-12-
ĐẠO
BINH HỒN NHỎ:
Chứng
Nhân Tiên Khởi của Chúa Kitô
Hồn
Nhỏ Bá Vũ Ly
THIÊN CHÚA
ĐẾN VỚI CON NGƯỜI:
LỜI
NHẬP THỂ VÀ HY HIẾN
“T |
hiên Chúa là
Thần Linh” (Jn.4:24). Mà con người lại là loài
chẳng những “sinh bởi huyết nhục” (Jn.1:13)
lại c̣n “yêu tối tăm hơn ánh sáng” (Jn.3:19). Do đó,
nếu chính Thiên Chúa không tự tỏ ḿnh ra cho con người
th́ con người không thể nào biết được
Ngài để có thể đến được với
Ngài. Thế nhưng, “Thiên Chúa là t́nh yêu” (1Jn.4:8,16), Ngài không
thể nào không yêu mà c̣n là Thiên Chúa. Và cũng chính v́ Thiên Chúa
yêu mà Ngài đă muốn tỏ ḿnh ra cho con người, tức
là Ngài muốn tự động đến với con
người, chứ không bắt con người phải đến
với Ngài, như bầy tôi phải đến với
chủ như kiểu lễ nghĩa phong kiến trần
gian, v́ Ngài (cũng bởi yêu) đă thừa biết con
người không thể nào có thể tự ḿnh đến được
với Ngài, nghĩa là con người không thể nào tự
ḿnh biết được Ngài như chính Ngài biết ḿnh
Ngài.
Thiên Chúa muốn đến
với con người, cũng là muốn tỏ ḿnh cho con
người như thế, tức là Ngài muốn tỏ t́nh
với con người, muốn con người biết được
rằng bản tính của Ngài “là t́nh yêu”, qua việc Ngài vô
cùng yêu thương họ cách nhưng không, để nhờ
nhận ra, như dân Do Thái xưa, “Chúa là Thiên Chúa của
chúng ta, là Chúa duy nhất” (Deut.6:4), mà con người có
thể được Ngài thu hút đến với Ngài,
gắn bó với Ngài, bằng cách, cũng như dân Do Thái,
“kính mến Chúa là Thiên Chúa của chúng ta hết tâm can,
hết linh hồn và hết sức lực của ḿnh”
(Deut.6:5).
“Thiên Chúa là t́nh
yêu” đă tỏ ḿnh ra cho con người, cũng là tỏ
t́nh với con người, như thế nào, nếu không
phải, ở chỗ: “Thiên Chúa yêu thế gian đến
ban Con duy nhất của ḿnh, để ai tin Con th́ không
phải chết nhưng được sự sống đời
đời” (Jn.3:16). Đúng thế, “t́nh yêu của Thiên Chúa đă
tỏ lộ giữa chúng ta là ở chỗ Ngài đă sai Con
duy nhất của Ngài đến thế gian, để
chúng ta nhờ Con mà được sự sống” (1Jn.4:9), đến
nỗi, “Thiên Chúa chứng tỏ t́nh yêu của Ngài đối
với chúng ta ở chỗ, đang khi chúng ta c̣n là những
tội nhân th́ Đức Kitô đă chết cho chúng ta”
(Rm.5:8). Bởi thế, Con Thiên Chúa, như chính Người đă
minh định với tổng trấn Philatô, nhân vật
tiêu biểu cho vương quốc trần gian bấy giờ
đang khao khát đi t́m “sự thật là ǵ” (Jn.18:38),
rằng: “Lư do Tôi được sinh ra, lư do Tôi đến
trong thế gian là để làm chứng cho sự thật”
(Jn.18:37), một sự thật không thể chối căi:
“Thiên Chúa là t́nh yêu” và “Thiên Chúa đă yêu thế gian”. Con Thiên
Chúa chính “là sự thật” (Jn.16:4) này tức Người
chính “là t́nh yêu” của Thiên Chúa, và Thánh Giá của Người
là dấu hiệu hùng hồn nhất “làm chứng cho sự
thật” này, tức Thánh Giá của Người “làm chứng”
rằng Thiên Chúa đă yêu thương con người đến
“không tha cho Con riêng ḿnh, song đă trao nộp Người v́
chúng ta” (Rm.8:32), “đă làm cho Đấng không biết đến
tội lỗi trở thành tội lỗi v́ chúng ta”
(2Cor.5:21).
