-7-
Thực
Hiện Sống Đạo: Tỉnh Thức
Nguyện Cầu
Mục tiêu Kitô hữu sống
đạo là để đạt đến tầm vóc
viên trọn của Chúa Kitô là đầu, tức là
để trở nên xứng đáng làm con Thiên Chúa, như
Chúa Kitô đă được Cha tuyên nhận Người là
Con yêu dấu của Cha, đẹp ḷng Cha mọi đàng.
Và để đạt được mục tiêu sống
đạo này nơi Kitô hữu là chi thể của Chúa
Kitô, Chúa Thánh Thần chính là tác nhân, bằng các Linh Ân của
ḿnh, làm cho Kitô hữu thực hiện những tác
động thần linh Tin, Cậy, Mến, hoàn toàn xứng
hợp với thiên chức của họ là thành phần con
cái Thiên Chúa.
Là con cái Thiên Chúa, được thông phần sự
sống thần linh của Ngài, Kitô hữu muốn
trưởng thành theo tầm vóc viên trọn của Chúa Kitô
là đầu, c̣n phải được nuôi dưỡng
bằng Thánh Thể của Chúa Kitô, cũng như phải
được khuôn đúc theo h́nh ảnh của một
Chúa Kitô Tử Giá, một Chúa Kitô Tử Giá là hiện thân
đích thực và trọn vẹn của Cha trên trời, Đấng
yêu thương trọn hảo.
Phần Kitô hữu, v́ đă được sinh lại
bởi trên cao, bởi Thần Linh, muốn đạt
đến tầm vóc viên trọn của Chúa Kitô là
đầu, họ cần phải ngoan ngoăn theo tác
động dẫn dắt của Chúa Thánh Thần là Đấng
ngự trong nội tâm của họ, nghĩa là họ
phải luôn luôn lắng nghe tiếng gió và để cho gió
muốn thổi đi đâu th́ thổi, bằng một tâm
hồn hoàn toàn đơn sơ và tận tuyệt phó thác,
không cần biết gió từ đâu đến và sẽ
đi đâu.
Lắng nghe tiếng gió không phải là thái độ
tỉnh thức của Kitô hữu trong cuộc đời
sống đạo, và để cho gió muốn thổi
đi đâu th́ thổi cũng không phải là tuyệt
đỉnh nguyện cầu nơi Kitô hữu hay sao?
Về phương diện thực hành, nếu tŕnh
độ sống đạo cao nhất là liên lỉ
kết hợp với Thiên Chúa, th́ cầu nguyện và
kết hợp với Chúa hơi khác nhau. Ở chỗ,
cầu nguyện là đường dẫn Kitô hữu
đến việc kết hợp với Chúa. Có thể nói
cầu nguyện là khát khao Chúa, trong khi kết hợp là
chiếm được Chúa, là no thỏa Chúa.
Tuy nhiên, c̣n sống trên đời này Kitô hữu không
thể nào hoàn toàn chiếm được Thiên Chúa,
tuyệt đối no thỏa Thiên Chúa. Do đó, cuộc
sống đạo của Kitô hữu trên trần gian này
chính là một cuộc đi t́m kiếm Thiên Chúa, là một
hành tŕnh Đức Tin cho tới khi đạt đến
cùng đích của ḿnh là Thiên Chúa.
Tuy nhiên, liên lỉ kết hợp với Chúa không phải
chỉ là việc liên lỉ nhớ đến Chúa bằng
trí khôn của ḿnh. Kinh nghiệm cho thấy, chính lúc cố
t́nh phạm tội là lúc nhớ đến Chúa nhất,
nghĩa là lúc biết điều ḿnh sắp làm hay đang
bị cám dỗ làm là có tội, là không hợp với ư
muốn của Thiên Chúa, là sẽ làm mất ḷng Chúa.
Liên lỉ kết hợp với Chúa cũng không phải là
linh cảm thấy Chúa hiện diện nơi ḿnh, hay là
nhận ra Chúa nơi các tạo vật hoặc qua những
biến cố của cuộc đời. Bởi v́, thực
tế sống đạo cũng cho thấy có những lúc
Kitô hữu khô khan nguội lạnh, không c̣n cảm thấy
Chúa nữa, thậm chí c̣n hồ nghi ngay cả đến
việc hiện hữu và căn tính của Thiên Chúa. Đó
là trường hợp Kitô hữu bị thử thách về
đức tin được gọi là đêm tối
tăm.
