Tân Giáo Hoàng Biển Đức XVI:
Vị Giáo Hoàng của Hiệp Nhất Kitô Giáo
và của Một Tân
Âu Châu
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Tân Giáo Hoàng Biển Đức
XVI: Vị Giáo Hoàng của Hiệp Nhất Kitô Giáo
Thứ Sáu ngày 15/4/2005, căn cứ vào những ǵ Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
chưa làm xong theo sứ vụ và ư nguyện của ngài, qua Chương Tŕnh Phát Thanh Tin
Mừng Sự Sống (FM 106.3 Nam California, từ 9 tới 9 giờ 30 tối), tôi đă tiên đoán
về vị tân giáo hoàng nguyên văn như sau: “Có thể nói, nếu giáo triều Gioan
Phaolô II là giáo triều huy hoàng nhất lịch sử Giáo Hội Công giáo, chẳng khác
nào như Chúa Kitô tiến vào thành thánh Giêrusalem, th́ vị giáo hoàng sau ngài sẽ
là vị giáo hoàng của Bữa Tiệc Ly (có thể đó là lư do Năm Thánh Thể chưa kết thúc,
liên quan đến Hiệp Nhất Kitô giáo, theo lời nguyện kết thúc Bữa Tiệc Ly của Chúa
Kitô), vị giáo hoàng của Vườn Nhiệt (với những nhức nhối nội bộ) và của Khổ Nạn
(gây ra bởi cả dân Chúa lẫn thế giới)”. Những lời này cũng đă được phổ biến trên
mạng điện toán toàn cầu thoidiemmaria.net ngày Thứ Tư 13/4/2005, dưới nhan đề:
“ĐTC GPII: ‘Người kế vị của Tôi chưa làm hồng y’ và ước nguyện cuối cùng của
ngài”, một bài viết cũng được dongcong.net phổ biến cùng ngày.
Quả thực, qua truyền thanh và truyền h́nh, của cả Mỹ lẫn Việt, vị tân giáo hoàng
thứ 265 của chúng ta đúng là “vị giáo hoàng của vườn nhiệt, của khổ nạn”. Thật
thế, sau khi chờ đợi từng giây từng phút để xem vị tân giáo hoàng của Giáo Hội
Công Giáo Rôma, một thế lực tôn giáo hàng đầu trên thế giới, đóng vai tṛ như
lương tâm của nhân loại, giới truyền thông, với 6 ngàn kư giả theo dơi từng động
tĩnh của cuộc mật nghị hồng y bầu tân giáo hoàng, đa số đă hầu như thất vọng về
thành quả cuộc bầu bán có vẻ kín mật và nhanh chóng trong ṿng 24 tiếng đồng hồ
này. Bởi v́, vị tân giáo hoàng không phải là vị giáo hoàng của họ, không phải là
vị giáo hoàng như họ mong muốn. Qua truyền thanh và truyền h́nh, của cả Mỹ lẫn
Việt, kể cả Công giáo, đa số đă vội vă phê b́nh chỉ trích vị tân giáo hoàng, cho
dù ngài chưa làm ǵ theo sứ vụ mới giáo hoàng của ḿnh. Chính con ma ấn tượng đă
làm cho họ hoảng sợ.
Qua những ǵ họ nói: các vị hồng y không c̣n ai nữa hay sao mà lại di chọn một
vị hồng y già 78 tuổi như ngài, ngài chỉ là một vị giáo hoàng chuyển tiếp vậy
thôi v.v. Vị giáo hoàng già họ cũng chê mà trẻ th́ họ lại sợ kéo dài lâu quá như
Đức Gioan Phaolô II. Tức họ muốn biến Giáo Hội Công giáo thành một quốc gia dân
chủ như các nước trên thế giới: người làm đầu cũng có nhiệm kỳ của nó và được
dân chọn ra; ư dân là ư trời - muốn phá thai là được phá thai, muốn ly dị là
được ly dị; vấn đề đàn bà làm linh mục hay linh mục lấy vợ cũng thế v.v. Những
vấn đề tín lư cũng phải được bỏ phiếu: tức là tất cả mọi sự thiện và sự thật đều
do con người quyết định, do con người bỏ phiếu, đa số thắng thiểu số, mạnh được
yếu thua…
Tóm lại, họ coi việc Giáo Hội Công giáo chọn bầu, của các vị hồng y mật nghị bầu
giáo hoàng như tṛ chơi, không phải là việc của Thần Linh, và họ cho việc làm
đầu nơi Giáo Hội Công giáo là việc cai trị như trần gian, không phải là phục vụ,
v́ họ coi Giáo Hội Công giáo thuần túy chỉ là một cơ cấu thuần túy trần tục hơn
là thần linh. Họ cho việc canh tân là đổi mới theo đ̣i hỏi tự nhiên, bất kể luân
lư và đạo lư, bất kể Giáo Hội có c̣n giữ được nguyên căn tính của ḿnh hay chăng.
Họ cho việc đối thoại liên tôn là ḥa đồng tôn giáo: đạo nào cũng là đạo; vậy
th́ tại sao họ không theo những đạo khác mà lại theo Công giáo, theo Kitô giáo.
Nếu vậy th́ họ sống kiểu đạo theo hơn là kiểu theo đạo. Kiểu “đạo theo” đây có
nghĩa là đạo do họ tạo ra, đạo như họ muốn, đạo như món đồ được họ chọn lựa, cái
ǵ hợp với họ th́ họ giữ, không th́ bỏ, ngược hẳn với kiểu “theo đạo” là kiểu
theo những ǵ họ được đạo dạy bảo.
Đó là lư do, trong bài giảng cho Thánh Lễ khai mạc cuộc mật nghị hồng y bầu giáo
hoàng 265 của Giáo Hội Công Giáo, với tư cách là Trưởng Hồng Y Đoàn, vị tân giáo
hoàng Benedict bấy giờ đă nhận định rất chính xác và khuyên nhủ như sau:
“Chúng ta không được là
trẻ con trong đức tin, trong t́nh trang non dại. Mà sống đức tin trẻ con nghĩa
là ǵ? Thánh Phaolô trả lời rằng đó là ‘bị nghiêng ngả theo chiều gió chủ nghĩa’
Thật là một lời diễn tả rất ư là hợp thời!