Đó là “tất
cả sự thật” (Jn.16:13) về Thiên Chúa nơi Đức
Giêsu Kitô. Một “Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn.4:24) đă
tỏ ḿnh cho con người, qua “Lời đă hóa thánh
nhục thể và ở giữa chúng ta” (Jn.1:14), đến
nỗi, nơi Đức Giêsu Kitô, Ngài “đă hư không hóa
bản thân và mặc lấy thân phận tôi đ̣i” (Phil.2:7).
Một “Thiên Chúa là t́nh yêu” (1Jn.4:8,16) đă tự động
đến t́m kiếm con người, qua Đấng “đến
không phải để được hầu hạ mà là để
phục vụ, để hiến ḿnh làm giá chuộc cho
nhiều người” (Mt.20:28), tới nỗi, nơi Đức
Giêsu Kitô, Ngài đă phải xuống “đến tận cùng”
(Jn.13:1) bất hạnh của con người, là tất
cả những ǵ được biểu hiệu nơi
những nhơ nhớp ở đôi chân của họ, để
“rửa chân” (Jn.13:5) cho họ.
CON NGƯỜI ĐẾN
VỚI THIÊN CHÚA:
HOÁN CẢI VÀ
TRỞ NÊN NHƯ TRẺ NHỎ
N |
ếu “Thiên Chúa
là Thần Linh”, Ngài đă phải hạ ḿnh xuống, đến
nỗi “đă hư không hóa bản thân” (Phil.2:7) để
có thể tỏ ḿnh ra cho con người như thế, th́
con người không thể nào đưa ḿnh lên mà có thể
nhận biết Ngài, trừ phi họ khiêm hạ, nghèo khó và
tinh tuyền như Mẹ Maria, đệ nhất tạo
vật trong cấp trật ân sủng của Thiên Chúa,
một trinh nữ tôi tớ xin vâng của Thiên Chúa, như
chính Mẹ đă sống và xác tín trong ca vịnh “Ngợi
Khen” của Mẹ: “Chúa đă ra tay uy quyền đánh tan
những thâm ư của người kiêu ngạo. Chúa đă
hạ người thế lực xuống khỏi ngai
vương, và đă nâng người hèn mọn lên. Chúa đă
cho người đói khó no đầy thiện hảo và
khiến người giầu có trở về tay không”
(Lk.1:51-53).
Và nếu “Thiên
Chúa là t́nh yêu” (1Jn.4:8,16), Ngài chẳng những đă phải
“hư không hóa bản thân, mặc lấy thân phận tôi đ̣i”
(Phil.2:7) để có thể đến gặp thân phận
vô cùng bất xứng của con người, mà c̣n “đă
lấy khăn quấn quanh ḿnh” (Jn.13:4) cúi xuống rửa
chân cho con người là biểu hiệu cho thân phận vô
cùng bất hạnh của họ, th́ con người không
thể “yêu sự sống ḿnh” (Jn.12:25), hay “giữ sự
sống ḿnh” (Mt.16:25), mà có thể gặp được
Ngài, “có thể dự phần với (Ngài)” (Jn.13:8), trừ
phi họ “ghét sự sống ḿnh ở đời này”
(Jn.13:25), hay “bỏ sự sống ḿnh v́ (Ngài)” (Mt.16:25), tức
hoàn toàn sống theo tất cả những ǵ Thiên Chúa
muốn, hoàn toàn để Ngài “tự do yêu” (Hos.14:5) sao th́
yêu, dù ư muốn tối cao và t́nh yêu toàn thiện của Ngài
hầu như bao giờ cũng hết sức vô lư,
thậm chí bất lợi cho cuộc đời họ,
thật trái với ư nghĩ, ư thích và ư muốn của
họ mấy đi nữa, như gương của Đấng
“đă vâng lời cho đến chết và chết trên
thập giá” (Phil.2:8).
