Lời Giới Thiệu của Bà Cynthia Bourgeault cho nguyên bản Anh ngữ

 

 

Trong số những ǵ nói lên tính cách sâu xa nhất và cao qúi nhất của linh đạo Kitô giáo, phải kể đến một truyền thống lớn về thần bí học yêu thương của đan viện tu (monastic love mysticism), một truyền thống (mà các đan sĩ có thể nói là đă phát nguồn từ chính con tim của Chúa Kitô), nó giống như một triều sáng, đă xuyên qua các thế kỷ đầu tiên của Giáo Hội, và đă hoàn toàn nở hoa nơi phong trào đan viện Xi-Tô ở thế kỷ 12, được thể hiện qua các văn phẩm thần bí đầy cảm hứng của Thánh Bơ-Na Clairvaux. Ngụp lặn trong h́nh ảnh Diễm T́nh Ca (Song of Songs) của Thánh Kinh, cũng như ch́m sâu trong “hôn thê thần bí học” (bridal mysticism) của Giáo Hội sơ khai, truyền thống này đă phát động một đường lối làm cho mănh lực của ước muốn nhục thể, được thanh tẩy và tái hướng về Thiên Chúa, có thể thắng vượt cái ham muốn hừng hực của nó, để đạt tới tầm vóc t́nh yêu viên trọn như của Chúa Kitô.

         

Tất nhiên, đối với những người chiêm niệm không phải là thành phần tu sỹ, khi va chạm truyền thống trên, họ sẽ thắc mắc về vấn đề chuyển tiến và uy tín của truyền thống đó. Phải chăng t́nh yêu nhục thể nơi đan viện tu (monatic eros) này thực sự cũng là ước muốn nhục thể mà thành phần không sống độc thân cảm nghiệm thấy trong cuộc thân giao phái tính của họ? Làm thế nào một h́nh ảnh đầy xúc cảm rạo rực trong Diễm T́nh Ca lại được thấy như là một diễn đạt điển h́nh tuyệt vời cho t́nh yêu độc thân đan viện? Phải chăng cảm nghiệm huyết nhục phải được chuyển biến hay sáng bóng trước “Thánh ư” mới có thể trở nên một linh đạo? Mà nếu vậy th́ hầu hết người trần gian như chúng ta đây đang ở đâu trong linh đạo này?

         

Tất cả những ai đă bận tâm về những vấn nạn này sẽ t́m được an tâm đặc biệt cùng với những giải đáp thẳng thắn nơi cuốn sách nhỏ lạ lùng này của Cha Giuse Chu Công, một đan sĩ Trappist 80 tuổi ở Đan Viện Thánh Giuse Spencer, Massachusetts. Cuối cùng, chỉ có một con đường duy nhất để “tiến đến chỗ đó”, Cha Giuse phấn khích – đó là mở ḷng ḿnh ra càng ngày càng rộng răi hơn. Đạo lộ Kitô hữu tiến tới cuộc linh hiệp qua sự “ấp ủ ước vọng thánh thiện” dành cho cả người sống độc thân cũng như không độc thân, thế nhưng, bao giờ nó cũng phải có cùng một một việc làm là phó ḿnh trọn vẹn cho quyền năng yêu thương biến đổi. “T́nh yêu Thiên Chúa là trung tâm điểm của tất cả mọi thân giao nhân bản và phái tính”, Cha Giuse tuyên bố như thế ở ngay chương đầu tiên của cuốn sách ngài viết – không phải bằng giọng điệu “đối với tôi th́ phụ nữ loạn chứng qúa cỡ” thường hay xẩy ra nơi các cuộc bàn căi trong đan viện về t́nh yêu phối ngẫu -  mà bằng một xác tín tự nhiên của một người, nhờ trung thành đi theo con đường yêu thương của ḿnh tới cùng, đă cảm được chính cốt lơi của T́nh Yêu.

 

Có nhiều cách người ta có thể giới thiệu về Cha Giuse (trước ấn bản mới này, tác phẩm của ngài chỉ được phổ biến trong nội bộ đan viện mà thôi), thế nhưng, có lẽ lời giới thiệu hay nhất th́ chỉ việc nói rằng ngài là “người đă đạt tới nơi”. Là người Việt Nam, sinh trưởng trong một gia đ́nh sâu xa đức tin Kitô giáo, ngài được giáo dục nơi các chủng viện Công giáo Việt Nam, và được thụ phong linh mục năm 1948, giữa cơn biến loạn về chính trị đang phân chia đất nước bấy giờ. Được phái sang Hoa Kỳ cao học năm 1954, ngài thấy ḿnh như bị Cuộc Chiến Việt Nam bùng nổ lưu đầy ngài tới nơi đây, để rồi, trong lúc nguyện cầu cho biết Chúa muốn dẫn ḿnh đi đâu, ngài đă cảm được một tiếng gọi sâu xa đột ngột kêu mời ngài sống đời chiêm niệm. Ngài gia nhập Đan Viện Thánh Giuse năm 1961, rồi ở đó đến nay, phục vụ cộng đoàn đan viện của ḿnh bằng nhiều cách – như làm giám tập viện 20 năm, làm đan viện phụ đầu tiên cho một tân cộng đồng đan viện ở Phi Luật Tân, và hiện giờ đang làm đan viện trưởng cho cộng đoàn đan viện nhà của ḿnh. Cuốn sách nhỏ của ngài, nhắc người ta rất nhiều đến cuốn Tập Sống Trước Tôn Nhan Thiên Chúa của Thày Lawrance, là sản phẩm của một đời học hỏi, suy tư và cảm nghiệm đi theo linh đạo này.