“Biết bao nhiêu là chiều gió chủ nghĩa chúng ta đă từng biết đến trong mấy thập
niên qua! Biết bao nhiêu là trào lưu ư hệ! Biết bao nhiêu là trường phái tư
tưởng! Con tầu tư tưởng nhỏ bé của nhiều Kitô hữu thường bị xô lấn bởi những cơn
sóng này, tung họ từ cực đoan này sang cực đoan kia: từ chủ nghĩa Marxít đến chủ
nghĩa tự do (liberalism), thậm chí đến chủ nghĩa duy tự do (libertarianism); từ
chủ nghĩa tập thể (collectivism) đến chủ nghĩa cá nhân cực đoan (radical
individualism); từ chủ nghĩa vô thần đến chủ nghĩa tôn giáo mập mờ bí hiểm
(vague religious mysticism); từ chủ nghĩa ngộ thức (agnosticism) đến chủ nghĩa
ḥa đồng (syncretism) v.v.
“Ngày nào cũng có những thứ giáo phái mới, khiến cho những lời của Thánh Phaolô
nói trở thành sự thật về việc con người bị lừa đảo, về cái tinh quái làm cho con
người bị lầm lạc (x Eph 4:14). Có một đức tin minh tường, theo Kinh Tin Kính của
Giáo Hội, thường được gán cho là chủ nghĩa thủ cựu / bảo thủ (fundamentalism).
Một khi chủ nghĩa tương đối (relativism), nói cách khác, một khi để cho ḿnh ‘bị
xô đẩy theo chiều gió chủ nghĩa’, thái độ duy nhất được cho là thích hợp với
thời đại tân tiến, th́ đó là lúc chủ nghĩa tương đối độc đoán được h́nh thành,
một chủ nghĩa tương đối độc đoán cho rằng không có ǵ là tuyệt đối cả, và là một
chủ nghĩa chỉ biết căn cứ vào cái tôi cùng với những ước muốn của cái tôi mà
thôi.
“Chúng ta có một chuẩn mức khác, đó là Con Thiên Chúa, một con người thật sự.
Người là chuẩn mức của nhân bản chủ nghĩa đích thực. Một đức tin ‘trưởng thành’
là đức tin không chiều theo làn sóng thời trang cũng như những ǵ là tân hiện
đại nhất; một đức tin trưởng thành và chín chắn là một đức tin được cắm rễ sâu
xa trong mối thân t́nh với Chúa Kitô. Mối thân hữu này hướng chúng ta về tất cả
những ǵ là thiện hảo và cống hiến cho chúng ta chuẩn mức để nhận thức được đâu
là phải và đâu là trái, đâu là gian dối và đâu là chân thật.
“Chúng ta cần phải làm cho đức tin trưởng thành này chín mùi; chúng ta cần phải
dẫn đàn chiên của Chúa Kitô đến đức tin này. Và chính đức tin này, chỉ duy có
đức tin này mà thôi, mới là những ǵ kiến tạo hiệp nhất và được hiện thực nơi
đức ái. Thánh Phaolô đă cống hiến cho chúng ta một câu nói tuyệt vời, ngược lại
với t́nh trạng trôi nổi của những ai giống như trẻ con bị bập bềnh theo triều
sóng, đó là hăy sống sự thật bằng đức ái như là một mẫu thức cốt yếu cho việc
hiện hữu của Kitô giáo. Sự thật và đức ái đồng qui nơi Chúa Kitô”.
Qua những lời giảng được trích dẫn trên đây, chúng ta thấy vị tân giáo hoàng này
là vị giáo hoàng của nội tâm, của một đức tin sâu xa vững mạnh. Những lời ngài
nói khi c̣n là hồng y, trước khi được bầu làm giáo hoàng này như một dạo khúc
cho điều ngài nói: “chính đức tin này, chỉ duy có đức tin này mà thôi, mới là
những ǵ kiến tạo hiệp nhất”.
Thật vậy, trong sứ điệp đầu tiên của vị tân giáo hoàng ngỏ cùng hồng y đoàn vào
cuối Thánh Lễ hôm sau, 20/4/2005, tại Nguyện Đường Sistine, một sứ điệp dài (gần
5 trang lớn) bao gồm đủ những ǵ ngài chủ trương và dự tính làm trong giáo triều
của ḿnh, như Công Đồng Chung Vaticanô II, Cử Hành Thánh Thể, Đại Kết Kitô Giáo,
Cởi Mở với Thế Giới, Đối Thoại Liên Tôn và Giới Trẻ, nhưng phải công nhận là
Thánh Thể và hiệp thông Đại Kết Kitô giáo là mối quan tâm hàng đầu của ngài, v́
ngài nói đến rất dài và sử dụng những từ ngữ rất mạnh như sau:
Trước hết, về Thánh Thể,
trước hết ngài liên kết với giáo triều của ngài và cuối cùng từ Thánh Thể ngài
tiến sang vấn đề Hiệp Nhất Kitô Giáo. Ngài nói:
“Giáo triều của tôi, một cách hết sức ư nghĩa, được mở màn vào lúc Giáo Hội đang
sống một năm đặc biệt giành cho Thánh Thể. Làm sao tôi lại không thấy được cái
trùng hợp được quan pḥng này một yếu tố cần phải đánh dấu thừa tác vụ tôi đă
được kêu gọi thi hành đây? Thánh Thể, tâm điểm của đời sống Kitô hữu và là nguồn
mạch của sứ vụ truyền bá phúc âm hóa của Giáo Hội, chắc chắn bao giờ cũng phải
là tâm điểm và là nguồn mạch cho sứ vụ thừa kế Thánh Phêrô đă được trao phó cho
tôi.
“Thánh Thể làm cho Chúa Kitô Phục Sinh liên lỉ hiện diện, một Chúa Kitô là Đấng
tiếp tục hiến Ḿnh cho chúng ta, kêu gọi chúng ta hăy tham dự vào bàn tiệc Ḿnh
Máu của Người. Từ mối hiệp thông trọn vẹn này với Người mới xuất phát ra hết mọi
yếu tố khác của đời sống Giáo Hội, trước hết là mối hiệp thông giữa tín hữu,
việc dấn thân loan truyền và làm chứng cho Phúc Âm, nhiệt t́nh bác ái đối với
tất cả mọi người, nhất là với thành phần nghèo khổ và hèn mọn nhất.
