ĐỨC GIOAN PHAOLÔ II:
“VUI MỪNG và HY VỌNG”
của
“GIÁO HỘI TRONG THẾ GIỚI TÂN TIẾN”
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
“MỘT TIA SÁNG PHÁT HIỆN TỪ BALAN…”
"Đừng Sợ...
Hăy Mở Cửa Cho Chúa Kitô"
Vị Tông Đồ
của Ḷng Thương Xót Chúa
“Sửa Soạn Thế Giới cho Lần Đến Cuối Cùng của Cha”
“MỘT TIA SÁNG PHÁT HIỆN TỪ BALAN…”
Nếu chưa có một lễ an táng nào uy nghi trang trọng nhưng lại vui nhộn tưng bừng hân hoan như của vị giáo hoàng vừa nằm xuống vào ngày Thứ Bảy Đầu Tháng lễ vọng Chúa T́nh Thương hôm 2/4/2005 vừa rồi, th́ phải thú thực là chưa bao giờ người Công giáo nói riêng và Giáo Hội Công giáo nói chung cảm thấy vinh dự qua cái chết của Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II như vậy. Với cái chết của Mẹ Têrêsa Calcutta, một nữ tu Kitô hữu Công giáo được cả thế giới ngưỡng mộ khi c̣n sống cũng như lúc qua đời và được một nước theo Ấn giáo thực hiện một cuộc quốc táng, Kitô giáo nói chung và Giáo Hội Công giáo nói riêng đă lấy làm vinh dự lắm rồi về con người được tặng biệt danh là “Biểu hiệu Đức Ái Kitô giáo”. Thế nhưng, với cái chết của Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, qua Thánh Lễ an táng chưa từng có trong lịch sử, phải nói là vinh dự của Giáo Hội Công giáo đă lên đến tuyệt đỉnh.
Thế nhưng, muốn biết tại sao con người Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II được cả thế giới ngưỡng mộ và đă đi vào lịch sử loài người như thế, một con người ở vào trường hợp chẳng những thời thế tạo anh hùng (khi Balan bị khống chế bởi Đức Quốc xă và Cộng Sản) mà c̣n thánh nhân tạo lịch sử (vai tṛ giáo hoàng rao giảng Phúc Âm Sự Sống khắp nơi trên thế giới bằng giáo thuyết cũng như bằng các cuộc tông du theo đường hướng duc in altum), một con người không phải chỉ là một thứ hiện tượng hay thần tượng nhất thời, mà là một di sản đă được hầu như mọi người hết ḷng trân quí và là một tên tuổi được lịch sử thế giới vinh danh như vĩ nhân, chúng ta cần phải trở về nguồn để biết được đâu là ư muốn của Đấng làm chủ lịch sử trong việc Ngài chọn con người đặc biệt này ở vào thời điểm đặc biệt ấy.
Thật vậy, ư nghĩa của tất cả mọi sự nói chung và của cuộc đời con người nói riêng là ở tại cùng đích hay mục đích của nó. Nghĩa là, nếu con người ư thức được và tận lực đạt đến cùng đích của ḿnh là họ đă sống một cuộc đời hết sức ư nghĩa rồi vậy. Mà mục đích của đời sống con người, một mục đích làm nên cốt lơi và là ư nghĩa đời sống của con người, được chất chứa nơi hay phản ánh qua ơn gọi hay sứ vụ của họ. Tức là, con người được kêu gọi để đạt tới cùng đích của ḿnh, và nếu không đạt được cùng đích của ḿnh là con người không làm trọn sứ vụ của họ, trái lại, khi họ nỗ lực sống trọn ơn gọi hay sứ vụ của họ là họ đă sống đúng với ư nghĩa của cuộc đời họ.
Nơi Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng thế, muốn hiểu được tất cả ư nghĩa của những ǵ ngài đă làm cho Giáo Hội trong 26 năm rưỡi, chúng ta cần phải nắm được chính cái cốt lơi của giáo triều ngài, hay nói cách khác, chúng ta cần phải biết rơ ơn gọi của ngài, tức là ngài được Thiên Chúa chọn làm giáo hoàng vào thời điểm Giáo Hội ở vào hậu bán thế kỷ 20 (chỉ c̣n chưa đầy 1 phần 4 thế kỷ) sau Công Đồng Chung Vaticanô II và mới bước vào ngàn năm thứ ba Kitô giáo đây để làm ǵ? Theo tôi, ơn gọi của vị giáo hoàng thứ 264 này của Giáo Hội là “để dọn đường cho lần đến cuối cùng của Cha”, đúng như lời Chúa Giêsu đă nói với vị thánh đầu tiên của đệ tam thiên kỷ là Faustina, vị tông đồ của Ḷng Thương Xót Chúa và là vị đă được đức giáo hoàng Balan phong thánh vào Chúa Nhật II Phục Sinh, 30/4/2000.
Vâng, vào năm 1994, khi Giáo Hội bắt đầu giai đoạn xa (1994-1997, v́ giai đoạn gần từ 1997-2000) dọn mừng Năm Thánh 2000, bấy giờ tôi đang chuyển dịch bộ sách (2 cuốn dầy 920 trang) “Tội Tràn Lan … Phúc Ngập Lụt!”, xuất bản năm 1995, nội dung bao gồm “Những lời thỏ thẻ của Chúa Giêsu với một số linh hồn ưu tuyển”, trong đó có Thánh nữ Faustina, tôi đă đọc thấy những lời Chúa Giêsu nói với chị như thế này:
· “Khi tôi đang cầu nguyện th́ tôi nghe thấy những lời của Chúa Giêsu như sau: ‘Cha đặc biệt yêu thương Balan, mà nếu Balan tuân theo ư muốn của Cha th́ Cha sẽ nâng Balan lên trong quyền năng và thánh thiện. Từ Balan sẽ phát ra một tia sáng để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha - From her will come forth the spark that will prepare the world for My final coming”. (Nhật Kư về Ḷng Chúa Thương Xót trong Hồn Tôi của chị Faustina, khoản số 1732)
Những lời này làm tôi vô cùng sửng sốt và nghĩ ngay đến Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II. Và tôi đă khai triển câu nói của Chúa Giêsu luôn ám ảnh tôi, mà tôi nghĩ rằng Người ám chỉ đến ĐTC GPII ấy, trong cuốn Hận Thù Quyết Thắng, xuất bản năm 1996, ở Chương 5, từ trang 53 đến 64. Thú thật, cho tới khi thấy bệnh t́nh của ngài càng ngày càng trầm trọng, t́nh trạng nguy kịch này lại xẩy ra sát kề ngày Lễ Chúa T́nh Thương, tôi cảm thấy thôi đúng rồi, câu Chúa Giêsu nói ấy quả thực ám chỉ về ngài. Để rồi, khi hay tin ngài quả thực qua đi vào thời điểm Lễ Vọng Kính Chúa T́nh Thương, và đă qua đi không lâu ngay sau Thánh Lễ (vọng) Kính Chúa T́nh Thương được cử hành ở pḥng của ngài, tôi lại càng cảm thấy lời Chúa Giêsu quả thực nói về vị giáo hoàng có nhiều điềm lạ này.
Chưa hết, sau đó, tôi càng xúc động hơn nữa và càng cảm thấy thấm thía lời Chúa Giêsu nói về ngài như “một tia sáng phát ra từ Balan để dọn đường cho lần đến cuối cùng của Cha” hơn bao giờ hết, khi biết rằng sứ điệp cuối cùng vị giáo hoàng vừa nằm xuống gửi cho riêng Giáo Hội và thế giới, một sứ điệp được đọc lên sau khi ngài đă vĩnh viễn ra đi, sau khi ngài đă hoàn tất sứ vụ chủ chăn nhân lành của ḿnh cho đến hơi thở cuối cùng, đó là sứ điệp ngài đă viết sẵn cho Lễ Kính Chúa T́nh Thương Chúa Nhật 3/4/2005 về Ḷng Thương Xót Chúa.
Nếu quả thực sứ mệnh của “tia sáng (Karol Wojtyla - Gioan Phaolô II) phát hiện từ Balan” này là “để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha” đây, th́ “tia sáng” này đă thực hiện sứ vụ ấy của ḿnh như thế nào và đă hoàn tất sứ vụ này chưa mà qua đi rồi?
Chúng ta không biết được Chúa Giêsu có quả thực nói với chị Faustina câu nói có tính cách tiên tri “rùng rợn” (đối với nhiều người) ấy hay chăng, nhưng biết chắc một điều là nó có đó, như đă được chị viết ra, trong tập nhật kư của chị, và là một câu đă được chính vị giáo hoàng đồng hương của chị trích lại khi ngài về thăm Balan lần thứ tám, cũng là lần cuối cùng, vào thời đoạn 16-19/8/2002, ở bài giảng hôm Thứ Bảy 17/8/2002, trong Thánh Lễ cung hiến tân Đền Thờ Chúa T́nh Thương, nơi cách đó không xa là khu hầm mỏ Solvay, địa điểm khi c̣n trẻ ngài đă làm việc trong thời kỳ Nazi chiếm đóng Balan, và đó là lư do khiến ngài đă hết sức xúc động bộc phát lên những lời cảm kích như sau: “Ai có thể nghĩ rằng có người đă từng bước đi ở nơi đây với những chiếc giầy bằng gỗ mà một ngày kia lại là người cung hiến ngôi đền thờ này nhỉ?” Trong bài giảng của ḿnh, ngài đă đề cập tới lời Chúa Giêsu nói với chị Faustina về “một tia sáng phát ra từ Balan…”, ám chỉ về chính Ḷng Thương Xót Chúa từ Balan tỏa khắp thế giới như sau:
· “Thế nên, hôm nay đây, tại Đền Thánh này, Tôi xin long trọng kư thác thế giới cho Ḷng Thương Xót Chúa. Tôi làm như vậy với một ḷng thiết tha mong ước thấy sứ điệp của t́nh yêu nhân hậu Thiên Chúa, được loan báo nơi đây qua Thánh Faustina, cũng được tất cả mọi dân tộc trên thế giới biết đến và làm cho ḷng họ tràn đầy niềm hy vọng. Chớ ǵ sứ điệp này, từ nơi đây, chiếu tỏa ra cho quê hương thân yêu của chúng ta cũng cho khắp thế giới. Chớ ǵ lời hứa quyết của Chúa Giêsu được nên trọn, ở chỗ, từ nơi đây phải chiếu giăi ra ‘tia sáng sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha’ (x Nhật Kư, 1732). Tia sáng này cần phải thắp lên bởi ân sủng của Thiên Chúa. Ngọn lửa t́nh thương này cần phải được chuyền đi cho thế giới. Trong t́nh thương của Thiên Chúa thế giới mới t́m thấy ḥa b́nh và nhân loại mới t́m thấy hạnh phúc!”
Phải chăng vị giáo hoàng, v́ đọc được những lời này, thậm chí hoàn toàn tin tưởng những lời ấy, mà vào ngày 11/5/1997, tại Lebanon, ngài đă, vô t́nh hay cố ư, thốt lên những lời rơ ràng như sau:
· “Tất cả chúng ta đang sống trong Mùa Vọng của những ngày lịch sử cuối cùng, và tất cả chúng ta đang nỗ lực sửa soạn đón Chúa Kitô đến để thiết dựng vương quốc của Thiên Chúa đă được Người loan báo - We are all living in the Advent of the last days of history, and all trying to prepare for the coming of Christ, to build the kingdom of God which he proclaimed” (L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 14/5/1997, trang 2).