Tuy nhiên, dù có trải qua đêm tối tăm khủng
khiếp mấy đi nữa, thậm chí như Chúa Kitô trên
thập giá đă phải than lên: "Cha ơi, sao Cha bỏ
Con" (Mt.27:46), Người vẫn không thôi cầu
nguyện: "Tôi khát" (Jn.19:28), và vĩnh viễn
gắn bó với Thiên Chúa: "Lạy Cha, Con xin phó linh
hồn Con trong tay Cha" (Lk.23:46).
Nếu kết hợp với
Thiên Chúa là vâng theo ư của Ngài, là làm theo ư của Ngài th́
cầu nguyện là khao khát làm đẹp ḷng Thiên Chúa là Cha
của ḿnh. Chính v́ luôn luôn khao khát làm đẹp ḷng Cha
của ḿnh và chỉ có một khát vọng duy nhất là làm đẹp
ḷng Cha của ḿnh, nên Kitô hữu dễ dàng nhận ra Cha
của họ trong mọi sự.
Kitô hữu sẽ dễ dàng nhận ra Cha của họ qua
những ǵ Ngài không muốn, dù tự bản chất
của nó lành mạnh hay không có tội, để tránh lánh
kẻo làm mất ḷng Cha. Họ sẽ mau chóng nhận ra Cha
của họ nơi những ǵ Ngài ưng ư và mong muốn,
dù nhỏ mọn mấy đi nữa, khó mấy đi
nữa, để làm theo cho đẹp ḷng Ngài. Họ
sẽ nhận ra Cha của họ tỏ tường
nhất và trọn vẹn nhất, nơi những ǵ làm
họ trái ư, nơi những ǵ làm khổ đau họ để
tuân phục và nên một với Ngài.
Đạt đến một tŕnh độ cầu
nguyện là khao khát làm đẹp ḷng Cha ḿnh và chỉ có
một khát vọng duy nhất là làm đẹp ḷng Cha
của ḿnh như thế, Kitô hữu đă đạt đến
một tŕnh độ khó nghèo trong tinh thần cũng là
một tŕnh độ thanh sạch có thể thấy Thiên
Chúa (x.Mt.5:3,8).
Tŕnh độ cầu nguyện rỗng không mà tinh tuyền
này nơi tâm hồn Kitô hữu là t́nh trạng đầy
Thiên Chúa (x.Eph.3:19;1:23), đầy đến nỗi, càng
ngày Kitô hữu càng siêu thoát, càng không c̣n thiết một
sự ǵ trên thế gian này nữa (Phil.3:8), dù chúng có được
phép làm hay có lợi (x.1Cor.6:12;10:23), thậm chí chúng có
tốt lành mấy đi nữa, trái lại, không ǵ có
thể lôi kéo họ ra khỏi t́nh họ yêu mến Thiên Chúa
(x.Rm.8:39), một ḿnh Ngài là đủ cho họ, là tất
cả của họ (x.Col.3:11; 1Cor.15:28), hơn nữa, t́nh
yêu Chúa c̣n trở thành chính lẽ sống của họ,
thành động lực thúc đẩy họ làm mọi
sự (x.2Cor.5:14).
Nếu đam mê nhục dục và tính mê nết xấu
nơi con người là nội công của các chước
cám dỗ và là chính dịp tội (x.Mt.5:28-30) làm cho họ
dễ dàng và không ngừng sa ngă mất ḷng Chúa, th́ niềm
khát vọng Thiên Chúa liên lỉ và duy nhất này nơi Kitô
hữu cũng là yếu tố không thể thiếu, là điều
kiện thiết yếu cho tác động của Chúa Thánh
Thần nơi họ, để Ngài có thể làm vọt lên
trong họ mạch nước sự sống đời đời
(x.Jn.4:14).
Cầu nguyện tự bản chất là niềm khát khao
Thiên Chúa như thế nên Kinh Lạy Cha, với 3
ước nguyện trực tiếp đối với Cha
ở phần đầu kinh, và với 3 khẩn nguyện
gián tiếp với Ngài ở phần cuối kinh, mới đúng
là mẫu mực tuyệt hảo của lời cầu
nguyện cũng như của việc cầu nguyện.
Việc đọc kinh của thành phần Kitô hữu đă
đạt đến tŕnh độ nguyện cầu chiêm
niệm th́ chỉ là những lời than khôn tả
(x.Rm.8:26) được phát ra từ tấm ḷng đầy
khát vọng Thiên Chúa dưới tác động của Chúa
Thánh Thần (x.Rm.8:26), chứ không c̣n là những lời
lẽ phát xuất từ ư thức có tính cách tôn giáo để
giúp cho ḿnh dễ cầu nguyện và suy thêm về Thiên
Chúa.