“Bởi thế, trong năm nay, Lễ Trọng Kính Ḿnh Thánh Chúa Kitô cần phải được cử
hành một cách hết sức đặc biệt. Thánh Thể sẽ là trọng tâm của Ngày Giới Trẻ Thế
Giới ở Cologne vào Tháng Tám, và của Thượng Nghị Giám Mục Thế Giới thường lệ vào
Tháng Mười, một thượng nghị sẽ bàn đến đề tài ‘Thánh Thể là Nguồn Mạch và là
Tuyệt Đỉnh của Đời Sống và Sứ Vụ của Giáo Hội’. Tôi xin hết mọi người hăy gia
tăng vào những tháng tới đây ḷng yêu mến và việc sùng kính đối với Chúa Giêsu
Thánh Thể và thể hiện một cách can đảm tỏ tường sự hiện diện thực sự của Chúa
Kitô, trước hết, qua những việc cử hành một cách long trọng và đúng đắn.
“Tôi đặc biệt xin các vị linh mục thực hiện điều ấy, những vị giờ đây tôi đang
hết ḷng quí mến nghĩ đến vào lúc này đây. Thừa tác vụ linh mục được phát sinh
từ Nhà Tiệc Ly, cùng với Thánh Thể, như vị tiền nhiệm đáng kính Gioan Phaolô II
của tôi đă nhiều lần nhấn mạnh đến. ‘Đời sống linh mục cần phải đặc biệt có một
‘dạng thức Thánh Thể’, ngài đă viết như thế trong Bức Thư cuối cùng của ngài cho
Ngày Thứ Năm Tuần Thánh. Việc sốt sắng cử hành hằng ngày Thánh Lễ, tâm điểm của
đời sống và sứ vụ của hết mọi vị linh mục, là những ǵ góp phần vào việc đạt
được mục đích ấy.
Sau nữa, như trên đă nhận định, từ Thánh Thể vị tân Giáo Hoàng đă tiến ngay sang
vấn đề Hiệp Nhất Kitô Giáo như sau:
“Được nuôi dưỡng và bảo tŕ bởi Thánh Thể, người Công giáo chắc chắn cảm thấy
được thôi thúc hướng đến mối hiệp nhất như Chúa Kitô mong muốn ở Nhà Tiệc Ly. Vị
Thừa Kế Thánh Phêrô biết rằng ḿnh cần phải đặc biệt nhận lấy ước muốn tối hậu
này của Vị Thày Thần Linh. Nhiệm vụ kiên cường anh em của ḿnh thật sự đă được
trao phó cho ngài.
“Bởi vậy, bằng tất cả ư thức và vào lúc mở đầu cho thừa tác vụ của ḿnh ở Giáo
Hội Rôma là nơi Thánh Phêrô đă tắm máu, vị Thừa Kế này lănh nhận, như là quyết
tâm chính yếu của ḿnh, quyết tâm không ngừng hoạt động hướng đến việc tái thiết
mối hiệp nhất trọn vẹn và hữu h́nh của tất cả mọi thành phần môn đệ của Chúa
Kitô. Đó là tham vọng của ngài, đó là nhiệm vụ bó buộc của ngài. Ngài biết rằng,
để làm điều này, những bày tỏ về cảm t́nh thiện cảm mà thôi chưa đủ. Cần phải có
những cử chỉ cụ thể để thấm nhập các tâm hồn và đánh động lương tâm, phấn khích
mọi người tiến đến chỗ hoán cải nội tâm là điều căn bản cho tất cả mọi thứ tiến
bộ trên con đường đại kết.
“Những cuộc đối thoại về thần học là những ǵ cần phải có. Cũng không thể châm
chước bỏ qua việc khảo sát kỹ lưỡng những nguyên do lịch sử đă gây ra những việc
quyết định trong quá khứ. Thế nhưng, khẩn thiết hơn thế nữa là việc ‘thanh tẩy
kư ức’, một việc đă thường được Đức Gioan Phaolô gợi lên, và là một việc duy
nhất có thể sửa soạn cho các tâm hồn đón nhận tất cả sự thật của Chúa Kitô.
Chính v́ trước nhan Người là Vị Thẩm Phán tối cao của tất cả mọi sinh vật, mà
mỗi một người trong chúng ta cần phải trả lẽ, với ư thức là một ngày kia chúng
ta cần phải cắt nghĩa cho Người về những ǵ chúng ta đă làm và những ǵ chúng ta
không làm cho thiện ích cao cả là mối hiệp nhất trọn vẹn và hữu h́nh nơi tất cả
thành phần môn đệ của Người.
“Vị Thừa Kế Thánh Phêrô đây tự cảm thấy chính ḿnh liên quan đến vấn đề này và
sẵn sàng làm tất cả những ǵ trong khả năng của ḿnh để cổ vơ lợi ích chính yếu
cho việc đại kết. Theo những vị tiền nhiệm của ḿnh, ngài nhất định quyết tâm
nâng đỡ bất cứ sáng kiến nào có vẻ thích hợp với việc đẩy mạnh việc giao tiếp và
thỏa hiệp với những vị đại diện thuộc các Giáo Hội khác và các cộng đồng giáo
hội khác. Thật thế, nhân cơ hội này đây, ngài xin gửi đến họ lời chào thân ái
nhất của ngài trong Chúa Kitô, Vị Chúa duy nhất của tất cả mọi người”.
Tân Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Vị
Giáo Hoàng của một Tân Âu Châu
Trong bài viết mang tựa đề “Vị Tân Giáo Hoàng 265 có thể là một hồng y người
Pháp gốc Ba Lan Do Thái hay một hồng y thuộc ḍng Phanxicô...”, được phổ biến
trên mạng điện toán toàn cầu thoidiemmaria.net ngày 19/4/2005, và là bài cũng đă
được mạng điện toán toàn cầu dongcong.net lấy phổ biến vào cùng ngày, ngay trước
khi có tân giáo hoàng mấy tiếng đồng hồ. Tuy những chi tiết ở đầu đề cho bài
viết hoàn toàn sai bét. Thế nhưng, nếu ai đă đọc bài này trước khi có tân giáo
hoàng, và đem áp dụng những chi tiết khác trong bài này, sẽ thấy dường như thích
hợp với tân giáo hoàng này, như những điều đă nói ngài “sẽ là vị giáo hoàng của
Bữa Tiệc Ly (có thể đó là lư do Năm Thánh Thể chưa kết thúc, liên quan đến Hiệp
Nhất Kitô giáo)”. Nguyên văn của bài viết trên đây như sau:
“Hôm nay, Thứ Hai, 18/4/2005, 115 vị hồng y bắt đầu cuộc bầu tân giáo hoàng 265
cho Giáo Hội Công giáo. Tại Ṭa Thánh Rôma, cả 6 ngàn phóng viên báo chí đang
chực chờ để biết tin tức về diễn tiến của cuộc mật bầu và kết quả của cuộc mật
bầu là vị tân giáo hoàng này. Kể cả trong thời gian Đức cố Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II nhập bệnh viện vào đầu tháng 2/2005, truyền thông đă bắt đầu nói đến
việc ngài về hưu, từ đó, bàn đến cả vị kế thừa ngài. Cho đến nay, dư luận vẫn
đang hồi hộp chờ đợi con người được Thiên Chúa chọn, như Ngài đă bất ngờ chọn
Đức Gioan Phaolô II.