Những lời này là âm vang từ những ǵ ngài đă mở đầu cho bức thông điệp khai triều của ngài, bức Thông Điệp Redemptor Hominis – Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần, được ban hành ngày 4/3/1979, Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Chay, với những lời lẽ như sau:
· "Thật vậy, thời điểm này, một thời điểm mà theo ư định kín nhiệm của Thiên Chúa, Ngài đă trao cho tôi, sau vị tiền nhiệm Gioan-Phaolô I yếu mến của tôi, việc phục vụ hoàn vũ liên quan đến Toà của Thánh Phêrô ở Rôma, th́ đă rất gần đến năm 2000 rồi… Chúng ta, một cách nào đó, cũng đang ở trong một Mùa Vọng mới, một mùa đợi trông…" (đoạn 1).
V́ nhận thức Giáo Hội đang sống trong một Mùa Vọng đợi trông Chúa Kitô là Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần như thế, ngài đă cảm thấy có trách nhiệm hướng ḷng trí con người nói chung và Giáo Hội nói riêng về “Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần là trung tâm của vũ trụ và của lịch sử” (câu mở đầu cho bức thông điệp này), như ngài đă minh định trong khoản số 7 như sau:
· "Điều chúng ta phải làm là ǵ đây, để mùa vọng mới này của Giáo Hội có dính dáng đến việc tiến đến hồi kết thúc của đệ nhị thiên niên này, có thể làm cho chúng ta gần hơn với Đấng mà Thánh Kinh gọi là ‘Cha Hằng Sống’ Pater futuri saeculi (Is 9:6)? Đây là một câu hỏi chính yếu mà vị Tân Giáo Hoàng này phải tự đặt ra, theo tinh thần đức tin trong việc tuân hành chấp nhận tiếng gọi để đáp lại lệnh truyền mà Chúa Kitô đă mấy lần ngỏ với thánh Phêrô: 'Hăy chăn các chiên của Thày' (Jn 21:15), tức: Hăy làm chủ chăn đàn chiên của Thày, cũng như: ‘Hăy làm cho các anh em của con vững mạnh khi con phục hồi' (Lk 22:32). Đối với câu hỏi này, quí huynh và anh chị em thân mến, cần phải có một giải đáp thực sự và xác đáng. Câu giải đáp của chúng ta phải là thế này: Tinh thần của chúng ta phải hướng về một chiều, một chiều duy nhất cho lư trí, ư muốn và tâm can của chúng ta, đó là hướng về Đức Kitô, Đấng Cứu Chuộc của chúng ta, hướng về Đức Kitô, Đấng Cứu Chuộc của nhân loại. Chúng ta muốn hướng về Người, v́ không có ơn cứu rỗi nơi một ai khác ngoài Người, Con Thiên Chúa, bằng cách lập lại lời của thánh Phêrô: 'Lạy Chúa, chúng con c̣n biết theo ai? Chúa có những lời sự sống đời đời' (Jn 6:68; x.Acts 4:8-12)".
Chắc chắn một điều là ĐTC GPII không hề biết được đích xác ngày giờ ngài qua đời, tức ngài sẽ chăn dắt Giáo Hội bao lâu, có thể là lâu hơn Đức Gioan Phaolô I, vị xuất hiện trong lịch sử Giáo Hội có 33 ngày ngắn ngủi, nhưng lâu tới bao giờ. Tuy nhiên, ngài vẫn cảm thấy có một cái ǵ đó thúc đẩy ngài hướng ngay về Đại Năm Thánh 2000, cách thời điểm ngài viết bức thông điệp đầu tiên của ngài bấy giờ 21 năm nữa.
Phải chăng thời gian 26 năm rưỡi chăn dắt Giáo Hội, một thời gian lâu dài đứng vào hàng thứ 3 trong lịch sử Giáo Hội của vị giáo hoàng 264 này, cũng là dấu chứng cho thấy vai tṛ dọn đường “sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha” của ngài?
Trong thời gian 26 năm rưỡi này, ngài đă mở đầu bằng Thông Điệp Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần, một thông điệp được ban hành vào Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Chay 4/3/1979, và kết thúc bằng Sứ Điệp Chúa T́nh Thương, một sứ điệp cho Lễ Kính Ḷng Thương Xót Chúa 3/4/2005, một sứ điệp đă được đọc lên tại Quảng Trường Thánh Phêrô trước buổi Nguyện Kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng sau Thánh Lễ Kính Chúa T́nh Thương cầu hồn cho ngài. Có thể nói, ơn gọi của vị hồng y Balan Karol Wojtyla lên làm giáo hoàng Gioan Phaolô II đó là để thực hiện sứ vụ đưa con người về với ḷng thương xót Chúa, “Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần”.
Nếu so sánh Đức Phaolô VI là vị giáo hoàng về Giáo Hội, với thông điệp mở màn cho giáo triều của ngài là “Giáo Hội của Người - Ecclesiam Suam”, ban hành ngày Lễ Chúa Biến H́nh 6/8/1964, đúng 14 năm trước cùng ngày ngài qua đời, cũng như với vai tṛ thay Đức Gioan XXIII (qua đời ngày 3/6/1963) chủ tọa Công Đồng Chung Vaticanô II (11/10/1962-8/12/1965), th́ Đức Gioan Phaolô II, căn cứ vào tất cả những những ǵ ngài nói và làm, là vị giáo hoàng cho nhân loại.
Thật vậy, Công Đồng Chung Vaticanô II là công đồng về Giáo Hội, về việc Giáo Hội làm sao nhận thức được bản thân ḿnh để có thể chiếu tỏa ánh sáng Chúa Kitô trước thế giới (Lumen Gentium, 1). Đó là lư do Công Đồng đă ban bố hai (trong 4) hiến chế về Giáo Hội, Hiến Chế Tín Lư về Giáo Hội Lumen Gentium - Ánh Sáng Muôn Dân (ban hành ngày 21/11/1964), liên quan đến việc Giáo Hội ư thức ḿnh là “ánh sáng muốn dân”, và Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội Gaudium et Spes – Vui Mừng và Hy Vọng (ban hành ngày 7/12/1965, áp ngày bế mạc Công Đồng), liên quan đến việc chiếu tỏa Chúa Kitô ra trước thế giới tân tiến. Như thế, có thể so sánh như sau: nếu Đức Phaolô VI là tiêu biểu cho Hiến Chế Lumen Gentium về bản chất của Giáo Hội, th́ Đức Gioan Phaolô II là hiện thân của Hiến Chế Gaudium et Spes – Giáo Hội trong thế giới tân tiến.
Phải chăng v́ Đức Gioan Phaolô II là vị Giáo Hoàng của thế giới tân tiến, của nhân loại mà trong giáo triều của ngài đă xẩy ra nhiều biến cố khiến ngài, cùng với Giáo Hội, với tư cách là tiếng lương tâm của nhân loại, đă phải nhắc nhở con người, đă phải “làm chính trị đạo lư”, đă thực hiện 104 cuộc tông du khắp thế giới, đă tăng số ngoại giao với các quốc gia từ 85 đến 174 và đă được cả 200 lănh tụ quốc gia đến tham dự Lễ an táng của ngài, những ǵ chưa từng xẩy ra ở một vị giáo hoàng nào trước đó!
Đức Gioan Phaolô II thực sự là vị giáo hoàng của Vui Mừng và Hy Vọng, của Hiến Chế Gaudium et Spes, một hiến chế chính ngài đă góp phần vào việc soạn thảo, và đă trích dẫn hai câu ở khoản số 22 và 24 rất nhiều lần trong giáo triều của ngài, đó là các câu cho thấy cốt lơi của chẳng những chính bản hiến chế này của Công Đồng mà c̣n của cả khoa nhân loại học Kitô giáo (Christian anthropology) lẫn giáo thuyết xă hội của Giáo Hội Công giáo nữa. Đó là câu:
· “Mầu nhiệm về con người chỉ thực sự được sáng tỏ trong mầu nhiệm Lời nhập thể… Chúa Kitô, Adong mới, trong khi mạc khải về Chúa Cha và về t́nh yêu của Ngài, đă cho con người biết rơ về chính con người họ và tỏ cho họ biết thiên chức rất cao cả của họ” (22).
· “Con người là tạo vật duy nhất trên trần gian này được Thiên Chúa dựng nên v́ chính bản thân họ chỉ có thể gặp lại chính ḿnh khi thành thực trao ban ḿnh đi” (24).
Trong Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật II Mùa Chay 7/3/2004, ĐTC GPII đă nhắc lại ư tưởng chính yếu hết sức hệ trọng này như sau:
· “Tôi muốn ngỏ lời huấn dụ này cho toàn thế giới 25 năm trước đây, chính vào lúc mở màn cho Mùa Chay này, trong thông điệp ‘Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần’ (xem số 7). Nếu con người muốn hiểu về ḿnh cách tường tận, bấy giờ Tôi viết, họ cần phải đến gần Chúa Kitô, họ phải đi sâu vào Người, họ phải ‘thích hợp’ với Người và phải đồng hóa với toàn thể thực tại của công cuộc Cứu Chuộc (xem số 10). Hôm nay đây sự thật này hợp thời biết bao!” (đoạn 3)
Đó là lư do, vào chiều ngày Thứ Năm 16/10/2003, đúng 25 năm sau được bầu làm giáo hoàng, ĐTC Gioan Phaolô II đă cử hành thánh lễ trọng thể ở Quảng Trường Thánh Phêrô với 50 ngàn người tham dự. Đồng tế có Hồng Y Đoàn, các vị TGM và GM, các vị coi sóc các giáo xứ ở Rôma, có cả hai vị chủ tịch hai hội đồng giám mục Ư (Carlo Azeglio Ciampi) và Balan (Aleksander Kwasniewski), và các phái đoàn đại biểu từ 17 quốc gia trên thế giới. Trong bài giảng của ḿnh, ĐTC, sau khi đă nhắc lại cảm giác của ngài khi vừa được chọn làm giáo hoàng, ngài đă lập lại lời ngài kêu gọi chung loài người 25 năm trước:
· “Đừng sợ tiếp đón Chúa Kitô và chấp nhận quyền bính của Người! Hôm nay đây, Tôi mạnh mẽ lập lại là: Hăy mở cửa, hăy mở rộng của cho Chúa Kitô! Hăy để cho Người hướng dẫn anh chị em! Hăy tin tưởng vào t́nh yêu của Người!”.
"Đừng Sợ... Hăy Mở Cửa Cho Chúa Kitô"
Thế nhưng, loài người ở vào thời của Thông Điệp Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần với thời của đầu thiên kỷ thứ ba chẳng những không khá hơn mà c̣n càng ngày càng tệ hơn nữa, càng nguy vong hơn nữa.
