đi tuyển mộ
môn đồ nơi tất cả mọi dân nước”
(Mt 28:19), mà c̣n ‘đi khắp thế
giới để công bố Tin Mừng cho tất cả
mọi tạo vật’ (Mk 16:15)
nữa. Vẫn biết Chúa Kitô phục sinh ‘đă từ Cha
sai Thánh Thần đến’ (Jn 15:26)
với Giáo Hội để ‘canh tân bộ mặt trái đất’
bằng việc Giáo Hội truyền bá phúc âm hóa. Thế nhưng,
chính Người, ‘Đấng ở trên ngai’ (Rev 21:5), Đấng ‘là nguyên thủy
và là cùng đích, đă chết nhưng vẫn sống muôn đời’
(Rev
1:17-18), mới là Đấng
‘canh tân lại tất cả’ (Rev 21:5),
dù việc Giáo Hội truyền bá phúc âm hóa chưa hoàn
tất hay chưa đi đến đâu theo chiều hướng
mong ước của loài người, đúng như Người
ngầm tiên báo, ‘trước khi các con đi khắp Israel
th́ Con Người đă đến’ (Mt 10:23).
“Phải, Thời Điểm
Hồng Ân Năm Thánh 2000 chẳng những là khởi điểm
cho Mùa Xuân Cứu Rỗi mà c̣n là chính Mùa Gặt Nước
Trời, một mùa gặt hái những tâm hồn không
thể t́m thấy chân lư và chân phúc nơi ‘văn hóa tử
vong’ đă quay trở về với ‘Đấng Cứu
Tinh Nhân Trần’ (Redemptor Hominis,
tên của
bức Thông Điệp đầu tiên của Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II năm 1979)
‘là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống’
(Jn 14:6): “hôm qua, hôm nay và muôn đời
vẫn là một” (Heb.13:8)?
(Đaminh Maria Cao
Tấn Tĩnh, BVL, Giáo Lư Cẩm Nang,
Cao-Bùi, 1999, trang 216-217;
Bộ Mặt Trái
Đất,
Dân Chúa Âu Châu 7-8/1999 và Dân Chúa Mỹ Châu 8/1999)
“Thế nhưng, Mùa Xuân Cứu
Rỗi này như thế nào và được sửa
soạn ra sao? Nói cách khác, tiến tŕnh thay mùa hay đổi
mùa từ Mùa Đông Lịch Sử đến Mùa Xuân Cứu
Rỗi sẽ diễn tiến thế nào? Mùa Đông
Lịch Sử sẽ được kết thúc ra sao cho Mùa
Xuân Cứu Rỗi xuất hiện, hay chỉ cần Mùa
Xuân Cứu Rỗi đến th́ tự nhiên Mùa Đông
Lịch Sử sẽ qua đi?
“Thật ra, tiến tŕnh đổi
mùa kỳ diệu này, đổi từ Mùa Đông Lịch
Sử sang Mùa Xuân Cứu Rỗi, đă được Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II kêu gọi ngay từ đầu giáo
triều của ngài, như ngài chia sẻ với đồng
hương Ba Lan của ḿnh ngày 16-10-1998, dịp họ sang
Rôma mừng kỷ niệm 20 năm làm giáo hoàng của ngài,
như sau:
·
‘Khi Tôi bắt đầu
sứ vụ thừa kế Thánh Phêrô của ḿnh trong Giáo Hội
20 năm trước đây, Tôi đă nói: ‘Hăy mở cửa
cho Chúa Kitô’. Hôm nay, trước ngưỡng cửa của
ngàn năm thứ ba, những lời này lại càng đặc
biệt khẩn thiết hơn… Hăy mở rộng cửa
cho Chúa Kitô – những cánh cửa văn hóa, kinh tế, chính
trị, gia đ́nh, đời sống cá nhân cũng như
xă hội… Việc mở cửa cho Chúa Kitô nghĩa là
việc cởi mở con người ḿnh ra cho Người
cũng như cho giáo huấn của Người: để
trở nên các chứng nhân cho đời sống, cho cuộc
khổ nạn và tử nạn của Người. Tức
là hiệp nhất với Người bằng nguyện
cầu và các bí tích thánh. Không liên kết với Chúa Kitô th́
tất cả mọi sự mất ư nghĩa của ḿnh và
biên giới giữa lành dữ sẽ bị mờ mịt’.