“Chính v́ vị giáo hoàng 264 vừa quá cố này không phải là người Ư trong ṿng 455
năm đă được chọn như thế mà lần này, dư luận cũng hướng về những vị hồng y nổi
tiếng ở các châu lục khác ngoài Âu Châu, chẳng hạn như Phi Châu với hồng y
Francis Arinze nước Nigeria, và Châu Mỹ Latinh với hồng y Claudio Hummes người
Ba Tây. Tuy nhiên, báo chí, hầu hết ở Âu Châu, vẫn quanh quẩn với những vị nổi
tiếng ở Âu Châu, cách riêng ở Ư. Chẳng hạn như vị hồng y Dionigi Tettamanzi, ở
TGP Milan, nơi đă có mấy đời giáo hoàng. Họ cũng đề cập đến 1 vị ngoài nước Ư là
vị hồng y người Pháp Jean-Marie Lustiger, và vị hồng y người Đức hết sức nổi
tiếng đang giữ vai tṛ trưởng hồng y đoàn kiêm tổng trưởng tín lư đức tin là
Joseph Ratzinger.
“Riêng tôi, để có thể suy đoán về vị tân giáo hoàng, cần căn cứ vào diễn tiến
lịch sử của Giáo Hội. Chẳng hạn như trường hợp của Đức Gioan Phaolô II, vị giáo
hoàng đă được Thiên Chúa chọn để đóng vai tṛ áp dụng Công Đồng Chung Vaticanô
II, và đó là lư do ngài đă lấy danh hiệu giáo hoàng là Gioan Phaolô II, v́: Đức
Gioan XIII là vị giáo hoàng dẫn dắt Giáo Hội vỏn vẹn có 5 năm trời, vị giáo
hoàng 78 tuổi nhưng vẫn được Thiên Chúa chọn để khai mạc Công Đồng Chung
Vaticanô II với tinh thần cởi mở và đối thoại, và Đức Phaolô VI là vị giáo hoàng
của Giáo Hội (với thông điệp đầu tiên về “Giáo Hội của Người” ban hành ngày
6/8/1964) tiếp tục và kết thúc Công Đồng Chung cho một Giáo Hội trong thế giới
tân tiến.
“Bởi vậy, theo chiều hướng này, chúng ta cần phải lưu ư tới những ǵ Đức Gioan
Phaolô II đă làm, kể cả và nhất là những ǵ chưa hoàn tất, để phỏng đoán. Nếu
Đức Gioan Phaolô II là vị giáo hoàng xuất phát từ một nước Cộng Sản đă hiển
nhiên được Chúa dùng để làm sụp đổ Cộng Sản ở Âu Châu, và đang cố gắng hết sức
để giúp cho Âu Châu thực sự trở thành một Khối Hiệp Nhất Âu Châu theo căn gốc
Kitô giáo của ḿnh.
“Thế nhưng, cho tới khi ngài qua đời, Khối Hiệp Nhất Âu Châu này, chủ chốt là
Pháp, nơi Giáo Hội vẫn được gọi là trưởng nữ của Giáo Hội, vẫn muốn phủ nhận căn
gốc Kitô giáo làm nên văn hóa Âu Châu và căn tính Âu Châu của ḿnh, và cũng
chính v́ không ‘trả về cho Thiên Chúa những ǵ của Thiên Chúa’ (x Mt 22:21),
bằng việc nh́n nhận căn tính Kitô giáo của ḿnh như thế, châu lục này đă sống
như không có Thiên Chúa, và đang bị khủng hoảng đức tin rất ư là trầm trọng, nơi
đă cả hơn ngàn năm làm cho hạt giống Kitô giáo phát triển và truyền bá đi khắp
nơi trên thế giới, nhưng đồng thời lại là nơi có những phân rẽ trong nội bộ Kitô
giáo từ thế kỷ 16, với hai cuộc ly giáo liền vào tiền bán thế kỷ này là Thệ Phản
(1519) và Anh Giáo (1535).
“Trong khi đó, theo chiều hướng tự do tôn giáo ở Âu Châu, làn sóng di dân của
những người Hồi giáo Ả Rập, trước t́nh h́nh càng ngày càng khủng hoảng ở Trung
Đông là vùng đất của họ, đă tràn vào Âu Châu và đă phát triển càng ngày càng
mạnh, nhất là ở Pháp. Nếu cứ đà này, Kitô giáo ở Âu Châu càng ngày càng xuống
dốc, trong khi Hồi giáo càng ngày càng thịnh, mà Hồi giáo, theo lịch sử cho thấy,
bao giờ cũng kị Kitô giáo, và đă từng triệt hạ Kitô giáo trước đây, thậm chí cho
tới nay ở các quốc gia Hồi giáo của họ, th́ Giáo Hội Công giáo là tâm điểm của
Âu Châu về quyền lực tôn giáo này cần phải đứng vững hơn bao giờ hết, không phải
chỉ v́ sợ Hồi giáo lấn át, cho bằng tái phúc âm hóa Khối Hiệp Nhất Âu Châu theo
tinh thần Kitô giáo (chứ không phải chỉ bằng và nhờ nguyên kinh tế và chính trị
như khối này đang chủ trương).
“Khối Hiệp Nhất Âu Châu có thực sự trở về với căn gốc Kitô giáo của ḿnh, cho
đến độ tiến đến chỗ Đại Kết Kitô giáo, Kitô giáo mới có thể là chứng nhân truyền
bá phúc âm hóa phần thế giới chưa nhận biết Chúa Kitô, nhất là ở Á Châu, mới có
thể tái phúc âm hóa cho cả thế giới Kitô giáo ở toàn Mỹ Châu, nhất là Bắc Mỹ,
nơi cũng đang quằn quại trong nền văn hóa sự chết, và mới có thể làm cho cả Do
Thái giáo đang càng ngày càng gần hơn với Kitô giáo qua Giáo Hội Công giáo từ
thời Đức Gioan Phaolô II, qua chứng từ hiệp nhất Kitô giáo như thế, nhận biết
Đấng Thiên Sai của họ chính là Đức Giêsu Kitô, giáo tổ Kitô giáo.