Trước mắt của vị giáo hoàng mới đăng quang được gần 5 tháng (22/10/1978-4/3/1979), khi ngài ban hành bức thông điệp đầu tay của ngài, thế giới hiện lên như sau:
· "Con người ngày nay h́nh như chưa bao giờ bị đe dọa bởi cái họ làm ra như vậy, nghĩa là từ thành quả của việc do bàn tay họ làm, và c̣n hơn thế nữa, của công việc do lư trí con người nghĩ ra cũng như của những khuynh hướng do ư con người muốn. Tất cả những ǵ do hoạt động đa diện này của con người sản xuất ra, thường bằng một đường lối không thể nào thấy trước được, rất là nhanh chóng, chẳng những nó gây nên 'sự tách biệt', ở chỗ nó thường lấy đi khỏi con người là tác nhân sản xuất ra chúng, mà hơn thế nữa, nó c̣n trở mặt phản lại chính con người, ít là một phần nào đó, qua những hậu quả gián tiếp nó tác dụng khi trả về cho họ. Nó được và có thể được nhắm thẳng vào con người. Điều này có thể tạo nên một màn thảm kịch chính yếu cho việc hiện hữu con người ngày nay trong một chiều kích rộng nhất và phổ quát của nó. Bởi thế, con người đang sống trong nỗi sợ hăi gia tăng. Họ sợ cái họ sản xuất ra - dĩ nhiên không phải là tất cả những cái ấy, hay hầu hết những thứ ấy, nhưng là một phần của nó, đích xác hơn là cái phần chứa đựng một thừa hưởng đặc biệt bởi tài năng và sự sáng tạo của họ - có thể phản lại chính họ tận gốc rễ; họ sợ rằng nó có thể trở thành phương tiện và dụng cụ cho một cuộc tự diệt không thể nào tưởng tượng nổi, so với tất cả những hủy hoại dữ dội và những hủy diệt bất ngờ trong lịch sử mà chúng ta biết đến th́ chỉ là một bóng mờ. Điều này gợi lên một vấn đề là: Tại sao quyền năng được ban cho con người từ ban đầu để họ làm chủ trái đất (cf. Gen 1:28) lại quay ra chống lại họ, gây ra một t́nh trạng bất an không sao hiểu được, một nỗi sợ hăi ư thức hay vô thức, cũng như một mối nguy hiểm, mà trong những cách thức khác nhau, được truyền lan đến cả gia đ́nh nhân loại ngày nay, và đang thể hiện dưới những phương diện khác nhau?...” (khoản số 15)
·
· "Bởi thế, nếu trong thời điểm của chúng ta, thời điểm đang tiến đến tận cùng đệ nhị thiên niên của kỷ nguyên Kitô giáo, tỏ ra ḿnh là một thời điểm phát triển lớn lao, th́ nó cũng được thấy như là một thời điểm của mối đe dọa đối với con người bằng nhiều h́nh thức... T́nh trạng của con người trong thế giới tân tiến này thật sự xa rời khỏi những đ̣i hỏi khách quan của trật tự luân lư, khỏi những đ̣i hỏi của công lư, và c̣n hơn thế nữa, của t́nh yêu thương trong xă hội... Ư nghĩa chính yếu của 'vai tṛ chủ tể' và 'thống trị' của con người trên thế giới hữu h́nh mà Chính Tạo Hóa trao cho con người như công việc của họ, hệ tại việc đạo đức ưu tiên hơn kỹ thuật, con người chính yếu hơn sự vật, và tinh thần trọng hơn vật chất… Thật vậy, đă có thể thấy được một cơn nguy biến ở chỗ, trong khi việc con người làm chủ trên thế giới sự vật đang tạo nên những phát triển khổng lồ, th́ họ liều mất đi những cái cốt yếu làm nên chủ quyền của ḿnh, và bằng nhiều cách thức khác nhau, để cho nhân tính của ḿnh lụy thuộc vào thế gian, rồi chính ḿnh cũng trở nên một vật làm tôi phục vụ cho sự lạm dụng dưới nhiều h́nh thức - sự lạm dụng này thường không trực tiếp thấy được - qua toàn thể cơ cấu của cuộc sống chung, qua hệ thống sản xuất và qua áp lực từ phương tiện truyền thông xă hội. Con người không thể nào vùi dập bản thân ḿnh hay vị trí của ḿnh trong cái thế giới hữu h́nh là một thế giới thuộc về họ; họ không thể nào trở nên nô lệ cho sự vật, nô lệ cho những cơ cấu kinh tế, nô lệ cho việc sản xuất, nô lệ cho những sản phẩm riêng của ḿnh" (khoản số 16)
·
"Thế kỷ này, cho đến nay, vẫn là một thế kỷ của những hủy hoại lớn lao đối với con người, của những tàn phá vĩ đại, chẳng những về vật chất mà c̣n cả về luân lư, thực sự là thế, có lẽ trên hết là về mặt luân lư. Đồng ư là, về phương diện này, việc so sánh thời đại này hay thế kỷ này với thời đại khác hay thế kỷ khác không phải là một việc dễ dàng, v́ điều này c̣n lệ thuộc vào những tiêu chuẩn lịch sử. Tuy nhiên, dù không mang ra so sánh chăng nữa, người ta cũng không thể nào không nhận thấy rằng thế kỷ này, cho tới nay, vẫn là một thế kỷ mà người ta đă gây ra cho nhau nhiều bất công và khổ đau. Diễn tiến này đă được dứt khoát chế ngự chưa?... Bất chấp những cơ sở ấy (điển h́nh là tổ chức Liên Hiệp Quốc), các quyền lợi con người vẫn đang bị vi phạm bằng nhiều h́nh thức, khi mà, trong thực hành, chúng ta thấy trước mắt có những trại tập trung, bạo lực, hành hạ, khủng bố, và kỳ thị dưới nhiều thể cách, th́ sự kiện này phải là hậu quả của những chủ trương khác đang gặm nhấm và hầu như thường vô hiệu hóa những nền tảng nhân bản của những tổ chức và dự án hoạt động tân tiến này. Đối với hiện trạng như thế, cần phải có một trách nhiệm trong việc liên tục điều chỉnh những dự án hoạt động, dựa trên quan điểm về các quyền lợi khách quan và bất khả xâm phạm của con người. (khoản số 17).
Thế rồi, vào thời điểm vị giáo hoàng không phải người Ư sau 455 năm xuất hiện “từ một xứ sở xa xăm” này về thăm quê hương lần cuối cùng vào mùa hè năm 2002, loài người bấy giờ đă ở vào một t́nh trạng nguy vong đến độ ngài đă phải chính thức và long trọng hiến dâng thế giới, một thế giới khốn khổ thảm thương về mọi lănh vực, cho Ḷng Thương Xót Chúa tại ngôi Đền Thờ Chúa T́nh Thương vào ngày Thứ Bảy 17/8/2002:
“Anh Chị Em thân mến!
“1. Hôm nay Tôi muốn lập lại những lời đơn sơ và chân thành này của Thánh Nữ Faustina để hợp với thánh nhân cũng như với tất cả anh chị em tôn thờ mầu nhiệm khôn thấu và khôn lường của t́nh thương Thiên Chúa. Như Thánh Faustina, chúng ta muốn loan báo rằng, ngoại trừ t́nh thương của Thiên Chúa, không c̣n một nguồn hy vọng nào khác cho loài người nữa. Chúng ta cần tin tưởng lập lại rằng: Lạy Chúa Giêsu, con tin tưởng nơi Chúa!
“Việc loan báo này, việc tuyên xưng ḷng tin tưởng vào t́nh yêu toàn năng của Thiên Chúa là việc đặc biệt cần thiết ở thời đại chúng ta đây, khi mà nhân loại đang trải qua một t́nh trạng biến loạn trước những xuất hiện của sự dữ. Việc kêu cầu ḷng thương xót Chúa cần phải được vang lên từ thẳm cung của các cơi ḷng đầy những khổ đau, băn khoăn về tương lai và sống trong bất ổn, đồng thời lại trông mong một nguồn hy vọng vững chắc. Đó là lư do tại sao chúng ta đến đây hôm nay, đến Ngôi Đền Thờ Lagiewniki này, để một lần nữa thoáng thấy nơi Chúa Kitô dung nhan của Thiên Chúa Cha: ‘Người Cha của t́nh thương và là Thiên Chúa của tất cả mọi niềm ủi an’ (2Cor 1:3). Bằng con mắt linh hồn của ḿnh, chúng ta mong nh́n vào đôi mắt của Chúa Giêsu nhân hậu, để thấy được sâu xa trong ánh mắt của Người những ǵ phản ảnh nội tâm của Người, cũng như thấy được ánh sáng ân sủng là những ǵ chúng ta đă thường xuyên lănh nhận, và là những ǵ Thiên Chúa ban lại cho chúng ta mỗi ngày cũng như vào ngày cuối cùng của cuộc đời chúng ta.
“5.- ‘Lạy Cha hằng hữu, v́ tội lỗi của chúng con và của toàn thế giới, con xin dâng lên Cha Ḿnh Máu, Linh Hồn và Thiên Tính của Con Cha yêu dấu là Chúa Giêsu Kitô; v́ những sự khốn khó của Cuộc Người Khổ Nạn, xin Cha thương đến chúng con và toàn thế giới’ (Nhật Kư, 476). Thương đến chúng con và toàn thế giới… Thế giới ngày nay cần đến t́nh thương của Thiên Chúa biết bao! Nơi hết mọi lục địa, từ vực sâu khốn khổ của loài người, tiếng kêu cầu xót thương dường như đang vang dậy. Nơi nào thù hằn và đ̣i rửa hận thống trị, nơi nào chiến tranh mang lại đau thương và chết chóc cho thành phần vô tội, th́ ở đó cần đến ân sủng t́nh thương để ổn định ḷng trí con người và tạo lập ḥa b́nh. Nơi nào thiếu hụt ḷng trọng kính sự sống và phẩm vị con người th́ ở đó cần đến t́nh yêu nhân hậu của Thiên Chúa, Đấng mà trong ánh sáng của Ngài, chúng ta thấy được giá trị khôn tả của hữu thể con người. Cần phải có t́nh thương để bảo đảm rằng hết mọi bất công trên thế giới này sẽ được kết thúc trong chân lư rạng ngời.
“Thế nên, hôm nay đây, tại Đền Thánh này, Tôi xin long trọng kư thác thế giới cho Ḷng Thương Xót Chúa. Tôi làm như vậy với một ḷng thiết tha mong ước thấy sứ điệp của t́nh yêu nhân hậu Thiên Chúa, được loan báo nơi đây qua Thánh Faustina, cũng được tất cả mọi dân tộc trên thế giới biết đến và làm cho ḷng họ tràn đầy niềm hy vọng. Chớ ǵ sứ điệp này, từ nơi đây, chiếu tỏa ra cho quê hương thân yêu của chúng ta cũng cho khắp thế giới. Chớ ǵ lời hứa quyết của Chúa Giêsu được nên trọn, ở chỗ, từ nơi đây phải chiếu giăi ra ‘tia sáng sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha’ (x Nhật Kư, 1732)”.
Chưa hết, trong bài giảng phong chân phước cho 4 vị đồng hương của ngài vào Chúa Nhật 18/8/2002 trong chuyến thăm quê hương lần thứ 8 này, ngài c̣n thấy hiện trạng vô cùng đáng thương của con người tân tiến, một hiện trạng rất cần đến vai tṛ của Giáo Hội trong việc mang t́nh thương của Chúa đến cho nhân loại, cho một thế giới ở vào thời điểm thế kỷ 20 càng ngày càng đi đến chỗ tự diệt vong nên lại càng đúng lúc cần đến Ḷng Thương Xót Chúa, như ngài đă bày tỏ:
“3.- Từ khi bắt đầu hiện hữu, Giáo Hội, qua việc bày tỏ mầu nhiệm Thập Giá và Phục Sinh, đă rao giảng t́nh thương Chúa, một bảo chứng hy vọng và là nguồn mạch cứu độ con người. Tuy nhiên, hôm nay đây chúng ta dường như được kêu gọi đặc biệt để loan báo sứ điệp này trước thế giới. Chúng ta không thể lơ là với sứ vụ này, nếu chính Thiên Chúa đă kêu gọi chúng ta thực hiện sứ vụ này qua chứng từ của Thánh Nữ Faustina.