Thật thế, cầu nguyện đến độ chiêm
niệm là một tŕnh độ cầu nguyện không
cần đến việc nghĩ tưởng của trí
khôn, một tŕnh độ không c̣n phải suy tư vất
vả để phác họa cho ḿnh một Thiên Chúa vô h́nh
không thể thấu đạt bằng ư niệm tự
nhiên, kể cả bằng kiến thức thần học,
một tŕnh độ cầu nguyện cũng không cần
phải độc thoại dài ḍng ngôn từ mới yên trí
là cầu nguyện (x.Mt.6:7), mà là một tŕnh độ
cầu nguyện bằng chính tấm ḷng của ḿnh
(x.Mt.15:8-9; Is.29:13), nơi "Thiên Chúa là Thần Linh"
(Jn.4:24) ngự trị.
Tuy nhiên, để có thể luôn luôn khao khát Thiên Chúa và
chỉ khao khát một ḿnh Thiên Chúa mà thôi, nghĩa là để
đạt đến một tŕnh độ nguyện
cầu chiêm niệm tuyệt hảo, một tŕnh độ
cầu nguyện bằng chính tấm ḷng của ḿnh, nơi
Thiên Chúa ngự trị, Kitô hữu chẳng những
phải được thanh tẩy cho xứng đáng, mà
c̣n cần tỉnh thức nữa mới được.
Ở chỗ, họ phải thực hiện việc cầu
nguyện như Chúa Kitô đă căn dặn là: "Vào pḥng
(nội
tâm của ḿnh), đóng
cửa (giác
quan, tưởng tượng và xúc cảm nhất thời) của ḿnh lại mà âm
thầm (khát
vọng và chiêm ngắm hơn là ồn ào nhiều lời
lắm miệng)
cầu với Cha của ḿnh" (Mt.6:6).
Kinh nghiệm sống đạo đă cho thấy rất rơ
về thực trạng cầu nguyện cần phải
tỉnh thức này. Nghĩa là, nếu không tỉnh thức
Kitô hữu không thể nào cầu nguyện được,
mà hậu quả là, họ lại c̣n có thể sa
chước cám dỗ một cách dễ dàng, dù có sốt
sắng đến đâu đi nữa.
Không phải hay sao, khi nghe Chúa Kitô tiên báo việc ḿnh sẽ
chối Người, thánh Phêrô đă không thề thốt
với Chúa hết sức mănh liệt (x.Lk.22:31-34), để
rồi đă thực sự trắng trợn và phũ phàng
chối bỏ Thày ḿnh 3 lần (x.Lk.22:54-61), chỉ v́ không
cầu nguyện với Thày trước giờ tử
nạn của Người (x.Lk.22:40). Thế nhưng, thánh
Phêrô làm sao có thể cầu nguyện với Thày của ḿnh
như lời Người kêu gọi được khi mà
thánh nhân bấy giờ "buồn ngủ (đến
nỗi) không thể mở mắt ra" (Mt.26:43).
Vậy, để có thể cầu nguyện và cầu
nguyện một cách sốt sắng, về phương
diện tiêu cực, ít ra Kitô hữu phải tỉnh
thức đề pḥng tất cả những ǵ gây chia trí
cho ḿnh, khiến cho việc cầu nguyện bị cản
trở cách nào, cả bề trong lẫn bề ngoài.
Về bề ngoài, trong ngày sống hết sức giữ
ǵn giác quan, nhất là thị giác và thính giác, chỉ nh́n hay
nghe những ǵ thật sự cần và đáng mà thôi, để
tránh những h́nh ảnh tái diễn trong lúc đọc kinh
chỉ v́ giác quan đă được thả lỏng
trước đó. C̣n về bề trong, cố giữ ḿnh điều
độ trong tất cả mọi sinh hoạt, đừng
ham hố ǵ quá, để tránh những thu hút mung lung,
khiến đọc kinh lấy lệ, cho nhanh, cho kịp,
kẻo nhỡ những cái hào hứng đang chờ;
kể cả những việc phận sự phải làm
cũng đừng quá lo lắng như Matta (x.Lk.10:41), trái
lại, làm ǵ th́ làm cũng "chỉ có một điều
cần" (Lk.10:42) là gắn bó với Chúa thôi.