(Tuần san
L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 25-11-1998, trang 9, đoạn
4)
“Nếu, về phía chung loài người,
‘không liên kết với Chúa Kitô th́ tất cả mọi
sự mất ư nghĩa của ḿnh và biên giới giữa
lành dữ sẽ bị mờ mịt’, tức nếu
không ‘mở rộng cửa cho Chúa Kitô – những cánh
cửa văn hóa, kinh tế, chính trị, gia đ́nh, đời
sống cá nhân cũng như xă hội’, Mùa Đông
Lịch Sử b́nh thường sẽ khó ḷng chấm dứt
cho Mùa Xuân Cứu Rỗi xuất hiện.
“Thế nhưng, cũng chính
v́ thế giới đang sống trong Mùa Đông Lịch
Sử mới cần Mùa Xuân Cứu Rỗi, tức bóng
tối tự ḿnh bao giờ cũng là bóng tối và sẽ
không thể nào tự tan biến nếu ánh sáng không
chiếu soi thế nào, th́ chỉ cần Mùa Xuân Cứu Rỗi
sang là tự nhiên Mùa Đông Lịch Sử sẽ qua đi.
Phải chăng đó là ư nghĩa của lời Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II chia sẻ ngày 6-6-1998 với các vị
giám mục trong Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ
dịp các ngài sang Rôma ad limina đợt 7:
·
‘Việc tân phúc
âm hóa, một việc có thể làm cho thế kỷ 21 thành một
mùa xuân của Phúc Âm, là một công việc đối với
toàn thể Dân Chúa, thế nhưng sẽ lệ thuộc
một cách quyết liệt vào thành phần tín hữu hoàn toàn
nhận thức được ơn gọi rửa tội
của ḿnh và trách nhiệm mang tin mừng của Chúa Giêsu
Kitô đến cho văn hóa và xă hội của họ… Điều
kiện trước tiên cho việc tân phúc âm hóa là
việc thực sự làm chứng của Kitô hữu,
thành phần sống bởi Phúc Âm: ‘Ánh sáng của các con
phải chiếu giăi trước mặt con người, để
họ thấy những việc lành của các con làm mà tôn
vinh Cha các con là Đấng ở trên trời’ (Mt.6:15). V́ giáo dân ở ngay tuyến
đầu của công cuộc Giáo Hội truyền bá phúc âm
cho tất cả mọi lănh vực sinh hoạt trần
thế – gồm có công xưởng, các lănh vực khoa
học và y khoa, lănh vực chính trị và lănh vực văn
hóa khác nhau – họ phải đủ cứng cát và đủ
giáo lư ‘để chứng tỏ cho thấy rằng đức
tin Kitô giáo làm nên một đáp ứng duy nhất bảo đảm…
cho các vấn đề và các niềm hy vọng mà cuộc
sống áp đặt lên mỗi người cũng như
xă hội’ (Tông
Huấn Tín Hữu Giáo Dân, 34)’
(Tuần san L’Osservatore
Romano, ấn bản Anh ngữ, 10-6-1998, đoạn 3 và 4)
“Thật vậy, truyền bá
phúc âm chính là ngọn gió Thánh Linh thổi vào Mùa Đông
Lịch Sử để ‘canh tân bộ mặt trái đất’
(đáp
ca Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống), kể từ Thời Điểm
Hồng Aân là Năm Thánh 2000 này, như Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II ngày 26-9-1998 chia sẻ với các phần tử
của Hội Ḍng Bác Ái (Rosminians) dịp họ họp công đồng
tại Rôma như sau:
·
‘Trong khi Giáo Hội
sửa soạn tiến vào ngàn năm thứ ba Kitô giáo th́
việc truyền bá phúc âm cho văn hóa là một phần
khẩn thiết của những ǵ Tôi gọi là ‘tân
phúc âm hóa’… Thứ văn hóa nổi bật ngày nay
tôn thờ tự do và tự quyết, trong khi nó lại thường
đi theo những đường lối sai lạc
dẫn đến những h́nh thức nô lệ mới.
Văn hóa của chúng ta vật vờ giữa duy lư và duy tín
dưới nhiều dạng thức, như không thể nào
dung ḥa giữa đức tin và lư trí. Kitô hữu đôi khi cũng
bị lôi kéo đi trệch khỏi việc hủy ḿnh ra
không (kenosis) của Thập Giá Chúa Giêsu Kitô, ưa chuộng
những đường lối kiêu căng, quyền
năng và thống trị”.