“Thiên Chúa đă chọn thời đại của chúng ta cho mục đích này. Có lẽ v́ thế kỷ 20, mặc dù có những thành đạt không thể chối căi về nhiều lănh vực, cũng đă bị ghi dấu một cách đặc biệt bởi mầu nhiệm lỗi lầm ‘mystery of iniquity’. Chúng ta đă tiến vào ngàn năm mới với di sản vừa thiện vừa ác này. Những chân trời mới trong việc phát triển đang mở ra trước nhân loại, kèm theo đó có cả những cái nguy hiểm chưa từng có. Con người thường sống như thể Thiên Chúa không hiện hữu, thậm chí đặt ḿnh vào vị thế của Thiên Chúa nữa. Họ tự cho ḿnh quyền hành của một Vị Tạo Hóa trong việc can thiệp vào mầu nhiệm sự sống con người. Họ muốn định đoạt sự sống con người bằng cách léo lái việc truyền giống cũng như muốn thiết định giới hạn sự chết. Khi loại trừ lề luật thần linh và những nguyên tắc luân lư, họ công khai tấn công cơ cấu gia đ́nh. Bằng những cách thức khác nhau, họ cố gắng làm cho Thiên Chúa phải im hơi lặng tiếng nơi tâm can của con người; họ muốn làm cho Thiên Chúa ‘hoàn toàn khuất bóng’ nơi văn hóa và lương tâm các dân tộc. ‘Mầu nhiệm lầm lỗi’ tiếp tục đánh dấu cái thực tại của thế giới này.
“Cảm nghiệm được mầu nhiệm ấy, con người mới sống trong nơm nớp lo sợ về tương lai, lo sợ về t́nh trạng trống rỗng, lo sợ phải khổ đau, lo sợ bị hủy diệt. Có lẽ chính v́ lư do này mà Chúa Kitô, qua việc sử dụng chứng từ của một Nữ Tu thấp hèn, đă đến với thời đại của chúng ta để tỏ cho chúng ta thấy một cách rơ ràng nguồn mạch sống khuây khỏa và hy vọng ở nơi t́nh thương đời đời của Thiên Chúa.
“Sứ điệp t́nh yêu nhân hậu cần được vang vọng một cách mạnh mẽ một lần nữa. Thế giới cần đến thứ t́nh yêu này. Đă đến thời giờ cần phải mang sứ điệp của Chúa Kitô đến cho mọi người: cho các kẻ trị v́ và thành phần bị áp bức, cho những ai có bản tính và phẩm vị bị tiêu ma trong mầu nhiệm lỗi lầm. Đă đến thời giờ sứ điệp Ḷng Thương Xót Chúa có thể làm cho các tâm hồn tràn đầy hy vọng và trở nên tia sáng cho một nền văn minh mới, một nền văn minh yêu thương”.
Đó là lư do, vào Lễ Chúa T́nh Thương được cử hành lần đầu tiên hôm Ngày Chúa Nhật Thứ Hai Phục Sinh, 22/4/2001, trong bài giảng của ḿnh, ngài đă thúc giục loài người hăy tin tưởng vào t́nh yêu vô cùng nhân hậu của Thiên Chúa, một t́nh yêu duy nhất có thể cứu độ con người tội lỗi lại vô cùng bất lực:
“1.- ‘Đừng sợ, Ta là nguyên thủy và là cùng tận, là Đấng đang sống; Ta đă chết, mà này Ta đang sống muôn đời’ (Rev 1:17-18).
“Chúng ta đă nghe những lời an ủi này trong Bài Đọc Thứ Hai được trích từ Sách Khải Huyền. Những lời ấy mời gọi chúng ta hăy nh́n lên Chúa Kitô để cảm nghiệm được sự hiện diện an toàn của Người. Đấng Phục Sinh lập lại lời ‘Đừng sợ!’ với mỗi một người, dù thân phận họ ra sao, cho dù có bị thê thảm và rắc rối nhất. Ta đă chết trên Thập Giá, nhưng nay ‘Ta đang sống muôn đời’; ‘Ta là nguyên thủy và là cùng tận, là Đấng đang sống’.
“’Nguyên Thủy’ tức là nguồn gốc của hết mọi hữu thể và là hoa trái đầu mùa của việc tân tạo; ‘Cùng Tận’ là thời điểm vĩnh viễn kết thúc lịch sử; ‘Đấng đang sống’ là nguồn mạch vô tận của sự sống đă vĩnh viễn chiến thắng sự chết. Nơi Đấng Thiên Sai, tử giá và phục sinh, chúng ta nhận thấy những dấu vết của một Con Chiên bị hiến tế trên đồi Gôngôta, Đấng xin ơn thứ tha cho các kẻ hành h́nh Người và mở cửa trời cho các tội nhân thống hối; chúng ta thoáng nh́n thấy dung nhan của một Vị Vua bất tử, Đấng giờ đây nắm trong tay ‘ch́a khóa của Sự Chết và Âm Phủ’ (Rev 1:18).
“2.- ‘Hăy cảm tạ Chúa, v́ Chúa tốt lành; v́ t́nh Ngài xót thương muôn đời bền vững!’ (Ps 117:1).
“Chúng ta hăy cùng với Tác Giả Thánh Vịnh than lên câu chúng ta đă họa lại trong Bài Đáp Ca: T́nh Ngài xót thương muôn đời bền vững! Để hoàn toàn hiểu được chân lư của những lời này, chúng ta hăy theo phụng vụ đến tận tâm điểm của biến cố cứu độ, một biến cố liên kết Cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Kitô với đời sống của chúng ta cũng như với lịch sử của thế giới. Phép lạ này của t́nh thương đă biến đổi tận gốc định mệnh của nhân loại. Đó là một phép lạ tỏ ra cho thấy trọn vẹn t́nh yêu của Chúa Cha, Đấng v́ phần rỗi của chúng ta đă nhất định thực hiện việc hy tế Người Con Duy Nhất của ḿnh.
“Nơi Đức Kitô ô nhục và khổ đau, những người tín hữu, cũng như những ai vô tín ngưỡng cũng có thể ca ngợi, một mối liên kết lạ lùng ngoài sức tượng tượng, ràng buộc Người với thân phận nhân loại chúng ta. Thập Giá, ngay cả sau Cuộc Phục Sinh của Con Thiên Chúa, ‘đă nói và không thôi nói về Thiên Chúa Cha, Đấng tuyệt đối trung thành với t́nh yêu muôn thuở của Ngài đối với con người… Tin tưởng vào t́nh yêu này tức là tin tưởng vào t́nh thương’ (Thông Điệp Dives in Mesericordia Giầu Ḷng Xót Thương, đoạn 7).
“Chúng ta hăy cám ơn Chúa về t́nh Ngài yêu thương, một mối t́nh mạnh hơn sự chết và tội lỗi. T́nh yêu này được thể hiện và thực hiện như t́nh thương trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta, và thúc đẩy mọi người đáp lại bằng cách ‘xót thương’ Đấng Tử Giá. Không phải hay sao, chương tŕnh sống của hết mọi người đă lănh nhận Phép Rửa, cũng như của toàn thể Giáo Hội, đó là theo gương Chúa Giêsu yêu mến Thiên Chúa cũng như yêu thương nhau, cho dù là ‘kẻ thù’ của ḿnh?
“3.- Với những cảm thức này, chúng ta cử hành Chúa Nhật Thứ Hai Phục Sinh, một Chúa Nhật từ năm ngoái, năm Đại Hỷ, cũng đă được gọi là ‘Chúa Nhật Chúa T́nh Thương’. Anh chị em thân mến, Tôi hết sức vui mừng có thể được cùng với tất cả anh chị em là những người hành hương và tín hữu đến từ các quốc gia để cùng nhau tưởng niệm một năm sau biến cố phong thánh cho Thánh Faustina Kowalska, vị chứng nhân và là sứ giả của t́nh yêu nhân hậu Chúa Giêsu. Việc tuyên phong lên bàn thờ cho một nữ tu khiêm hạ này, một nữ tử của đất nước Tôi, không phải là món quà tặng cho Balan mà là cho tất cả nhân loại. Thật vậy, sứ điệp chị truyền đạt là một giải đáp thích hợp và quyết liệt Thiên Chúa muốn cống hiến cho những vấn nạn và mong đợi của con người trong thời đại của chúng ta đây, một thời đại bị đánh dấu bằng những thảm trạng kinh hoàng. Chúa Giêsu ngày kia đă nói với Thánh Faustina rằng: ‘Nhân loại sẽ không bao giờ t́m thấy ḥa b́nh, cho đến khi họ tin tưởng quay về với Ḷng Thương Xót Chúa’ (Diary, trang 132). Ḷng Thương Xót Chúa! Đó là quà tặng Phục Sinh Giáo Hội đă nhận được từ Chúa Kitô phục sinh để cống hiến cho loài người vào lúc rạng động của một thiên kỷ.
“4.- Phúc Âm vừa được công bố giúp chúng ta hiểu được trọn vẹn ư nghĩa và giá trị của quà tặng này. Thánh Kư Gioan làm cho chúng ta tham dự vào nỗi xúc động nơi các Tông Đồ khi các vị gặp Chúa Kitô sau khi Người Phục Sinh. Chúng ta chú ư đến cử chỉ của Vị Tôn Sư này, Đấng truyền đạt cho những người môn đệ đang bàng hoàng sợ hăi sứ vụ làm thừa tác viên của Ḷng Thương Xót Chúa. Người tỏ cho các vị thấy đôi tay và cạnh sườn c̣n mang những dấu tích Khổ Nạn của Người mà nói cùng các vị: ‘Như Cha đă sai Thày thế nào Thày cũng sai các con như vậy’ (Jn 20:21). Ngay sau đó, ‘Người đă thở hơi trên họ mà phán: Các con hăy nhận lấy Thánh Linh. Các con tha tội cho ai th́ tội họ được tha; các con cầm tội ai th́ tội họ bị cầm lại’ (Jn 20:22-23). Chúa Giêsu đă kư thác cho các vị tặng ân ‘thứ tha tội lỗi’, một tặng ân phát xuất từ những thương tích nơi tay chân của Người, nhất là từ cạnh sườn bị đâm của Người. Từ đó, một triều sóng t́nh thương đă tuôn ra cho toàn thể nhân loại.
“Chúng ta hăy sống lại giây phút ấy bằng cả một tinh thần hết sức thiết tha. Hôm nay đây Chúa Giêsu cũng tỏ cho chúng ta thấy những vết thương vinh hiển của Người cùng với trái tim của Người, một nguồn mạch vô tận của ánh sáng và chân lư, của yêu thương và tha thứ.
“5.- Trái Tim Chúa Kitô! ‘Thánh Tâm’ của Người đă ban cho con người hết mọi sự: ơn cứu chuộc, ơn cứu độ, ơn thánh hóa. Thánh Faustina Kowalska đă thấy phát ra từ Trái Tim Người tuôn đổ một yêu dạt dào hai tia sáng chiếu soi thế giới. ‘Hai tia sáng’, theo những ǵ Chúa Giêsu đă nói với chị, ‘tiêu biểu cho máu và nước’ (Diary trang 132). Máu gợi lại hy tế Gôngôta và mầu nhiệm Thánh Thể; nước, theo tính cách tiêu biểu phong phú của Thánh Kư Gioan, làm cho chúng ta nghĩ đến Phép Rửa và Tặng Ân Thánh Linh (x Jn 3:5; 4:14).
“Qua mầu nhiệm của trái tim bị thương tích này, triều sóng phục hồi của t́nh yêu nhân hậu Thiên Chúa tiếp tục lan tràn trên những con người nam nữ của thời đại chúng ta. Chỉ có ở đây những ai mong ước hạnh phúc chân thật và bền bỉ mới t́m được bí quyết của nó.
“6.- ‘Lạy Chúa Giêsu, con tin nơi Chúa’. Lời cầu nguyện này, lời cầu nguyện được rất nhiều tâm hồn đạo đức yêu chuộng, rơ ràng nói lên cho chúng con thấy thái độ chúng con cần phải phó ḿnh vào tay Chúa, Ôi Chúa, Đấng Cứu Thế duy nhất của chúng con.