Tuy nhiên, để có thể
vừa làm việc vừa gắn bó với Chúa, gắn bó đến
nỗi tất cả mọi hoạt động của
người Kitô hữu này biến thành việc cầu
nguyện, và đến nỗi sau khi ngưng hoạt động
để chính thức giờ cầu nguyện, Phụng
Vụ hay đọc kinh, Kitô hữu không cần phải
b́nh tâm lại rồi mới có thể bắt đầu
cho khỏi bị chia trí. Sau đây là mấy gợi ư
Thực Hành Sống Đạo để nỗ lực
gắn bó với Thiên Chúa là Cha trên trời của ḿnh trong
mọi nơi và mọi lúc.
Gợi ư thực hiện sống đạo thứ
nhất là dâng cả một ngày sống cho Thiên Chúa, để
tất cả mọi việc ḿnh làm và từng việc ḿnh
làm, dù trong tư tưởng, lời nói hay tác hành, đều
chỉ làm v́ Chúa, trong Chúa và cho Chúa mà thôi. Như thế, cho
dù trong ngày có không nhớ đến Chúa nhiều, song
cũng không có ư hướng xấu nơi sinh hoạt
thường nhật, th́ tất cả mọi việc Kitô
hữu làm, dù lớn hay nhỏ, thiêng liêng hay tự nhiên, đều
có công và đáng thưởng trước mặt Chúa,
nghĩa là làm cho Ơn Nghĩa Chúa lớn lên trong ḿnh.
Gợi ư thực hiện sống đạo thứ hai là
dâng mỗi việc làm cho Chúa, ít là trước khi làm các
việc chính, như trước khi ăn, học, chơi,
nhất là trước việc nào ḿnh thấy thường
quên Chúa nhất, theo tự nhiên nhất. Dâng việc làm trong
sinh hoạt thường nhật cho Chúa bằng cách
nhắc lại ư hướng làm v́ Chúa và cho Chúa của ḿnh.
Bởi v́, kinh nghiệm cho thấy, đam mê nết xấu
sẽ gieo cỏ lùng vực là những ư hướng
xấu vào các công việc làm, nhất là những việc
lành phúc đức, thành mất ḷng Chúa.
Gợi ư thực hiện sống đạo thứ ba là
làm việc một cách khoan thai b́nh thản, đừng để
ḿnh bị công việc lôi cuốn và chi phối, đến
nỗi gặp trái ư một chút là bất nhẫn, bất
an, bất b́nh, trái lại, hoàn toàn làm chủ công việc,
hết giờ là thôi ngay, để khỏi phải vội
vàng hấp tấp bắt tay vào việc khác, không c̣n ḷng trí
nào nhớ đến Thiên Chúa là cùng đích của việc
ḿnh làm nữa.
Gợi ư thực hiện sống đạo thứ
bốn là làm những ǵ trái với ư thích tự nhiên của
ḿnh, để tập làm chủ ḿnh lẫn công việc
ḿnh làm. Chẳng hạn cái ǵ ḿnh cảm thấy đang ham
thích, đang bị thu hút, th́ không làm nữa hay đừng
làm ngay, trái lại, cái ǵ ḿnh không ưa thích hay không vừa ư
của ḿnh, th́ nhất định cố làm và bắt ḿnh
phải làm. Đây cũng là việc thực hiện
sống đạo bằng những hy sinh bỏ ḿnh
vậy.
Gợi ư thực hiện sống đạo thứ
năm là năng nhớ đến Chúa bằng những
lời than thở nồng nàn mến yêu. Để giúp
cho ḿnh dễ nhớ đến Chúa, có thể dùng đồng
hồ đeo tay có năng phận (function) báo hiệu
từng giờ (hourly chime), và mỗi khi nghe tiếng đồng
hồ th́ dừng việc một chút hay vừa làm việc
vừa hướng về Chúa.
Gợi ư thực hiện sống đạo thứ sáu là
liên kết việc làm của ḿnh với việc làm của
Chúa Giêsu xưa. Như
mỗi khi khát th́ nhớ đến cơn khát hấp
hối trên thập giá của Chúa Giêsu (x.Jn.19:28), khi nằm
ngủ hay nghỉ th́ nhớ đến xác của
Người nằm trong mồ đá (x.Mt.27:60) v.v.
Gợi ư thực hiện sống đạo thứ
bảy là "làm như Thày đă làm" (Jn.13:15).
Nếu Chúa Kitô là Con Thiên Chúa đă chay tịnh và không
chỉ v́ đói mà ăn (x.Mt.4:1-4), th́ Kitô hữu cũng
không sống theo bản chất tự nhiên.