“Với vai tṛ và vị thế
quan trọng như thế của Âu Châu đối với vận mệnh và sứ mệnh của Giáo Hội Công
giáo trước mắt như thế, những ǵ đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đă cố thực
hiện mà chưa hoàn thành, th́ vị giáo hoàng 265 cần phải là vị giáo hoàng vẫn
thuộc về Âu Châu. Vị giáo hoàng đó có thể là vị hồng y người Pháp có gốc vừa
Balan vừa Do Thái, vị hồng y 79 tuổi đă làm cho hàng giáo phẩm Pháp phải bỡ ngỡ
trước sự bổ nhiệm của Đức Gioan Phaolô II để ngài làm TGM Paris ngày 2/2/1981,
khi ngài mới làm Giám Mục giáo phận Orléans ngày 10/11/1979 chưa được bao lâu.
Đó là ĐHY Jean-Marie Lustiger.
“Cho dù ngài đă 79 tuổi, và cũng chính v́ c̣n 1 tuổi nữa (ngay trước khi không
c̣n hợp lệ để bầu giáo hoàng), đă cho thấy dấu hiệu ngài c̣n kịp làm giáo hoàng,
như trường hợp của Đức Gioan XXIII. Và cho dù thời gian làm giáo hoàng của ngài
có ngắn ngủi đi chăng nữa, (như Đức Gioan XXIII chỉ có 5 năm song đă làm được
một việc chuyển tiếp quan trọng đó là triệu tập Công Đồng Chung Vaticanô II),
chỉ cần ngài hoàn tất sứ vụ của ḿnh, như làm cho nước Pháp, cái then chốt về cả
chính trị lẫn tôn giáo ở Âu Châu, bừng lên tinh thần Kitô giáo, là sẽ làm cho cả
Khối Hiệp Nhất Âu Châu tái sinh, như đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đă làm
cho quê hương Balan của ngài ngay vào lần về nước lần đầu tiên năm 1979, để rồi
10 năm sau vị giáo hoàng vừa quá cố này thấy được thành quả rực rỡ của nó ở cả
Đông Âu.
“Ngoài ra, với ḍng máu gốc Do Thái, vị hồng y này c̣n có thể được Thiên Chúa sử
dụng, như Ngài đă sử dụng mối quen biết và thân t́nh của Đức Gioan Phaolô II với
người Do Thái tại quê hương Balan của vị giáo hoàng này, để làm cho Giáo Hội
Công giáo với Do Thái giáo càng gắn bó với nhau hơn. Để rồi, sau khi vị giáo
hoàng có ḍng máu gốc Do Thái này qua đi, vị giáo hoàng sau ngài, có thể là một
vị hồng y đến từ Đông phương ngoài Âu Châu, từ Á Châu chẳng hạn, xuất hiện, với
danh xưng Phêrô, (vị giáo hoàng cuối cùng theo sấm truyền của tiên tri
Nostradamus), được Thiên Chúa chọn để hoàn tất sứ vụ làm cho dân Do Thái trở
lại, đúng như những ǵ đă được Thánh Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô khẳng định: ‘Dân
Do Thái bị mù tối cho đến khi đủ số Dân Ngoại, rồi tất cả mọi người Do Thái sẽ
được cứu độ’ (Rm 11:25-26).
“Ngoài ra, cũng theo chiều hướng diễn tiến lịch sử, chúng ta cũng có thể suy
đoán như thế này. Nếu chiều hướng của vị giáo hoàng quá cố là ‘thả lưới ở chỗ
nước sâu - duc in altum’, một chiều hướng ngài phác họa cho cả Giáo Hội vào thời
điểm trước ngưỡng cửa của ngàn năm thứ ba Kitô giáo, như Tông Thư Vào Lúc Mở Màn
Cho Một Tân Thiên Niên Kỷ ban hành vào Ngày Lễ Hiển Linh 6/1/2001 để bế mạc Đại
Năm Thánh 2000, th́ vị giáo hoàng thay ngài phải là vị giáo hoàng nội tâm hơn
hoạt động, đau khổ nhiều hơn thành đạt.
“Có thể nói, nếu giáo triều Gioan Phaolô II là giáo triều huy hoàng nhất lịch sử
Giáo Hội Công giáo, chẳng khác nào như Chúa Kitô tiến vào thành thánh
Giêrusalem, th́ vị giáo hoàng sau ngài sẽ là vị giáo hoàng của Bữa Tiệc Ly (có
thể đó là lư do Năm Thánh Thể chưa kết thúc, liên quan đến Hiệp Nhất Kitô giáo,
theo lời nguyện kết thúc Bữa Tiệc Ly của Chúa Kitô), vị giáo hoàng của Vườn
Nhiệt (với những nhức nhối nội bộ) và của Khổ Nạn (gây ra bởi cả dân Chúa lẫn
thế giới). Vị tân giáo hoàng có thể là vị hồng y trong mật nghị hồng y ngày
21/10/2003, một mật nghị chọn tuyển các tân hồng y sau khi ngài trả lời một vị
giám mục Á Căn Đ́nh ngày 12/2/2002 rằng người kế vị ngài chưa làm hồng y.
“Chính v́ vị tân giáo hoàng có thể là vị giáo hoàng nội tâm, vị giáo hoàng hiệp
nhất, vị giáo hoàng khổ đau, mà Sứ Điệp Lễ Chúa T́nh Thương ngày 3/4/2005, sứ
điệp cuối cùng của giáo triều dài 9664 ngay này chính là di chúc hay ước nguyện
cuối cùng ĐTC GPII thực sự muốn để lại cho cả Giáo Hội lẫn toàn thể nhân loại,
‘một nhân loại’, như ngài nói trong sứ điệp, ‘có những lúc dường như bị lạc mất
và bị thống trị bởi quyền lực sự dữ, cái tôi và sợ hăi’, đó là, như ngài cũng
cảm nhận trong sứ điệp, ‘thế giới này cần phải hiểu biết và chấp nhận Ḷng
Thương Xót Chúa biết bao!’ Thế nhưng, để được như vậy, để nhân loại có thể ‘chấp
nhận Ḷng Thương Xót Chúa’, Giáo Hội nói chung và vị tân giáo hoàng nói riêng,
phải trở thành Tông Đồ của Ḷng Thương Xót Chúa, nhờ ‘việc’ được ngài khẳng định
là ‘chiêm ngưỡng mầu nhiệm vĩ đại của t́nh yêu nhân hậu xuất phát từ thánh tâm
Chúa Giêsu này bằng ánh mắt của Mẹ Maria’.