“Chúa thiết tha muốn được mến yêu và những ai thông cảm nhận được những nỗi ḷng của trái tim Chúa sẽ biết cách xây dựng một thứ văn minh yêu thương. Một cử chỉ phó thác chân thành đă đủ thắng vượt những ngăng trở của bóng tối và sầu thương, của ngờ vực và thất vọng chán chường. Những tia sáng của ḷng thương xót Chúa phục hồi niềm hy vọng một cách đặc biệt cho những ai cảm thấy bị đè nén bởi gánh nặng tội lỗi.
“Hỡi Maria, Mẹ của T́nh Thương, xin giúp chúng con luôn tin tưởng vào Con Mẹ, Đấng Cứu Chuộc của chúng con. Xin Thánh Faustina là Vị chúng tôi đặc biệt nhớ đến trong ngày hôm nay đây, cũng trợ giúp chúng tôi nữa. Nh́n ngắm dung nhan của Đấng Cứu Thế thần linh một cách yếu ớt, chúng tôi xin cùng với thánh nữ lập lại rằng ‘Lạy Chúa Giêsu, con tin nơi Chúa’. Khi nay và cho đến muôn đời. Amen”.
Theo chiều hướng ấy, chiều hướng kêu gọi chung nhân loại và riêng con cái ḿnh hăy tin tưởng vào Ḷng Thương Xót Chúa, Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần, Đấng đă chiến thắng tội lỗi và sự chết, Đấng duy nhất có thể cứu độ con người bằng quyền lực phục sinh của Người, trong Huấn Từ Truyền Tin về Chúa Nhật Kính Ḷng Thương Xót Chúa 18/4/2004, vị giáo hoàng này tiếp tục nhắc nhở và kêu gọi:
1. Từ trên thập tự giá cao vào Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, Chúa Giêsu đă để lại cho chúng ta ḷng tha thứ như lời trăn trối của Người: “Lạy Cha, xin tha cho họ; v́ họ không biết những ǵ họ làm” (Lk 23:34). Bị hành hạ và nhạo báng, Người xin thương xót những kẻ sát hại Người. Cánh tay Người rộng mở và trái tim bị đâm thâu của Người trở thành một bí tích phổ quát cho tấm ḷng hiền phụ của Thiên Chúa, Đấng ban cho hết mọi người ơn tha thứ và sự ḥa giải.
Vào ngày phục sinh, khi Người hiện ra với các môn đệ, Chúa đă chào các vị bằng những lời lẽ này: “B́nh an cho các con”, rồi tỏ cho các vị thấy đôi tay của Người và cạnh sườn của Người c̣n nguyên dấu vết khổ nạn. Tám ngày sau, như chúng ta đọc trong bài Phúc Âm hôm nay, Người đă trở lại gặp các vị ở Nhà Tiệc Ly và lại nói với các vị: “B́nh an cho các con” (x Jn 20:19-26).
2. Ḥa b́nh là tặng ân đích thật của Chúa Kitô tử giá và phục sinh, hoa trái vinh thắng của t́nh Người yêu thương trên tội lỗi và sự chết. Bằng việc hiến dâng bản thân ḿnh, tế vật vô tội đền bù trên bàn thờ thập giá, Người tuôn tràn trên nhân loại triều sóng ân phúc của Ḷng Thương Xót Thần Linh.
Bởi thế, Chúa Giêsu là ḥa b́nh của chúng ta, khi Người trở thành biểu lộ tuyệt hảo của T́nh Thương Xót Chúa. Người làm cho t́nh yêu nhân hậu của Thiên Chúa thấm nhập vào ḷng dạ con người, một vực thẳm vẫn từng bị sự dữ cám dỗ.
3. Hôm nay, Chúa Nhật “in Albis”, chúng ta cử hành Chúa Nhật Ḷng Thương Xót Chúa. Chúa cũng ban cho chúng ta tất cả sự b́nh an được bắt nguồn từ ḷng thứ tha và từ việc thứ tha tội lỗi. Nó là một tặng ân đặc biệt, một tặng ân Người muốn liên kết với bí tích thống hối và ḥa giải.
Nhân loại cần biết bao việc cảm nghiệm được tác hiệu của t́nh thương Thiên Chúa trong những thời buổi được đánh dấu bằng t́nh trạng bất an tăng phát cùng với những cuộc xung khắc bạo động!
Chớ ǵ Mẹ Maria, Mẹ Chúa Kitô b́nh an của chúng ta, Đấng trên đồi Canvê đă lănh nhận lời trăn trối yêu thương của Người, giúp chúng ta trở thành những chứng nhân và là những vị tông đồ của ḷng thương xót vô biên hải hà của Người.
Và để kết thúc một giáo triều có sứ mệnh mang con người về cho Ḷng Thương Xót Chúa của ḿnh, ngài đă gửi một tối di chúc thư cho nhân loại, một di chúc thư được đọc vào chính Ngày Chúa Nhật II Phục Sinh, ngày chính ngài đă thiết lập theo lời yêu cầu của Chúa Giêsu qua chị Thánh Faustina để Kính Ḷng Thương Xót Chúa, ngày ngài mới qua đi vào đêm vọng hôm trước. Sứ điệp của tối hậu di chúc thư này như sau:
“Anh Chị Em thân mến!
“1. Lời Alleluia Phục Sinh vui lên cũng âm vang vào ngày hôm nay nữa. Bài Phúc Âm của Thánh Gioan hôm nay nói lên rằng Đấng Phục Sinh, vào đêm hôm đó, đă hiện ra với các vị Tông Đồ và ‘đă tỏ cho các vị thấy đôi tay và cạnh sườn của Người’ (Jn 20:20), tức là cho thấy những dấu hiệu của Cuộc Khổ Nạn đau thương c̣n hằn vết bất khả xóa mờ trên thân xác của Người cả sau khi Người Phục Sinh. Những thương tích hiển vinh này, những thương tích mà 8 ngày sau đó Người đă cho người tông đồ Tôma nghi ngờ chạm tới, đă cho thấy t́nh thương của Thiên Chúa ‘v́ Thiên Chúa đă yêu thương thế gian đến nỗi đă ban Con duy nhất của ḿnh’ (Jn 3:16).
“Mầu nhiệm yêu thương này là tâm điểm của phụng vụ hôm nay, Chúa Nhật ‘in Albis’, được giành để tôn thờ Ḷng Thương Xót Chúa.
“2. Chúa Kitô phục sinh đă hiến ban cho nhân loại, một nhân loại có những lúc dường như bị lạc mất và bị thống trị bởi quyền lực sự dữ, cái tôi và sợ hăi, tặng ân t́nh ngài yêu thương, một t́nh yêu tha thứ, ḥa giải và phục hồi tinh thần hy vọng. Đó là một t́nh yêu hoán cải tâm can và ban phát an b́nh. Thế giới này cần phải hiểu biết và chấp nhận Ḳng Thương Xót Chúa biết bao!
“Lạy Chúa, Đấng đă tỏ t́nh yêu thương của Chúa Cha qua Cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa ra, chúng con tin tưởng vào Chúa và tin tưởng lập lại cùng Chúa hôm nay rằng: Lạy Chúa Giêsu, con tin tưởng nơi Chúa, xin thương xót chúng con và toàn thế giới.
“3. Phụng vụ trọng thể của Lễ Truyền Tin là lễ sẽ được cử hành ngày mai, đưa chúng ta đến việc chiêm ngưỡng mầu nhiệm vĩ đại của t́nh yêu nhân hậu xuất phát từ thánh tâm Chúa Giêsu này bằng ánh mắt của Mẹ Maria. Nhờ Mẹ giúp đỡ, chúng ta có thể hiểu được ư nghĩa đích thực của niềm vui phục sinh là niềm vui được căn cứ vào niềm tin tưởng rằng Đấng được Đức Trinh Nữ cưu mang trong ḷng, Đấng đă khổ nạn và tử giá v́ chúng ta, đă thực sự phục sinh. Alleluia Hăy Vui Lên!”
Theo di chúc hay ước nguyện cuối cùng này của ḿnh, ĐTC GPII, vị giáo hoàng của “Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần – Redemptor Hominis”, thực sự muốn để lại cho cả Giáo Hội lẫn toàn thể nhân loại, “một nhân loại có những lúc dường như bị lạc mất và bị thống trị bởi quyền lực sự dữ, cái tôi và sợ hăi”, đó là “thế giới này cần phải hiểu biết và chấp nhận Ḷng Thương Xót Chúa biết bao!” Thế nhưng, để được như vậy, để nhân loại có thể “chấp nhận Ḷng Thương Xót Chúa”, Giáo Hội nói chung và vị tân giáo hoàng nói riêng, phải trở thành Tông Đồ của Ḷng Thương Xót Chúa, nhờ “việc chiêm ngưỡng mầu nhiệm vĩ đại của t́nh yêu nhân hậu xuất phát từ thánh tâm Chúa Giêsu này bằng ánh mắt của Mẹ Maria”.
Vị Tông Đồ của Ḷng Thương Xót Chúa
Đó là lư do, khi ngài nằm xuống, những vị thân cận ngài nhất đă thấy được mối liên hệ mật thiết giữa bản thân ngài nói riêng và giáo triều ngài nói chung với Ḷng Thương Xót Chúa.
Trong bài giảng của ḿnh vào sáng Chúa Nhật II Phục Sinh kính Chúa T́nh Thương, 3/4/2005, cũng là lễ cầu hồn cho ngài tại Quảng Trường Thánh Phêrô, trước 30 ngàn người tham dự, ĐHY Angelo Sodano, đă bày tỏ cảm nhận của ḿnh về vị giáo hoàng mà đức hồng y này được làm quốc vụ khanh với những điểm chính yếu tiêu biểu như sau:
“Khi chúng ta khóc thương về cái chết của vị Giáo Hoàng đă ĺa bỏ chúng ta ấy, chúng ta hướng ḷng ḿnh về viễn ảnh định mệnh đời đời của chúng ta… Chúng ta biết rằng, mặc dù chúng ta là những tội nhân, chúng ta được nâng đỡ bởi t́nh thương của Thiên Chúa Cha là Đấng đợi chờ chúng ta. Đó là ư nghĩa của Lễ Kính Ḷng Thương Xót Chúa hôm nay, một lễ được thiết lập bởi chính vị Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thân yêu vừa ra đi, như là một trong những di sản của giáo triều ngài, để đề cao khía cạnh an ủi nhất của mầu nhiệm Kitô giáo.
“Chúa Nhật này, sẽ là những ǵ cảm kích khi đọc lại một trong những thông điệp tuyệt vời nhất của ngài, đó là thông điệp ‘Giầu Ḷng Thương Xót’ – Dives in Misericordia’, được viết trong năm 1980, năm thứ ba của giáo triều ngài”.
Trong bức thông điệp này, vị hồng y quốc vụ khanh ṭa thánh cho biết, Đức Gioan Phaolô II “mời gọi chúng ta hăy nh́n lên Chúa Cha, Đấng ‘là t́nh thương và là Vị Thiên Chúa của mọi niềm ủi an, Đấng an ủi chúng ta trong tất cả mọi ưu phiền đớn đau của chúng ta’”, cũng như nh́n lên “Maria là Mẹ T́nh Thương”.