(Tuần san
L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 7-10-1998, trang 6)
“Chính
v́ chiều hướng truyền bá phúc âm này mới có các cuộc
Thượng Hội Giám Mục Thế Giới, nhất là
các cuộc Thượng Hội Giám Mục Các Châu (được
tổ chức ngay trong thời gian dọn mừng Thời Điểm
Hồng Ân Năm Thánh 2000), như chính Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II đă nhắc lại trong Tông Thư Ngàn Năm
Thứ Ba Đang Đến, đoạn 21, như sau:
·
‘Góp phần trong
việc sửa soạn cho Năm 2000 đang đến là một
loạt các cuộc công nghị bắt đầu từ sau
Công Đồng Chung Vaticanô II: những cuộc công nghị
chung cùng với các công nghị theo đại lục, theo
miền, theo quốc gia, theo giáo phận. Chủ đề
chính của tất cả các cuộc công nghị này là việc
truyền bá phúc âm hay đúng hơn là việc tân phúc âm hóa,
mà nền tảng của những vấn đề tân phúc
âm hóa này được bắt nguồn từ Tông Huấn
Evangilii Nuntiandi (về việc truyền bá phúc âm trong
thế giới tân tiến) của Đức Phaolô VI, được
ban hành năm 1975 theo sau khóa họp chung lần thứ ba của
Thượng Hội Giám Mục Thế Giới. Các công
nghị này tự ḿnh cũng là một phần trong công cuộc
tái phúc âm hóa: Chúng phát sinh từ viễn ảnh về Giáo Hội
của Công Đồng Chung Vaticanô II’.
“Việc Giáo Hội truyền
bá phúc âm để đem Mùa Xuân Cứu Rỗi đến
cho Mùa Đông Lịch Sử loài người trong Thời Điểm
Hồng Ân từ Năm 2000 này hoàn toàn hợp với,
nếu không muốn nói là làm hiện thực, ư định
của Vị Chúa Xuân, Đấng ‘là tất cả trong
mọi sự’ (1Cor.15:28), như Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II đă chia sẻ trong bài Giáo Lư Năm Thánh 2000 đầu
tiên ngày 19-11-1997, đoạn 5, như sau:
·
‘Thiên Chúa là Chúa của
thời gian không những như đấng hoá công của
thế giới, mà c̣n như tác giả của một cuộc
tân tạo trong Đức Kitô nữa. Ngài nhúng tay vào
việc chữa lành và cải hoá thân phận con người
đă bị tội lỗi đả thương sâu
nặng. Ngài đă dùng nhiều thời gian trong việc
sửa soạn dân Ngài cho quang vinh của cuộc tân tạo
này, đặc biệt qua lời của các vị tiên tri:
‘Này đây, Ta tác tạo trời mới và đất mới;
rồi những cái trước kia sẽ không c̣n được
tưởng nhớ hay gợi nhớ nữa. Hăy vui mừng
và hoan hỉ luôn măi nơi cái mà Ta tạo dựng; này đây,
Ta tạo cho Gialiêm niềm hoan lạc và dân thành niềm vui sướng’
(Is.65:17-18).
‘Lời
hứa của Ngài đă nên trọn 2000 năm trước đây
qua việc hạ sinh của Đức Kitô. Theo ư nghĩa
này, biến cố kỷ niệm mừng là một lời
mời gọi cử hành một kỷ nguyên Kitô giáo như
là một giai đoạn canh tân đối với nhân
loại cũng như đối với vũ trụ. Cho dù
khó khăn và khổ đau, những năm qua đă là 2000
năm ân phúc.
‘Những
năm tới đây, cũng thế, ở trong bàn tay của
Thiên Chúa. Tương lai của con người, trước
hết là tương lai của Thiên Chúa, theo nghĩa là
chỉ có một ḿnh Ngài biết nó, sửa soạn cho nó và
thực hiện nó. Dĩ nhiên, Ngài kêu gọi và mời con người
cộng tác, thế nhưng, Ngài không ngừng là ‘vị chủ
tŕ’ siêu việt của lịch sử.
‘Nắm
vững như vậy, chúng ta ra tay thực hiện việc
sửa soạn cho Cuộc Mừng Kỷ Niệm. Chỉ một
ḿnh Thiên Chúa biết tương lai sẽ ra sao. Tuy nhiên, chúng
ta biết rằng trong bất cứ một biến cố
nào nó cũng sẽ là một tương lai ân phúc; nó sẽ
là việc hoàn tất ư định yêu thương thần
linh đối với toàn thể loài người cũng như
đối với mỗi một người trong chúng ta. Đó
là lư do tại sao, khi chúng ta nh́n về tương lai, chúng
ta tràn đầy hy vọng và không sợ hăi. Cuộc hành
tŕnh tiến đến việc Mừng Kỷ Niệm là một
cuộc hành tŕnh hy vọng cao vời’.