“Nếu thực sự vị tân giáo hoàng là vị giáo hoàng của nội tâm, của hiệp nhất và
khổ đau, th́ vị ấy có thể là một vị hồng y thuộc một ḍng tu, như ḍng Phanxicô,
con cái của Thánh Phanxicô khó khăn, vị thánh nội tâm sâu xa, vị thánh của ḥa
b́nh và hiệp nhất, vị thánh đă được đức cố Gioan Phaolô II hết sức ngưỡng mộ,
đến nỗi vừa lên đăng quang giáo hoàng (22/10/1978) ngài đă đến thăm Assisi
(5/11/1978) và tổ chức những Cuộc Liên Tôn Cầu Nguyện Cho Ḥa B́nh Thế Giời ở
đây vào những ngày 27/10/1986, 9-10/1/1993, và 24/1/2004.
“Chúng ta hăy cầu nguyện cho cuộc mật nghị hồng y bầu tân giáo hoàng và cầu
nguyện cho vị được Thiên Chúa tuyển chọn từ muôn thuở để thay Người dẫn dắt đàn
chiên của Người cho đến khi Người lại đến”.
Ở đây, nếu phân tích kỹ, chúng ta thấy vấn đề được nhấn mạnh là một Âu Châu hiệp
nhất và một tinh thần nội tâm của một ḍng khổ tu.
Phải chăng hai điểm chính yếu được đề cập đến trong bài viết trên đây đă không
được thể hiện ngay danh hiệu Biển Đức của vị tân giáo hoàng. Giáo Hoàng Biển Đức
XV, một vị giáo hoàng đă dẫn dắt Giáo Hội 8 năm (1914-1922), vào thời Thế Chiến
Thứ I, và theo lịch sử nhận định th́ ngài có công gầy dựng hai vị giáo hoàng kế
vị ngài là Giáo Hoàng Piô XI (1922-1939) và Giáo Hoàng Piô XII (1939-1958): Đức
Ông Ratti (sau làm Giáo Hoàng Piô XI) được ngài sai sang Balan làm việc 3 năm,
và Đức Eugenio Pacelli (sau làm Giáo Hoàng Piô XII) được ngài sai sang Đức làm
khâm sứ ṭa thánh ở Munich. Không biết vị tân giáo hoàng thứ 265 của chúng ta có
ư chọn danh hiệu giáo hoàng Biển Đức XVI là để tưởng nhớ đến vị giáo hoàng Biển
Đức XV đă có cônng gay dựng hai vị giáo hoàng thay ngài, một liên quan tới Balan
là quê hương của Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng như tới Balan là quê
hương của chính vị tân giáo hoàng 265 này hay chăng?
Riêng tên Biển Đức là tên của vị Thánh Lập Ḍng Khổ Tu Biển Đức từ thế kỷ thứ
sáu. Sauk hi thánh nhân qua đời năm (480-547), th́ vào năm 574 đă có vị giáo
hoàng lấy tên ngài làm danh hiệu giáo hoàng, đó là Giáo Hoàng Biển Đức I
(574-578/579). Theo lịch sử Giáo Hội nói riêng và lịch sử Âu Châu nói chung
(cũng là lịch sử thế giới), th́ Ḍng của vị thánh được phong làm quan thày của
cả Âu Châu này đă góp công rất nhiều vào việc h́nh thành và phát triển văn hóa
Âu Châu ngay từ đầu. Có một điều trùng hợp nữa là, có một vị nữ tu ḍng Kín
Carmêlô người Đức gốc Do Thái là Teresa Benedicta Thánh Giá, một nữ tu bị Đức
Quốc Xă sát hại và đă được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II phong thánh ngày
11/10/1998 và được tuyên phong làm quan thày Âu Châu cùng với hai v ị Thánh Nữ
khác là Thánh Nữ Brigita Thụy Điển và Catarina Sienna Ư quốc ngày 1/10/1999.
Tân Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Vị Giáo Hoàng của Một Tân Âu Châu
(phần sau đây được viết vào Thứ Tư 27/4/2005, sau khi ĐTC Biển Đức tiết lộ về ư nghĩa danh hiệu giáo hoàng của ngài vào chính ngày này).
Trong một bài được viết vào chính ngày Thứ hai 18/4, ngày mật nghị hồng y bầu tân giáo hoàng bắt đầu, cũng là bài được phổ biến trên mạng điện toán toàn cầu thoidiemmaria.net ngày 19/4/2005, và được cả mạng điện toán toàn cầu dongcong.net lấy phổ biến cùng ngày, tức trước khi có tân giáo hoàng mấy tiếng đồng hồ, tôi đă đặt tựa đề cho bài viết là “Vị Tân Giáo Hoàng 265 có thể là một hồng y người Pháp gốc Ba Lan Do Thái hay một hồng y thuộc ḍng Phanxicô...”.
Tuy những chi tiết ở đầu đề cho bài viết hoàn toàn sai bét. Thế nhưng, nếu ai đă đọc bài này trước khi có tân giáo hoàng, sẽ thấy có những chi tiết rất thích hợp với vị tân giáo hoàng Biển Đức XVI hiện nay. Trong bài viết này, tôi đă lập luận để đưa đến 3 kết luận sau đây: Thứ nhất, vị tân giáo hoàng vẫn c̣n là người Âu Châu; thứ hai, bởi v́ Âu Châu, sau khi Cộng Sản Đông Âu sụp đổ, cần phải tiến đến chỗ hiệp nhất về tôn giáo mới có thể đứng vững trước nạn Hồi giáo và truyền giáo; và thứ ba, muốn thế, vị tân giáo hoàng chẳng những là người Âu châu mà c̣n cần phải có chiều hướng nội tâm.
Trước hết, về vị tân giáo hoàng vẫn c̣n là người Âu Châu, và bởi v́ Âu Châu, sau khi Cộng Sản Đông Âu sụp đổ, cần phải tiến đến chỗ hiệp nhất về tôn giáo mới có thể đứng vững trước nạn Hồi giáo và truyền giáo, tôi đă viết như sau:
“Đức Gioan Phaolô II là vị giáo hoàng xuất phát từ một nước Cộng Sản đă hiển nhiên được Chúa dùng để làm sụp đổ Cộng Sản ở Âu Châu, và đang cố gắng hết sức để giúp cho Âu Châu thực sự trở thành một Khối Hiệp Nhất Âu Châu theo căn gốc Kitô giáo của ḿnh. Thế nhưng, cho tới khi ngài qua đời, Khối Hiệp Nhất Âu Châu này… vẫn muốn phủ nhận căn gốc Kitô giáo làm nên văn hóa Âu Châu và căn tính Âu Châu của ḿnh, và cũng chính v́ không ‘trả về cho Thiên Chúa những ǵ của Thiên Chúa’ (x Mt 22:21), bằng việc nh́n nhận căn tính Kitô giáo của ḿnh như thế, châu lục này đă sống như không có Thiên Chúa, và đang bị khủng hoảng đức tin rất ư là trầm trọng, nơi đă cả hơn ngàn năm làm cho hạt giống Kitô giáo phát triển và truyền bá đi khắp nơi trên thế giới, nhưng đồng thời lại là nơi có những phân rẽ trong nội bộ Kitô giáo từ thế kỷ 16, với hai cuộc ly giáo liền vào tiền bán thế kỷ này là Thệ Phản (1519) và Anh Giáo (1535)....