Vị hồng y chủ tế nhấn mạnh rằng vị Giáo Hoàng này đă lập đi lập lại qua nhiều năm “rằng những mối tương liên giữa con người cũng như giữa các dân tộc không thể chỉ được dựa vào công lư mà c̣n phải được hoàn hảo bằng t́nh yêu nhân hậu nữa, một thứ t́nh yêu là tiêu biểu của sứ điệp Kitô giáo. Đó là lư do Đức Gioan Phaolô II đă dẫn dắt Giáo Hội của ngàn năm thứ ba Kitô giáo trở thành một người Samaritanô Nhân Lành mới trên các nẻo đường thế giới, trên các con đường của một thế giới vẫn bị rúng động bởi những cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn. Như thế, vị Giáo Hoàng này đă trở thành một điều khiển viên văn minh yêu thương, khi thấy nơi từ ngữ này là một trong những định nghĩa tuyệt vời nhất về ‘văn minh Kitô giáo’. Phải, văn minh Kitô giáo là văn minh yêu thương, hoàn toàn khác hẳn với những thứ văn minh hận thù, những thứ văn minh trong thế kỷ 20 là hậu quả của rất nhiều ư hệ”.
Chớ ǵ vị Giáo Hoàng này, “từ trời cao, hăy luôn nh́n xuống trên chúng ta và giúp chúng ta ‘vượt qua ngưỡng cửa hy vọng’ là những ǵ ngài đă nói rất nhiều với chúng ta. Chớ ǵ sứ điệp của ngài luôn được ghi khắc trong tâm can của con người nam nữ hôm nay. Đức Gioan Phaolô II đă từng lập lại những lời của Chúa Kitô: ‘Con Người đến thế gian không phải để luận phạt thế gian mà để thế gian nhờ Người hầu được cứu độ’”.
Vị hồng y chủ tế nhặc lại rằng Đức Gioan Phaolô II “đă truyền bá Phúc Âm hy vọng này trên thế giới, khi kêu gọi tất cả Giáo Hội hăy ôm ấp con người ngày nay, nâng họ lên bằng t́nh yêu cứu độ. Chúng ta hăy lănh nhận công việc tiếp tục sứ điệp của vị đă để lại cho chúng ta và làm cho nó sinh hoa kết trái v́ phần rỗi của thế giới”.
Trong bài giảng Thánh Lễ An Táng Thứ Sáu 8/4/2005, tại quảng trường Thánh Phêrô, một lễ an táng lớn nhất lịch sử loài người, với cả mấy triệu người tại Rôma và cả tỉ người trên khắp thế giới theo dơi qua truyền h́nh, Đức Hồng Y Joseph Ratzinger, trưởng Hồng Y Đoàn, cũng đă chia sẻ nhận định của ḿnh về vị giáo hoàng đă luôn muốn đức hồng y giữ vai tṛ là tổng trưởng Thánh Bộ Tín Lư Đức Tin, như sau:
“Hăy theo Thày! Kèm theo lệnh truyền chăm sóc cho đàn chiên của Người, Chúa Kitô c̣n báo cho Phêrô rằng thánh nhân sẽ phải chịu một cái chết tử đạo. Bằng những lời này, những lời kết thúc và tóm tắt cuộc đối thoại về ḷng mến yêu cũng như về lệnh truyền làm chủ chiên hoàn vũ, Chúa Kitô đă nhắc lại một cuộc đối thoại khác đă diễn ra trong Bữa Tiệc Ly. Bấy giờ Chúa Giêsu đă phán: ‘Nơi Thày đi các con không thể nào tới được’ Thánh Phêrô thưa Người rằng: ‘Lạy Thày, Thày đi đâu thế?’ Chúa Giêsu đáp: ‘Nơi Thày đi hiện nay con không thể nào theo Thày nổi đâu; nhưng sau này con sẽ theo Thày’ (Jn 13:33,36). Từ Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đă tiến tới Thập Giá, tiến tới cuộc phục sinh của Người – Người đă đi vào cuộc vượt qua của Người; và Thánh Phêrô chưa thể nào theo được Người. Giờ đây, sau cuộc phục sinh, thời giờ ấy đă đến, thời điểm ‘sau này’ đă đến. Bằng việc chăn dắt đàn chiên của Chúa Kitô, Thánh Phêrô đă đi vào mầu nhiệm vượt qua, thánh nhân đă tiến về phía thập tự giá và về cuộc phục sinh. Chúa Kitô đă nói về điều này bằng những lời: ‘… khi con c̣n trẻ, con thường tự ḿnh thắt lưng lấy và đi đâu tùy ư con muốn’ (Jn 21:18). Trong những năm đầu của giáo triều ḿnh, những năm c̣n trẻ trung và đầy nhiệt huyết, Đức Thánh Cha đă đi đến tận cùng trái đất theo sự dẫn dắt của Chúa Kitô. Thế nhưng sau đó, ngài càng ngày càng đi sâu vào cuộc hiệp thông khổ đau với Chúa Kitô; càng hiểu được sự thật của những lời này: ‘Người ta sẽ thắt lưng cho con’. Và trong chính cuộc hiệp thông đau khổ này với Chúa Kitô một cách liên tục và càng gia tăng hơn, ngài đă loan báo Phúc Âm, loan báo mầu nhiệm về một t́nh yêu thương cho đến cùng tận (x Jn 13:1).
“Ngài đă giải thích cho chúng ta mầu nhiệm vượt qua như là một mầu nhiệm của ḷng thương xót Chúa. Trong tác phẩm cuối cùng của ḿnh, ngài đă viết: Cái giới hạn áp đặt trên sự dữ ‘tối hậu là Ḷng Thương Xót Chúa’ (Hồi Niệm và Căn Tính, trang 60-61). Và khi suy nghĩ về biến cố mạng sống ngài bị cố sát, ngài đă nói: ‘Trong việc hy hiến ḿnh cho tất cả chúng ta, Chúa Kitô đă cống hiến cho đau khổ một ư nghĩa mới, mở ra một chiều kích mới, một trật tự mới, đó là trật tự của yêu thương… Chính cái đau khổ này đốt cháy và thiêu rụi đi sự dữ bằng ngọn lửa yêu thương và rút ran gay từ tội lỗi cả một cuộc bừng nở đầy những thiện hảo’ (cùng nguồn, trang 189-190). Được thôi thúc bởi nhăn quan ấy, vị Giáo Hoàng này đă chịu đựng khổ đau và đă yêu qúi việc hiệp thông với Chúa Kitô, nên đó là lư do tại sao sứ điệp về khổ đau của ngài cùng việc thinh lặng của ngài là những ǵ thất là sống động và hiệu năng.
“Ḷng Thương Xót Chúa: Đức Thánh Cha đă thấy được cái phản ảnh thuần khiết nhất của t́nh thương Thiên Chúa nơi Người Mẹ Thiên Chúa. Ngài là người đă mồ côi mẹ từ nhỏ đă càng tỏ ra kính mến người mẹ thần linh này hơn nữa. Ngài đă nghe thấy những lời của Chúa Kitô tử giá như là lời nói với riêng ngài: ‘Này là Mẹ của con’. Bởi thế, ngài thực hiện như người môn đệ yêu dấu đă làm, đó là ngài đă đem Mẹ về nhà của ngài (eis ta idia: Jn 19:27) – ‘Totus Tuus – tất cả của con là của Mẹ’. Và từ người mẹ này, ngài đă học nên giống Chúa Kitô”.
ĐGM Renato Boccardo, mới đây được bổ nhiệm làm tổng thư kư cho Quốc Đô Vatican, đă hướng dẫn tín hữu cầu nguyện ở Quảng Trường Thánh Phêrô sau lời loan báo về cái chết của Đức Giáo Hoàng. Vị giám mục này đă gọi Đức Gioan Phaolô II là “vị tông đồ của t́nh thương”. Trong cuộc phỏng vấn với Zenit, vị giám mục này đă chứng tỏ nhận định này của ḿnh qua những câu vấn đáp sau đây:
“Vấn: Ở cuộc tĩnh tâm cho các linh mục trên thế giới (được dự trù vào ngày 20-24/6 ở Krakow Balan), đức cha đă được mời để nói về Đức Giáo Hoàng này như là một vị tông đồ của t́nh thương. Vị Giáo Hoàng này là một tông đồ t́nh thương ở chỗ nào?
“Đáp: Tôi nghĩ rằng trong gần 27 năm trời của giáo triều ḿnh, vị Giáo Hoàng này đă là một vị tông đồ t́nh thương ở hai lănh vực.
“Trước hết là qua giáo huấn của ḿnh được ban bố qua những văn kiện khác nhau, nhất là qua thông điệp ‘Giầu Ḷng Thương Xót – Dives in Misericordia’ của ngài. Thế nhưng, đồng thời cũng qua cả chiều kích thứ hai nơi các hành vi cử chỉ của ngài nữa. Chính hành vi cử chỉ của ngài mới là những ǵ tồn tại nơi kư ức và lương tâm của Giáo Hội hơn cả lời ngài nói nữa.
“Tôi nghĩ tới việc ngài tha thứ cho kẻ ám sát ngài rồi đến viếng thăm anh ta trong tù. Tôi nghĩ đến việc ngài gắn bó nhiều lần được tỏ ra với tất cả những ai đặc biệt cần đến Ḷng Thương Xót Chúa. Tức là thành phần bị hội chứng liệt kháng, thành phần già lăo bị bỏ rơi, thành phần bệnh nhân nói chung.
“Tôi nghĩ tới ngài vào Thứ Sáu Tuần Thánh ở Đền Thờ Thánh Phêrô, tiếp nhận những người hành hương nơi bí tích cáo giải, một dụng cụ cao cả nhất của t́nh thương Thiên Chúa.
“Đối với tôi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đă liên kết lời nói và việc làm xót thương lại với nhau. Một t́nh thương được tỏ hiện ngay ở cử chỉ chăm sóc, lắng nghe, qua cách ngài chăm chú nh́n vào những ai khổ đau.
“Tôi nghĩ đến mẫu gương t́nh thương, một mẫu gương cống hiến cơ hội thứ tha trong Đại Năm Thánh 2000. Bởi thế, qua con người của ḿnh cũng như qua giáo huấn của ḿnh, Vị Giáo Hoàng này đă nhắc nhở Giáo Hội chiều kích sâu xa này của đời sống Kitô giáo.
“Vấn: Đức Gioan Phaolô II đă nói: “T́nh Thương là hy vọng duy nhất cho thế giới này”. Tại sao ngài lại quá quan trọng Ḷng Thương Xót Chúa đối với tương lai của thế giới này như thế?
“Đáp: Thế giới hậu tân tiến và tân tiến của chúng ta đây dường như đă hết sức cảm thấy được việc cố gắng cải tiến đời sống của ḿnh nhờ tiến bộ khoa học và kỹ thuật, song vẫn tiếp tục trải qua một t́nh trạng bần cùng khổng khiếp. Chúng ta hăy nhớ lại những lời Phúc Âm: Có lợi ích ǵ cho con người trong việc chiếm được cả thế gian mà lại mất chính linh hồn ḿnh?
“Mà thế giới tân tiến của chúng ta đây, rất phong phú về những khám phá khoa học và kỹ thuật, lại thấy ḿnh bị bí tắc trong việc t́m kiếm ư nghĩa cho việc hiện hữu của chính ḿnh. Nó cảm thấy bản thân ḿnh bị phân rẽ nội tâm, bị chi phối bởi hận thù, chiến tranh và chết chóc, và chiến đấu để t́m được sức mạnh cùng với lư do để sống và hy vọng.
“Và Kitô hữu chúng ta tin rằng lư do của chúng ta và niềm hy vọng của chúng ta cho việc hiện hữu được t́m thấy nơi trái tim của Thiên Chúa mà thôi. Bởi thế mà thế giới hậu tân tiến của chúng ta, một thế giới bị ch́m đắm trong cảnh bần cùng của ḿnh, cần phải nghe hơn bao giờ hết việc loan báo ân sủng và t́nh thương từ trời cao.
”Vấn: Lễ Chúa T́nh Thương đă tác dụng ra sao, nếu có, trên đời
sống của Giáo Hội?