(Tuần san
L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 26-11-1997)
“Nếu ‘cuộc hành tŕnh
tiến đến việc Mừng Kỷ Niệm là một
cuộc hành tŕnh hy vọng cao vời’, th́ nó cũng là ‘một
chặng hành tŕnh của nhân loại hướng về định
mệnh chung cuộc của thời gian’, theo lời Đức
Thánh Cha chia sẻ trong bài Giáo Lư Năm 2000 ngày 10-12-1997, đoạn
4, như sau:
·
‘Nếu thời
gian nơi Chúa Kitô được nâng lên tới một mức
độ cao hơn, khi nhận đuợc khả năng
tiến tới vĩnh cửu, th́ có nghĩa là việc ngàn
năm đang tiến tới không được coi như
một tiến bước thuần túy theo gịng thời
gian, mà là như một chặng hành tŕnh của nhân loại
hướng về đinh mệnh chung cuộc của nó.
‘Năm
2000 không phải chỉ là cửa qua một ngàn năm khác;
nó là cửa cho cơi trường sinh mà, trong Chúa Kitô, tiếp
tục mở ra trong thời gian để ban cho nó một
hướng đi đích thực cũng như một ư
nghĩa chuyên chính.
‘Năm 2000 tỏ bày cho tâm trí
và cơi ḷng của chúng ta một cái nh́n bao rộng hơn liên
quan đến tương lai. Thời gian thường
không được tri nhận. Nó dường như làm con
người thất vọng về t́nh trạng bất
ổn của nó, về việc trôi qua nhanh chóng của nó,
khiến cho tất cả mọi sự thành vô dụng.
Thế nhưng, nếu vĩnh cửu đă hội
nhập thời gian, th́ không thể chối bỏ được
cái giá trị phong phú của chính thời gian. Việc trôi đi
dứt khoát không phải là một hành tŕnh tiến đến
hư vô, mà là một hành tŕnh tiến về vĩnh cửu.
‘Cái
nguy hiểm thực sự không phải là việc trôi theo thời
gian, mà là sử dụng nó một cách tệ hại, khi
chối bỏ sự sống đời đời được
Chúa Kitô hiến ban. Ước vọng được
sự sống và hạnh phúc trường sinh phải được
tái thức tỉnh không ngừng nơi tâm can con người.
Việc cử hành Cuộc Mừng Kỷ Niệm có một
ư nghĩa đích thực là làm tăng phát niềm ước
vọng này, giúp cho các tín hữu và con người của thời
đại chúng ta mở ḷng ḿnh ra cho một cuộc
sống vô biên’.
(Tuần san
L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 17/24-12-1997)
“Nếu ‘việc cử hành
Cuộc Mừng Kỷ Niệm có một ư nghĩa đích
thực là làm tăng phát niềm ước vọng này, giúp
cho các tín hữu và con người của thời đại
chúng ta mở ḷng ḿnh ra cho một cuộc sống vô biên’, th́
phải chăng Mùa Xuân Cứu Rỗi đến từ Thời
Điểm Hồng Ân Năm Thánh 2000 này chính là thời
kỳ xẩy ra sau Mùa Đông Lịch Sử của lạnh
giá và tối tăm: lạnh giá ở chỗ ‘ḷng người
ra nguội lạnh’ (Mt.24:12),
và tối tăm ở chỗ ‘các tiên tri giả sẽ
xuất hiện vô số để lừa đảo
nhiều người’ (Mt.24:11),
một Mùa Xuân Cứu Rỗi đă được Chúa Kitô
báo trước trong Phúc Âm như một ‘dấu chỉ
thời đại’ (Mt.16:3)
tỏ tường về ngày cánh chung của thế giới:
·
‘Tin mừng
về nước Thiên Chúa sẽ được rao
giảng khắp thế giới như là một chứng từ
cho mọi dân nước. Chỉ sau đó mới tới cùng
tận’ (Mt.24:14).
(Đaminh Maria Cao
Tấn Tĩnh, BVL, Mùa Xuân Gieo Tin Mừng Cứu Độ,
Diễn Đàn
Kitô Hữu, 1999, trang 134-141;
Mùa Xuân Cứu Rỗi, Dân Chúa Úc Châu
6/1999 và Dân Chúa Mỹ Châu 8/1999)