“Nếu cứ đà này, Kitô giáo ở Âu Châu càng ngày càng xuống dốc, trong khi Hồi giáo càng ngày càng thịnh, mà Hồi giáo, theo lịch sử cho thấy, bao giờ cũng kị Kitô giáo, và đă từng triệt hạ Kitô giáo trước đây, thậm chí cho tới nay vẫn c̣n xẩy ra ở các quốc gia Hồi giáo của họ, th́ Giáo Hội Công giáo là tâm điểm của Âu Châu về quyền lực tôn giáo này cần phải đứng vững hơn bao giờ hết, không phải chỉ v́ sợ Hồi giáo lấn át, cho bằng tái phúc âm hóa Khối Hiệp Nhất Âu Châu theo tinh thần Kitô giáo.
“Khối Hiệp Nhất Âu Châu có thực sự trở về với căn gốc Kitô giáo của ḿnh, cho đến độ tiến đến chỗ Đại Kết Kitô giáo, Kitô giáo mới có thể là chứng nhân truyền bá phúc âm hóa phần thế giới chưa nhận biết Chúa Kitô, nhất là ở Á Châu, và mới có thể tái phúc âm hóa cho cả thế giới Kitô giáo ở toàn Mỹ Châu, nhất là Bắc Mỹ, nơi cũng đang quằn quại trong nền văn hóa sự chết... Với vai tṛ và vị thế quan trọng như thế của Âu Châu đối với vận mệnh và sứ mệnh của Giáo Hội Công giáo trước mắt như thế, những ǵ đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đă cố thực hiện mà chưa hoàn thành, th́ vị giáo hoàng 265 cần phải là vị giáo hoàng vẫn thuộc về Âu Châu…”
Thật vậy, về điểm thứ nhất, vị giáo hoàng vẫn ở Âu Châu, đó là vị tân giáo hoàng người Đức, nguyên hồng y Joseph Ratzinger, tổng trưởng Thánh Bộ Tín Lư Đức Tin. Về điểm thứ hai, sở dĩ vị tân giáo hoàng vẫn c̣n là người Âu Châu v́ vị tân giáo hoàng có liên hệ tới vận mệnh Âu Châu, điểm này đă được tỏ hiện ngay nơi danh hiệu giáo hoàng của ngài, một danh hiệu đă làm cho mọi người ngỡ ngàng, một danh hiệu quả thực có liên hệ đến Âu Châu, như được chính ngài minh định trong buổi triều kiến chung hằng tuần Thứ Tư 27/4/2005 cách đây hai hôm như sau. Ngài nói:
“Danh hiệu Biển Đức ngoài ra c̣n gợi lên cho thấy một h́nh ảnh nổi bật về vị đại ‘tổ phụ đan viện tu tây phương’, đó là Thánh Biển Đức ở Nursia, vị đồng quan thày Âu Châu với thánh Cyrilô và Methôđiô. Việc mau chóng phát triển Ḍng Biển Đức được ngài sáng lập đă gây tác dụng lớn lao cho việc truyền bá Kitô giáo khắp lục địa Âu Châu. Đó là lư do Thánh Biển Đức đă được tôn kính rất nhiều ở Đức quốc, nhất là ở Bavaria, miền đất nguyên quán của tôi; ngài thiết lập một cứ điểm nồng cốt cho việc hiệp nhất Âu Châu và mănh liệt kêu gọi trở về với những cội nguồn Kitô giáo của văn hóa và văn minh Âu Châu”.
Về điểm thứ ba trong bài viết được đề cập đến trên đây, tôi c̣n nói vị tân giáo hoàng thiên về đời sống nội tâm và nhấn mạnh đến việc sống nội tâm, nguyên văn những lời tôi viết như sau:
“Ngoài ra, cũng theo chiều hướng diễn tiến lịch sử, chúng ta cũng có thể suy đoán như thế này. Nếu chiều hướng của vị giáo hoàng quá cố là ‘thả lưới ở chỗ nước sâu - duc in altum’, một chiều hướng ngài phác họa cho cả Giáo Hội vào thời điểm trước ngưỡng cửa của ngàn năm thứ ba Kitô giáo, như Tông Thư Vào Lúc Mở Màn Cho Một Tân Thiên Niên Kỷ ban hành vào Ngày Lễ Hiển Linh 6/1/2001 để bế mạc Đại Năm Thánh 2000, th́ vị giáo hoàng thay ngài phải là vị giáo hoàng nội tâm hơn hoạt động, đau khổ nhiều hơn thành đạt”.
Những lời này cũng đă được tôi phổ biến trong buổi phát thanh Tin Mừng Sự Sống 240 Thứ Sáu 15/4/2005.
Đúng thế, danh hiệu Giáo Hoàng Biển Đức XVI của vị tân giáo hoàng 265 của Giáo Hội đă cho thấy ngài hướng về vị thánh tổ phụ của đan viện khổ tu, và kêu gọi sống nội tâm, như chính ngài đă kêu gọi cũng trong bài huấn dụ cho buổi triều kiến chung hôm Thứ Tư trên đây. Ngài nói:
“Chúng ta biết lời huấn dụ được Vị Tổ Phụ của đan viện tu Tây Phương này để lại cho thành phần đan sĩ của ḿnh đó là ‘Tuyêt đối không coi ǵ hơn Chúa Kitô’ (Luật Ḍng 72:11; 4:21). Vào lúc mở đầu cho việc tôi phục vụ như vị Thừa Kế Thánh Phêrô, tôi xin Thánh Biển Đức hăy giúp chúng ta biết cương quyết lấy Chúa Kitô làm tâm điểm của đời sống chúng ta. Chớ ǵ Người bao giờ cũng là những ǵ trên hết trong tâm tưởng cũng như trong tất cả mọi hoạt động của chúng ta!”