“Đáp: Trước hết, tôi tin rằng lễ Chúa T́nh Thương là một tặng vật Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đă cống hiến cho Giáo Hội, khi ngài thiết lập lễ này vào Chúa Nhật thứ nhất sau Lễ Phục Sinh, một tặng vật có lẽ để đáp ứng với nhu cầu của thế giới hơn bao giờ hết đang cảm thấy cần đến ḷng xót thương và t́nh nhân ái.
“Và chúng ta biết rằng nguồn mạch, suối nguồn t́nh thương và ḷng nhân ái ở nơi con tim của Thiên Chúa. Vấn đề cần là, như vị Giáo Hoàng này đă nói đến một số lần, Giáo Hội càng ngày càng phải trở thành thừa tác viên cho t́nh thương và ḷng lành này của Thiên Chúa.
“Bởi vậy, giờ đây, bằng việc công bố một ngày đặc biệt giành cho việc cử hành và loan báo t́nh thương của Thiên Chúa, Đấng qua hy tế của Chúa Kitô đă vươn tới tất cả loài người, ngày nay đă trở thành một hoạt động truyền bá phúc âm hóa.
“Vấn: Tại sao Đức Thánh Cha đă đặt lễ Chúa T́nh Thương quá sát với Lễ Phục Sinh như vậy?
“Đáp: Việc cử hành T́nh Thương Chúa vào Chúa Nhật thứ nhất sau Lễ Phục Sinh, tôi có thể nói, là việc tái xác nhận tính cách cao cả của mầu nhiệm Phục Sinh. Thiên Chúa Cha muốn cứu độ nhân loại đă sai Con Ngài đến. Và Con của Ngài đă hiến mạng sống ḿnh v́ nhân loại. Bởi thế, điều ấy có nghĩa là ǵ nếu không phải là t́nh thương của Thiên Chúa?”
Chính v́ ư thức được:
1. “‘Nhân loại sẽ không bao giờ t́m thấy ḥa b́nh, cho đến khi họ tin tưởng quay về với Ḷng Thương Xót Chúa’ (Diary, trang 132). Ḷng Thương Xót Chúa! Đó là quà tặng Phục Sinh Giáo Hội đă nhận được từ Chúa Kitô phục sinh để cống hiến cho loài người vào lúc rạng động của một thiên kỷ” (bài giảng Lễ Chúa T́nh Thương 2001, như được trích dẫn trên đây).
2. “Hôm nay đây chúng ta dường như được kêu gọi đặc biệt để loan báo sứ điệp này trước thế giới. Chúng ta không thể lơ là với sứ vụ này, nếu chính Thiên Chúa đă kêu gọi chúng ta thực hiện sứ vụ này qua chứng từ của Thánh Nữ Faustina. Thiên Chúa đă chọn thời đại của chúng ta cho mục đích này” (bài giảng Lễ Phong Chân Phước cho 4 vị đồng hương Balan năm 2002, như được trích dẫn trên đây).
3. “Sứ điệp t́nh yêu nhân hậu cần được vang vọng một cách mạnh mẽ một lần nữa. Thế giới cần đến thứ t́nh yêu này. Đă đến thời giờ cần phải mang sứ điệp của Chúa Kitô đến cho mọi người: cho các kẻ trị v́ và thành phần bị áp bức, cho những ai có bản tính và phẩm vị bị tiêu ma trong mầu nhiệm lỗi lầm. Đă đến thời giờ sứ điệp Ḷng Thương Xót Chúa có thể làm cho các tâm hồn tràn đầy hy vọng và trở nên tia sáng cho một nền văn minh mới, một nền văn minh yêu thương” (bài giảng Lễ Phong Chân Phước cho 4 vị đồng hương Balan năm 2002, như được trích dẫn trên đây).
Mà “tia sáng phát hiện từ Balan” Karol Wojtyla Gioan Phaolô II này, một tia sáng được Chúa Giêsu cho biết là “để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha”, mới trở thành vị giáo hoàng của “Giáo Hội trong thế giới tân tiến” (nội dung của Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội ‘Gaudium et Spes’), mới là vị giáo hoàng của riêng Giáo Hội Công giáo song lại là vị giáo hoàng cho chung toàn thể nhân loại. Đó là lư do, sau khi vĩnh viễn nằm xuống, ngài đă trở thành một vĩ nhân của cả lịch sử Giáo Hội lẫn lịch sử thế giới trong thời hậu bán thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21 mở màn cho đệ tam thiên kỷ Kitô giáo. Lịch sử thế giới làm sao có thể bỏ qua không ghi nhận những ǵ ngài đă dấn thân hoạt động để xây dựng cho công lư và ḥa b́nh trên thế giới trong suốt 26 năm rưỡi, với tư cách là vị lănh đạo tối cao của riêng Giáo Hội Công giáo và của chung thế giới Kitô giáo. Chẳng hạn 4 việc xót thương điển h́nh ngài đă thực hiện sau đây:
1. Về chính trị: Góp phần vào việc làm sụp đổ khối Cộng Sản Đông Âu;
2. Về công lư: Vận động ḥa b́nh thế giới, đặc biệt ở Trung Đông, nhất là ở Iraq;
3. Về kinh tế: Đề nghị băi nợ quốc tế hay ít là giảm nợ quốc tế;
4. Về văn hóa: Tranh đấu bảo vệ sự sống con người và hủy bỏ án tử h́nh;
5. Về luân lư: Tranh đấu chống lại mưu đồ toàn cầu hóa chính sách phá thai ở Hội Nghị Dân Số 1994;
6. Về đạo lư: Công khai xin lỗi và thứ lỗi.
“Sửa Soạn Thế Giới cho Lần Đến Cuối Cùng của Cha”
Để kết thúc bài viết cảm nghiệm này về vị giáo hoàng của “Phúc Âm Sự Sống – Evangelium Vitae” đối với thế giới tân tiến ngày nay, cũng là vị giáo hoàng của “Giáo Hội sống bởi Thánh Thể – Ecclesia de Eucharistica” đối với Giáo Hội của ngàn năm thứ ba, không thể không nói đến mối liên hệ chặt chẽ giữa ngài và Mẹ Maria. Không phải chỉ ở chỗ ngài đă chọn khẩu hiệu giáo hoàng (chưa từng có trong lịch sử giáo hội) của ngài về Mẹ theo Thánh Long Mộng Phố (Louis Montfort): “Totus Tuus ego sum – Con hoàn toàn thuộc về Mẹ”, mà c̣n ở chỗ cuộc đời của ngài đă được gắn liền với Biến Cố Fatima nói chung và Bí Mật Fatima nói riêng, một mối liên hệ chẳng những dính dáng tới lịch sử thế giới mà c̣n tới Ḷng Thương Xót Chúa, tới sứ vụ là “ánh sáng phát hiện từ Balan để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha” của ngài.
Mối liên hệ giữa Đức Gioan Phaolô II và Đức Mẹ Fatima được thể hiện qua những sự kiện sau đây:
Biến Cố Fatima có liên hệ mật thiết tới ḥa b́nh thế giới nói chung và Nước Nga theo chủ nghĩa cộng sản nói riêng. Ở chỗ:
Thứ nhất, Đức Mẹ đă chọn thời điểm hiện ra ở Fatima từ tháng 5 đến tháng 10/1917, giữa thời khoảng biến chuyển ở Nga, v́ Lenin từ ngoại quốc về nước (Nga) vào tháng 4/1917 và Cách Mạng Tháng Mười thành công vào tháng 11/1917;
Thứ hai, Bí Mật Fatima, phần thứ hai đă nói rơ ràng “Nước Nga sẽ reo rắc lầm lạc khắp nơi, gây chiến tranh và bắt bớ Giáo Hội… Đức Thánh Cha sẽ hiến dâng Nước Nga, Nước Nga sẽ trở lại và thế giới sẽ được hưởng một thời gian ḥa b́nh”;
Thứ ba, Bí Mật Fatima, phần thứ ba, là một thị kiến, đă cho thấy h́nh ảnh của những ǵ đă được Đức Mẹ tiên báo về Nước Nga ở phần Bí Mật Fatima thứ hai trên đây, trong đó, vị giám mục mặc áo trắng (tức đức giáo hoàng) bị sát hại;
Thứ bốn, điều kiện để “thế giới được hưởng một thời gian ḥa b́nh” là Nước Nga trở lại.
Ngoài ra, Sứ Điệp Fatima c̣n mở màn và chất chứa tất cả Ḷng Thương Xót Chúa nữa:
Trước hết, ở lời cầu “Lạy Chúa Giêsu xin Chúa tha tội chúng con, xin cứu chúng con khỏi lửa hỏa ngục, xin đem các linh hồn lên thiên đàng, nhất là những linh hồn cần đến ḷng Chúa thương xót hơn”, Lời Nguyện Mân Côi Fatima được Mẹ Maria, sau khi tiết lộ Bí Mật Fatima cho ba em thiếu nhi Lucia, Phanxicô và Giaxinta biết vào lần hiện ra thứ ba 13/7/1917, bảo các em đọc sau mỗi chục Kinh Mân Côi;
Sau nữa, ở lời Mẹ Maria cho ba em thiếu nhi Fatima này biết vào lần hiện ra thứ 4, 19/8/1917 rằng: “Các con hăy cầu nguyện, hăy cầu nguyện thật nhiều và hăy hy sinh cho các tội nhân; v́ nhiều linh hồn bị sa hỏa ngục v́ không có ai chịu hy sinh cầu nguyện cho họ”;
Sau hết, ở lời Mẹ Maria thảm thiết kêu gọi để kết thúc Biến Cố Fatima vào lần hiện ra cuối cùng 13/10/1917, đó là “Đừng xúc phạm đến Chúa là Thiên Chúa của chúng ta nữa, v́ Người đă bị xúc phạm đến nhiều lắm rồi”.
Riêng lời kêu gọi cuối cùng kết thúc Biến Cố Fatima 1917 này, một lời kêu gọi đă liên hệ chẳng những với những ǵ xẩy ra trước năm 1917 mà c̣n xẩy ra sau năm 1917 nữa.
Trước năm 1917, lời Đức Mẹ kêu gọi “Đừng xúc phạm đến Chúa là Thiên Chúa của chúng ta nữa, v́ Người đă bị xúc phạm đến nhiều lắm rồi” là lời kêu gọi liên quan đến Chúa Giêsu Thánh Thể, Đấng đă được Thiên Thần Ḥa B́nh hiện ra với 3 em Thiếu Nhi Fatima vào năm 1916 ba lần: lần nhất vào mùa xuân để dạy cho các em biết cầu nguyện với Chúa Giêsu Thánh Thể, lần hai vào mùa hè để dạy cho các em biết hy sinh cho Chúa Giêsu Thánh Thể, và lần thứ ba vào mùa thu để dạy cho các em biết đền tạ Chúa Giêsu Thánh Thể.
Sau năm 1917, lời Đức Mẹ kêu gọi “Đừng xúc phạm đến Chúa là Thiên Chúa của chúng ta nữa, v́ Người đă bị xúc phạm đến nhiều lắm rồi” liên quan đến Ḷng Thương Xót của Chúa Giêsu Thánh Thể, như nữ tu Lucia, em thiếu nhi Fatima thụ khải c̣n sống sót đă được thị kiến thấy trong giờ chầu Thánh Thể về đêm (từ 11 đến 12 giờ khuya) của ḿnh trong nguyện đường của nhà ḍng Đorôthêu của chị ở Tuy, Tây Ban Nha, ngày 13/6/1929.