         

“Những ‘giây phút’ cảm nghiệm chiêm niệm là những giây phút vàng, khi chúng ta cảm thấy ḿnh được thắm thiết yêu thương … đến tận xương tủy”, Cha Giuse viết điều này ở đầu Chương 3. Dùng t́nh yêu như chuẩn định của ḿnh, ngài hướng dẫn độc giả vững vàng tiến bước theo con đường cảm nghiệm chiêm niệm – từ những sinh động đầu tiên nơi những ǵ có thể được gọi là “bừng nhiệm” (mystical awakening) cho đến tột đỉnh linh hiệp của nó, lúc mà thị kiến chiêm niệm đă trở nên một trạng thái ư thức tự tại (abiding state of conciousness). Thản nhiên chia sẻ những trắc trở cũng như những khai phá của ḿnh dọc theo linh đạo này, ngài đă hiến cho độc giả cái ch́a khóa ngài đă mở cửa cho ḿnh cũng như để mở cửa cho cả chúng ta nữa. Tầm vóc có khiêm tốn mấy đi nữa, tập sách nhỏ này dầu sao cũng là một “bản hướng dẫn sử dụng” (user’s guide) đáng tin cậy nhất, rơ ràng dễ hiểu và thực tế nhất đối với truyền thống sáng lạn của yêu thương thần bí học Kitô giáo mà tôi đă từng thấy. Đối với những ai đă bắt đầu tiến bước theo cuộc hành tŕnh linh đạo Kitô giáo, qua một nhóm cầu nguyện chiêm niệm, hay qua việc tĩnh tâm ở một đan viện, muốn d́m ḿnh sâu hơn nữa vào kho tàng truyền thống đan viện tu, th́ cuốn sách này là một nguồn tài liệu làm cố vấn và giúp họ phấn khởi tiếp tục bước đi.

         

Mặc dầu là một Kitô hữu có tuổi, Cha Giuse cũng đă học được nhiều điều từ kho tàng khôn ngoan Đông phương (là kho tàng mà, ngược đời thay, ngài lại bắt đầu gặp gỡ khi trở thành một đan sĩ ở Spencer!). Một trong những đoạn nguyên thủy nhất và ảnh hưởng nhất của cuốn sách này là đoạn ngài đan kết “năm chặng suy niệm” của Hang-Sơn Lương-Chi (Tozan Ryokai), một vị sư phụ về Thiền ở thế kỷ thứ 9, với đời sống lẫn giáo huấn của Thánh Bơ-Na Clairvaux, để dẫn giải những bước đường và những giai đoạn sâu xa trong cuộc hành tŕnh tiến đến việc hiệp nhất. Bên dưới tính cách giản dị tỏ bày qua những lời và những truyện kể của Cha Giuse là cả một sự khôn ngoan tinh xảo của việc chiêm niệm đă mọng chín, một việc chiêm niệm mà người ta càng tiến triển trên linh đạo này th́ nó lại càng phản dội vang động hơn. Đoạn sách này cũng là một biểu chứng tuyệt vời cho thấy ngôn từ bóng bẩy của Kitô giáo được thể hiện ra sao, và cũng cho thấy những đường lối mà các vị đan sĩ, đă theo tâm hồn được soi động của ḿnh, vượt ra ngoài ư nghĩa về ngôn từ nơi bản văn thánh kinh để đi vào kho tàng duy nhất hay “nhiệm ư” được chất chứa bên trong. Chương ngài nói về “Đọc Thánh Kinh như Đọc Uẩn Khúc Thiền” đối với nhiều độc giả sẽ là đoạn sáng giá nhất trong cả cuốn sách.

         

Bằng việc đan kết khéo léo cái khôn ngoan thực tiễn, cái tinh niệm (insight) thức giả với kinh nghiệm sống động của ḿnh, Cha Giuse đă cho thấy con đường truyền thống thần bí học về yêu thương của đan viện tu, khả tín, khả đạt và mời gọi, đối với con người nam nữ đương thời đang khao khát sống hiệp nhất thân t́nh sâu xa hơn nữa với Chúa Kitô. Bất cứ chúng ta sống trong hoàn cảnh nào, Cha Giuse cũng dạy chúng ta phải làm thế nào để “ấp ủ ước-vọng lành thánh”, và để cho chính đam mê của việc ấp ủ này làm chúng ta tiến đến độ được hoàn toàn  thỏa nguyện.

  

Nữ Giáo Sỹ Cynthia Bourgeault, Ph.D.