Ngoài ra, cũng theo chiều hướng nội tâm này, vị tân giáo hoàng đă minh định là ngài sẽ tiếp tục đường lối 'duc in altum' (thả lưới ở chỗ nước sâu) của vị tiền nhiệm Gioan Phaolô II của ḿnh, như ngài đă nói trong cùng bài huấn từ cho buổi triều kiến chung trên đây thế này:
"Tôi cảm mến nghĩ lại vị tiền nhiệm Gioan Phaolô II của ḿnh, vị chúng ta đă mắc nợ một di sản thiêng liêng đặc biệt. Ngài đă viết trong tông thứ 'Vào Lúc Mở Màn Cho Một Thiên Niên Kỷ' rằng 'Các cộng đồng Kitô hữu chúng ta cần phải trở thành một học đường cầu nguyện, nơi cuộc gặp gỡ Chúa Kitô được thể hiện chẳng những ở chỗ nài xin ơn giúp đỡ mà c̣n ở chỗ tạ ơn, chúc tụng, tôn thờ, chiêm ngưỡng, lắng nghe và sùng mộ, cho đến khi tâm hồn thực sự say yêu’ (số 33).
"Chính ngài đă t́m cách thực hiện những ư định đó này bằng cách cống hiến các buổi giáo lư Thứ Tư vào thời gian cuối cùng để dẫn giải về các bài Thánh Vịnh cho giờ kinh phụng vụ ban mai và chiều tối. Như ngài đă làm khi mở màn cho giáo triều của ngài, lúc ngài muốn tiếp tục những bài chia sẻ được khởi xướng bởi vị Tiền Nhiệm của ngài về các nhân đức Kitô giáo (x 'Insegnamenti di Giovanni Paolo II', I [1978], tr. 60-63), tôi cũng có ư thực hiện vào các buổi triều kiến hằng tuần tới đây việc dẫn giải đă được Đức Gioan Phaolô II dọn cho phần thứ hai của các Bài Thánh Vịnh và Ca Vịnh thuộc Giờ Kinh Phụng Vụ Chiều Tối. Từ Thứ Tư tuần tới, tôi sẽ bắt đầu vào chính bài giáo lư của ngài đă bị gián đoạn sau buổi triều kiến chung 26/1/2005".
Đối với tôi, sau khi thấy được 3 ba điểm suy đoán này đă xẩy ra đúng với vị tân giáo hoàng, tôi thấy ngài quả thực là một “dấu chỉ thời đại”, với những sự kiện sau đây liên quan đến nước Đức của ngài nói riêng và đến biến cố sắp đến của Giáo Hội diễn ra tại quê hương của ngài nói chung.
Trước hết, về phương diện tôn giáo, nước Đức của ngài, theo lịch sử, là một nước phát xuất ra phong trào Thệ Phản Tin Lành từ tiền bán thế kỷ 16, với linh mục ḍng Âu Quốc Tinh tên là Martin Luthêrô năm 1519. Bởi thế, phải chăng vị giáo hoàng 265 người Đức của Giáo Hội Công Giáo này là một “dấu chỉ thời đại”, v́ ngài quả thực đă minh nhiên chủ trương đặt ưu tiên hàng đầu cho giáo triều của ngài là Hiệp Nhất Kitô giáo?
Sau nữa, về phương diện chính trị, nước Đức của ngài, cũng theo lịch sử, là một nước gây ra hai Thế Chiến I và II trong tiền bán thế kỷ 20, và Bức Tường Bá Linh sau Thế Chiến Thứ Hai ở nước của ngài là biểu tượng cho tinh thần chia rẽ Âu Châu. Như thế, phải chăng vị tân giáo hoàng thay thế Đức Gioan Phaolô II là “một dấu chỉ thời đại”, v́ ngài quả thực lấy danh hiệu giáo hoàng hết sức lạ lùng là Biển Đức, vị thánh quan thày của Âu Châu và là vị thánh liên quan đến văn hóa chung của Âu Châu?
Sau hết, về biến cố của Giáo Hội liên quan đến chính quốc gia của vị tân giáo hoàng người Đức này là Ngày Giới Trẻ Thế Giới lần thứ XX tại Cologne vào trung tuần tháng 8/2005. Phải chăng Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX tại Đức quốc này cũng là một “dấu chỉ thời đại”? Bởi v́, tại sao Ngày Giới Trẻ Thế Giới lần XX này không ở một nước nào khác, như ở Á Căn Đ́nh năm 1987, ở Tây Ban Nha năm 1989, ở Balan năm 1991, ở Mỹ năm 1993, ở Phi Luật Tân năm 1995, ở Pháp năm 1997, ở Rôma năm 2000, ở Gia Nă Đại năm 2003, mà cho tới năm 2005 là năm có vị tân giáo hoàng người Đức mới diễn ra, mà diễn ra với chính sự hiện diện của vị giáo hoàng bản quốc này, v́ ngài đă hứa sẽ đến với ngày này.
Theo tôi, nếu chuyến về Balan đầu tiên của Đức Gioan Phaolô II vào tháng 6/1979, như lịch sử chứng thực, là một biến cố quyết liệt đă đưa đến Biến Cố Đông Âu sụp đổ đúng 10 năm sau đó, th́ biết đâu chuyến về quê hương lần đầu tiên vào tháng 8/2005 này của vị giáo hoàng người Đức cũng có một tác dụng làm cho Âu Châu thực sự trở thành một Khối Hiệp Nhất như vậy. Nếu Công Đoàn Liên Đới ở Balan là một lực lượng bất bạo động đă làm sụp đổ cả Khối Đông Âu thế nào, th́ chỉ cần Khối Liên Hiệp Thế Giới Lutherô ở Đức Quốc, một tổ chức đă chính thức kư kết với Giáo Hội Công Giáo Bản Tuyên Ngôn Chung về Tín Lư Công Chính Hóa ngày 31/10/1999, công khai trở về với Giáo Hội Công Giáo, các cộng đoàn giáo hội Kitô giáo Tây phương khác cũng theo nhau trở về với Giáo Hội Công Giáo.
“Gió muốn thổi đâu th́ thổi” (Jn 3:8). Chúng ta hăy cầu nguyện cho Giáo Hội và cho riêng vị tân giáo hoàng của chúng ta, để chờ đợi thấy được những ǵ Vị Chủ Tể Lịch Sử làm việc qua người tôi tớ được Ngài tuyển chọn với danh hiệu Biển Đức XVI. Amen.