Theo chị kể lại th́ khi chị đang giang tay cầu nguyện, đột nhiên, cả nhà nguyện bừng sáng, không c̣n lờ mờ với ngọn đèn chầu nhà tạm nữa. Một thánh giá bằng ánh sáng hiện ra trên bàn thờ cao lên tới trần nhà nguyện. Phần trên của cây thánh giá sáng hơn, có dung nhan cùng với thân ḿnh của một người từ cạnh sườn trở lên; trên ngực của người này có một con chim câu bằng ánh sáng; bị đóng đanh vào thập giá là thân ḿnh của một người khác. Dưới cạnh sườn chút xíu, có một chén thánh và một bánh thánh lớn lơ lửng trên không trung. Những giọt máu từ mặt của Chúa Giêsu Tử Giá và từ cạnh sườn của Người chảy xuống bánh thánh và nhỏ vào chén thánh. Bên phải cây thánh giá là Đức Mẹ với Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội ở trong tay Mẹ. Bên trái cây thánh giá có những chữ lớn như thể bằng nước trong như thủy tinh chảy xuống trên bàn thờ làm thành những chữ: "Ân Sủng và T́nh Thương".
Như thế, nếu Biến Cố Fatima là biến cố liên quan tới ḥa b́nh thế giới nói chung và Nước Nga theo chủ nghĩa cộng sản nói riêng, và Sứ Điệp Fatima là sứ điệp về Thánh Thể và Ḷng Thương Xót Chúa, th́ Đức Gioan Phaolô II quả thực đă có một liên hệ hết sức mật thiết với Đức Mẹ Fatima, ở những điểm trùng hợp sau đây:
Thứ nhất, nếu Biến Cố Fatima liên quan tới Nước Nga và cộng sản th́ vị giáo hoàng này đă không đột xuất từ một nước Balan theo cộng sản v́ đă bị quan thày Nga “gieo rắc lầm lạc” hay sao! Phải chăng Thiên Chúa quan pḥng, Đấng làm chủ lịch sử loài người, đă chẳng có ư chọn ngài vào thời điểm ấn định để dẹp bỏ cộng sản Âu Châu?
Thứ hai, nếu Bí Mật Fatima, ở phần thứ hai đă báo trước là “Đức Thánh Cha sẽ hiến dâng nước Nga”, và ở phần thứ ba đă cho thấy vị giám mục mặc áo trắng bị sát hại, th́ không phải vị giám mục Rôma duy nhất trên thế giới mặc áo trắng ấy là giáo hoàng Gioan Phaolô II đă bị ám sát tại Quảng Trường Thánh Phêrô vào ngày 13/5/1981, đúng vào ngày kỷ niệm Mẹ Maria hiện ra ở Fatima lần đầu tiên vào năm 1917 hay sao, một biến cố làm cho ngài đă hiến dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ vào ngày 25/3/1984, theo đúng như cách thức Thiên Chúa muốn, như Mẹ Maria đă tỏ cho chị Lucia biết từ ngày 13/6/1929, điều chị cũng đă đệ tŕnh Đức Piô XII qua thư đề ngày 24/10/1940?
Thứ ba, nếu Sứ Điệp Fatima liên quan đến Chúa Giêsu Thánh Thể (13/7,18/9,13/10/1917) và về Ḷng Thương Xót Chúa (thị kiến 13/6/1929), th́ vị giáo hoàng thứ tha cho kẻ sát hại ḿnh và xin ân xá cho kẻ sát hại ấy, vị giáo hoàng đă thực hiện việc xin lỗi và tha lỗi vào Ngày Tha Thứ 12/3/2000, đă không mở Năm Mân Côi (16/10/2002-19/10/2003) để cùng Mẹ Maria chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô qua các Mầu Nhiệm Mân Côi (xem Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria, khoản số 3), kể cả 5 Mầu Nhiệm Mân Côi Ánh Sáng mới được ngài thêm vào (xem cùng Tông Thư, đoạn 21), nhất là cùng Mẹ chiêm ngưỡng Người trong Năm Thánh Thể (10/10/2004-29/10/2005), một mầu nhiệm Thánh Thể phát xuất từ t́nh thương vô biên của Thiên Chúa, một Ḷng Thương Xót Chúa đă được ngài chính thức kêu gọi cả Giáo Hội tôn thờ và tin tưởng khi thêm vào Chúa Nhật Thứ Hai Phục Sinh ư nghĩa Ḷng Thương Xót Chúa, theo đúng như ư muốn Chúa Giêsu đă yêu cầu chị Faustina xin với Giáo Hội làm như thế.
Nếu vị giáo hoàng đến “từ một xứ sở xa xăm” này, qua 26 năm rưỡi, đă làm hết sức để chu toàn ơn gọi cũng là sứ vụ của ḿnh trong việc mang con người về với Ḷng Thương Xót Chúa, th́ quả thực ngài đă dọn đường cho “lần đến cuối cùng” của “Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần”, Đấng “đến thế gian lần thứ hai không phải để xóa tội lỗi nữa mà là để cứu những ai thiết tha trông đợi Người” (Heb 9:28), Đấng đă báo trước cho chị Thánh Faustina biết rơ dấu hiệu của ngày cùng tháng tận như sau:
· "Hăy nói cho thế giới biết về t́nh thương của Cha; tất cả loài người hăy nhân biết t́nh thương khôn ḍ của Cha. Đó là dấu hiệu cho ngày cùng tháng tận; sau đó sẽ là ngày của công lư - Speak to the world about My mercy; let all mankind recognize My unfathomable mercy. It is a sign for the end times; after it will come the day of justice” (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Kư, 848)
Chẳng những chính Vị Chủ Chăn Tối Cao của Giáo Hội là vị giáo hoàng Gioan Phaolô II đi khắp thế giới để loan truyền Tin Mừng Sự Sống là Ḷng Thương Xót Chúa, mà cả thành phần chi thể của Giáo Hội nữa, điển h́nh nhất là Mẹ Têrêsa Calcutta, vị sáng lập hội ḍng Chư Thừa Sai Bác Ái, phục vụ thành phần nghèo nhất trong những người nghèo, căn cứ vào Lời Chúa dạy ai phục vụ anh chị em hèn mọn nhất của Chúa Kitô là làm cho chính Chúa.
Nơi Mẹ Têrêsa Calcutta và Đức Gioan Phaolô II, chúng ta thấy được những dấu chỉ thời đại về “lần đến cuối cùng của Cha” như thế này: Nơi Mẹ Têrêsa, niềm tin phục vụ cho anh chị em hèn mọn nhất tức làm cho chính Chúa Kitô là những ǵ được Vị Thẩm Phán sẽ đến trên mây trời sử dụng để phán xét nhân loại trong cuộc chung thẩm (x Mt 25:40,45); và nơi Đức Gioan Phaolô II, vấn đề thần học về thân thể (theology of body) được ngài quảng diễn trong loạt bài giáo lư về nhân loại học siêu nhiên liên quan đến chủ đề “t́nh yêu và trách nhiệm” mở màn cho giáo triều của ngài, từ ngày 5/9/1979 đến 21/11/1984, một thân thể liên quan tới niềm tin xác sống lại để chịu phán xét (x.2Cor 5:10), tới sự cứu độ của xác thể (x Rm 8:23).
Tóm lại, nếu đối nội, Đức Gioan Phaolô II là vị giáo hoàng được chúa chọn để dẫn Giáo Hội tiến vào ngàn năm thứ ba Kitô giáo bằng cách bước qua ngưỡng cửa Đại Năm Thánh 2000, th́ đối ngoại, Đức Gioan Phaolô II, vị giáo hoàng của “Giáo Hội trong thế giới tân tiến”, mang “vui mừng và hy vọng” là “Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần” đến cho một thế giới tân tiến nhưng lại đầy lo âu và nguy biến tự diệt trong nền văn hóa sự chết, bằng cách, qua các giáo huấn đầy “Phúc Âm Sự Sống” cùng với những cuộc tông du khắp nơi trong tinh thần đại kết toàn cầu, đă luôn kêu gọi con người đừng sợ mà hăy mở cửa cho Chúa Kitô, nghĩa là hăy tin vào Ḷng Thương Xót Chúa, đúng như những ǵ ngài đă kêu gọi con người ngay khi mở màn cho giáo triều của ngài, những lời ngài đă lập lại nhân dịp mừng ngân khánh giáo hoàng 25 năm của ngài:
· “Đừng sợ tiếp đón Chúa Kitô và chấp nhận quyền bính của Người! Hôm nay đây, Tôi mạnh mẽ lập lại là: Hăy mở cửa, hăy mở rộng của cho Chúa Kitô! Hăy để cho Người hướng dẫn anh chị em! Hăy tin tưởng vào t́nh yêu của Người!”
Bởi v́, theo ngài:
1. “‘Nhân loại sẽ không bao giờ t́m thấy ḥa b́nh, cho đến khi họ tin tưởng quay về với Ḷng Thương Xót Chúa’ (Thánh Faustina, Diary, trang 132). Ḷng Thương Xót Chúa! Đó là quà tặng Phục Sinh Giáo Hội đă nhận được từ Chúa Kitô phục sinh để cống hiến cho loài người vào lúc rạng động của một thiên kỷ” (bài giảng Lễ Chúa T́nh Thương 2001 của ĐTC GPII).
2. “Hôm nay đây chúng ta dường như được kêu gọi đặc biệt để loan báo sứ điệp này trước thế giới. Chúng ta không thể lơ là với sứ vụ này, nếu chính Thiên Chúa đă kêu gọi chúng ta thực hiện sứ vụ này qua chứng từ của Thánh Nữ Faustina. Thiên Chúa đă chọn thời đại của chúng ta cho mục đích này” (bài giảng Lễ Phong Chân Phước cho 4 vị đồng hương Balan năm 2002 trong chuyến về nước thứ 8 cũng là lần về quê hương cuối cùng của vị giáo hoàng người Balan).
3. “Sứ điệp t́nh yêu nhân hậu cần được vang vọng một cách mạnh mẽ một lần nữa. Thế giới cần đến thứ t́nh yêu này. Đă đến thời giờ cần phải mang sứ điệp của Chúa Kitô đến cho mọi người: cho các kẻ trị v́ và thành phần bị áp bức, cho những ai có bản tính và phẩm vị bị tiêu ma trong mầu nhiệm lỗi lầm. Đă đến thời giờ sứ điệp Ḷng Thương Xót Chúa có thể làm cho các tâm hồn tràn đầy hy vọng và trở nên tia sáng cho một nền văn minh mới, một nền văn minh yêu thương” (bài giảng Lễ Phong Chân Phước cho 4 vị đồng hương Balan năm 2002, cũng trong chuyến thăm quê hương lần cuối cùng trên đây).
Đó là lư do, theo di chúc hay ước nguyện cuối cùng của ḿnh trong sứ điệp cho Chúa Nhật Kính Chúa T́nh Thương 3/4/2005 khi ngài vừa nằm xuống vào đêm áp lễ được ngài thiết lập trong Năm Thánh 2000, ĐTC GPII, vị giáo hoàng của “Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần – Redemptor Hominis”, thực sự muốn để lại cho cả Giáo Hội lẫn toàn thể nhân loại, “một nhân loại có những lúc dường như bị lạc mất và bị thống trị bởi quyền lực sự dữ, cái tôi và sợ hăi”, đó là “thế giới này cần phải hiểu biết và chấp nhận Ḷng Thương Xót Chúa biết bao!” Thế nhưng, để được như vậy, để nhân loại có thể “chấp nhận Ḷng Thương Xót Chúa”, Giáo Hội nói chung và vị tân giáo hoàng nói riêng, phải trở thành Tông Đồ của Ḷng Thương Xót Chúa, nhờ “việc chiêm ngưỡng mầu nhiệm vĩ đại của t́nh yêu nhân hậu xuất phát từ thánh tâm Chúa Giêsu này bằng ánh mắt của Mẹ Maria”.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL