Nước Sự Sống
Trong những chương trước, tôi đã chia sẻ một vài minh thức đơn sơ về cảm nghiệm chiêm niệm cũng như những đường lối dẫn đến cảm nghiệm chiêm niệm này. Một điều chắn chắn là không một ai trong chúng ta làm chủ được việc chúng ta yêu mến Thiên Chúa hay đời sống chiêm niệm của mình cả. Tất cả mọi bậc thày chiêm niệm Đông Tây đều nhấn mạnh đến điều này, đó là muốn được cảm nghiệm chiêm niệm thì cần phải có một tấm lòng tinh khiết và phải trung thành sống bậc sống của mình; nó cũng đòi phải thiết tha ước muốn, khiêm cung cầu nguyện và kiên trì nhẫn nại. Thánh Bơ-Na đã diễn tả mức độ thiết tha của ước muốn trong đoạn văn sau đây:
“Nếu ai trong chúng ta, như một vị tiên tri thánh đức, thấy rằng gắn bó với Chúa thì tốt, và nếu ai trong chúng ta đầy những ước muốn đến nỗi chúng ta muốn ra đi để ở với Chúa Kitô, nếu chúng ta tìm kiếm Chúa bằng một ước muốn thật thiết tha, một khát khao bừng nóng hơn bao giờ hết và một nỗ lực không hề mỏi mệt, thì chúng ta chắc chắn sẽ gặp được Vị Tân Lang vào một ngày nào đó Người đến. Vào giờ phút ấy, chúng ta sẽ được ôm trong tay Đấng Khôn Ngoan; chúng ta sẽ cảm nghiệm được tình yêu thần linh êm ái ngọt ngào biết bao, khi tình yêu ấy tràn vào lòng chúng ta. Ứơc muốn của chúng ta sẽ được thỏa nguyện ngay khi chúng ta còn lữ hành trên đời này – mặc dù không trọn vẹn và chỉ trong vòng một thời gian ngắn, một thời gian rất ngắn” (SC 32:2).
Ứơc muốn ấy vừa là nhiên liệu vừa là dưỡng chất cho việc cảm nghiệm chiêm niệm. Thánh ước này vẫn chưa thỏa nguyện nơi trạng thái “Đạt Thành Hiệp Nhất”, nhưng càng hiệp nhất thì càng ao ước hơn. Đó là động cơ làm nên sự kiên trì nhẫn nại và sự liên tục của niềm thánh ước, bất chấp các trở ngại làm chán nản đến mấy đi nữa, hay Tân Lang có tới muộn màng đến đâu đi nữa.
Thánh Bơ-Na đã dùng hình ảnh giòng sữa và bộ ngực căng tròn để nói lên việc khẩn thiết cầu xin cho được ước muốn này, hay cho được Thánh Linh va chạm, một sự va chạm thánh nhân gọi là “nụ hôn” (kiss of the mouth). Ngài đã viết ở một đoạn trong Bài Giảng về Diễm Tình Ca như sau:
“Công lực của nụ hôn thánh này mãnh liệt đến nỗi vị tân nương vừa nhận được thì cô liền thụ thai và bộ ngực của cô căng phồng những sinh lực cưu mang, thực sự là cưu mang chứng tá, bởi một giòng sữa dồi dào. Con người được thôi thúc thường xuyên cầu nguyện sẽ cảm nghiệm được những gì tôi nói. Thường thì lúc chúng ta đến cầu nguyện với Chúa thì lòng chúng ta khô khan nguội lạnh. Thế nhưng, nếu chúng ta kiên trì nhẫn nại, chúng ta sẽ thấy nguồn ân sủng lan tỏa không ngơ,ø làm cho lồng ngực của chúng ta thực sự nở nang và nội tâm của chúng ta dâng đầy yêu thương…” (SC 9:7).
Đây là một hình ảnh khêu gợi, thế nhưng Thánh Bơ-Na đã không e thẹn sử dụng nó và đã nhiệt liệt khai triển nó. Vấn đề quan trọng và giá phải trả cao đến nỗi, nếu chúng ta muốn chuyển đạt, cho dù là một dấu vết, tặng ân tình yêu Thiên Chúa dành cho linh hồn như thế, thì tất cả mọi nghi thức đều phải được tạm gác qua một bên, để kéo giãn những giới hạn của ngôn ngữ ra hơn tầm mức của nó.
Nếu chúng ta quay về với các Bậc Thày Đông Phương, chúng ta sẽ thấy họ kéo giãn ngôn ngữ ra theo một chiều hướng khác, song cũng mang một ý nghĩa thái quá không kém và một tâm thức về việc đòi hỏi liên lỉ theo chiêm niệm gọi mời không nhỏ. Tôi có ý nói đến công-án khó hiểu là “cổng không cổng” (The Gateless Gate Barrier) mà các vị đã sử dụng để nói về cái thu hút mãnh liệt của Sự Thật vô hạn. Tấm lòng của Thiên Chúa là một cái “cổng không cổng”, một ngãng trở, một mầu nhiệm theo quan điểm đối với khả năng hạn hẹp trong việc ước muốn của chúng ta, thế nhưng lại vô cùng và vô hạn theo quan điểm đối với lòng mong ước tha thiết của Đấng vẫy gọi chúng ta. Sau đây là bài thơ của Sư Phụ Mumon về cái Cổng Không Cổng:
Cổng Không Cổng là Nguồn Lực Cả.
Ngàn ngàn lối đường dẫn đến đó,
Nếu vượt qua được mầu nhiệm ấy,
Là bạn thênh thang trong Hoàn Vũ vậy.
Thế rồi Mumon tiếp tục cắt nghĩa bài thơ này như sau:
“Để vượt qua được ngãng trở này, một tâm hồn dũng cảm thực sự sẽ chìm mình thẳng vào thực tại của cái Cổng Không Cổng, cột chặt cả cuộc đời của mình vào đó. Họ sẽ không bao giờ lưỡng lự dù có gặp khó khăn đến mấy. Không gì có thể phá đám được việc thực hành của một tầm nhân Chân Lý dũng cảm như vậy. Ngược lại, nếu họ do dự dấn thân trong việc thực hành của mình, họ sẽ mất nó ngay trong tích tắc, như thể họ chợt thấy bóng câu phóng qua cửa sổ. Họ sẽ không còn thấy bóng cảm nghiệm chiêm niệm của mình nữa, và không bao giờ họ sẽ có thể tiến được đến cái Cổng Không Cổng ấy nữa”.
(Zenkei Shibayama, Zen Comments on the Mumonkan;
New York: A Mentor Book, 1974, p. 9)
(Tiểu chú của tác giả cho bản Việt ngữ: Đi qua “Cổng Không Cổng” có thể tương tự như trường hợp Moisen nhìn thấy Chúa là Đấng vô hình vô tượng - seeing the Invisible, được nói tới trong Thư gửi Người Do Thái 11:27)
Chắc chắn ở đây chúng ta không nói về vấn đề triết học cứu xét hay theo lý trí hiểu biết. Đây là một sự kiện cụ thể được trực nghiệm thấy. Nhưng lại là một đạo lộ của bóng tối tăm. Nó là một con đường sáng láng nhất. Nó là một đường lối của cõi lòng.
Tôi đã cống hiến đường lối nhỏ mọn của tôi cho qúi bạn, với hy vọng là sẽ giúp qúi bạn tìm ra được đường lối dẫn qúi bạn đến việc cảm nghiệm chiêm niệm, tức là, đến nghiệm thức về mối hiệp nhất thân tình với Thiên Chúa trong Chúa Kitô. Với cùng một ý hướng như vậy, tôi cũng đã trình bày với qúi bạn về các đường lối của Thánh Bơ-Na cũng như của thiền sư Hang-Sơn Lương-Chi.
Ơû trang bên cạnh này đây, qúi bạn sẽ thấy một biểu đồ tổng kết hợp tất cả những gì tôi đã trình bày với qúi bạn về năm bước dẫn đến cảm nghiệm chiêm niệm.
Bước 1
Bước 2
Bước 3
Bước 4
Bước 5
Khách
ởû trong Chủ
Chủ
ở trong Khách
Khách phục hồi Chủ
Chủ Khách tương phùng
Khách Chủ
hiệp nhất
Tôi
thuộc về Người Yêu của tôi
Người Yêu của tôi thuộc về tôi
Chúng ta hãy
dạo bước ra
đồng nội
Xem nho nở hoa kết nụ
Ở đó
tôi
hiến tặng cho chàng
tình yêu của tôi
Đọc biểu đồ này theo chiều ngang, qúi bạn sẽ thấy: khung thứ hai là năm bước của thiền sư Hang-Sơn Lương-Chi; khung thứ ba là các câu của đoạn 7 trong Diễm Tình Ca; và khung thứ bốn là năm biểu hiệu của D.T. Suzuki và Eric Fromn.
Nếu qúi bạn muốn thử bất cứ bước nào trong những bước này, tôi xin nhắc qúi bạn những điều sau đây: trước hết, con đường dẫn đến cảm nghiệm chiêm niệm là một mầu nhiệm cần phải được chiêm niệm và cảm nghiệm, chứ không phải là một lý thuyết giáo khoa cần được học hỏi. Trong việc tĩnh niệm của mình vào bất cứ lúc nào, qúi bạn cần phải có một đức tin trực giác sâu xa để làm cho Chúa Giêsu hiện diện với qúi bạn, cũng như cần phải có một tình yêu mật thiết để Người ấp ủ qúi bạn.
Nếu qúi bạn muốn tiến tới bước “Đạt Thành Hiệp Nhất” thì trước hết hãy cầu kinh của Thiền Sư Hang-Sơn Lương-Chi:
“Tố-Cung-Gươm cổ kính,
bao lần không chịu xuống
Từ ‘Đỉnh chót Diệu kỳ!’
Ngài thuê người đem tuyết
Rồi cùng họ cố gắng
làm cho Giếng tràn đầy”.
(Tiểu chú của tác giả cho bản Việt ngữ: Có thể nói lời than thở trên của Hang-Sơn tương tự như lời nguyện “Rorate Coeli Desuper” – “Xin Trời hãy mưa xuống…” được Giáo Hội hát trong Mùa Vọng để cầu xin Chúa đến).
Rồi hợp với Thánh Linh nguyện kinh của Thánh Gioan:
“Cả Thần Linh và Tân Nương đều nói:
Ôi Chúa Giêsu Kitô, xin hãy đến! Amen” (Rev.22:17)
Kinh nguyện của cả Thánh Gioan lẫn Thiền Sư Hang-Sơn Lương-Chi được sốt sắng dâng lên sẽ làm cho lời Chúa Giêsu nói với người phụ nữ Samaritanô được nên trọn:
“Thứ nước Ta sẽ cho chị
sẽ trở nên nơi chị
một mạch nước vọt lên sự sống đời đời” (Jn.4:14)
“Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến!” (Rev.22:20)