Nếu con người
chỉ hạ ḿnh xuống khiêm nhượng như Mẹ
Maria trinh nguyên mới có thể nhận biết “Thiên Chúa là
Thần Linh” (Jn.4:24), Đấng đă tỏ ḿnh ra nơi
“Lời đă hóa thành nhục thể” (Jn.1:14), và nếu con
người “biết vâng phục nơi những ǵ phải
chịu” (Heb.5:8) như Đức Giêsu Kitô, mới có
thể gặp được “Thiên Chúa là t́nh yêu” (1Jn.4:8,16),
tức “được nên một như Cha ở trong Con và
như Con ở trong Cha” (Jn.17:21), nghĩa là “được
vào Nước Thiên Chúa” (Mt.18:3), tức được thông
phần vào Sự Sống Thần Linh, Sự Sống
của Thiên Chúa, th́ con người đă đi đúng Con Đường
Bé Nhỏ Phúc Aâm, một đường lối chắc
chắn nhất để con người có thể gặp
Chúa, vắn tắt nhất để họ có thể vào
Nước Trời, và dễ dàng nhất để họ
có thể thành đại thánh, thành con cưng của Chúa, đúng
như Chúa Giêsu đă khẳng định: “Hăy để cho
các trẻ nhỏ đến cùng Thày. Đừng ngăn
cản chúng. V́ Nước Thiên Chúa thuộc về thành
phần giống như chúng” (Mt.19:14); “Trừ phi các con hoán
cải và trở nên như trẻ nhỏ, bằng không các
con không được vào Nước Thiên Chúa. Ai hạ ḿnh
xuống giống như những con trẻ này là thành
phần cao trọng nhất trong Nước Trời”
(Mt.18:3-4).
Thật vậy,
trong toàn thể thụ tạo, kể cả thiên thần,
c̣n ai cao trọng hơn Mẹ Maria trong Nước Trời,
tức không có thụ tạo nào được gần Thiên
Chúa như Mẹ, hay không có một thụ tạo nào được
đầy t́nh yêu Thiên Chúa như Mẹ. Bởi thế
cũng chỉ có một ḿnh Mẹ Maria mới đáng được
sứ thần Thiên Chúa nghiêm cẩn chào mừng “đầy
ơn phúc” (Lk.1:28) mà thôi. Thế nhưng, lư do tại sao
Mẹ Maria “đầy ơn phúc” không phải là v́ đặc
ân làm Mẹ Thiên Chúa, theo như quan điểm trần gian
nơi người đàn bà kia chúc tụng Mẹ
trước mặt Con Mẹ: “Phúc cho ḷng đă cưu mang
Ngài và vú đă cho Ngài bú” (Lk.11:27), cho bằng “nghe lời
Thiên Chúa và tuân giữ lời Ngài” (Lk.11:28), đúng như
nhận định “đầy Thánh Thần” (Lk.1:41) về
Mẹ của thánh nữ Isave: “Phúc cho Người v́ đă
tin tưởng rằng những lời Chúa phán cùng Người
sẽ được thực hiện” (Lk.1:45).
Như thế,
Tinh Thần Hồn Nhỏ Phúc Aâm không là ǵ khác ngoài việc
“tin tưởng vào những lời của Chúa”, tức tin
tưởng vào những ǵ Thiên Chúa muốn mạc khải
cho con người, cũng là tin tưởng vào những ǵ
“Ngài nói với chúng ta qua Con Ngài” (Heb.1:2), hay tin tưởng
vào chính Con Ngài là Đức Giêsu Kitô cũng thế, v́
Người chính là Đấng “tỏ Cha ra” (Jn.1:19), Đấng
“đến trong thế gian là để làm chứng cho
sự thật” (Jn.18:37). Bởi vậy, sống Tinh
Thần Hồn Nhỏ Phúc Aâm cũng không là ǵ khác ngoài
việc chấp nhận “Đức Giêsu Kitô là Đấng
Cha sai” (Jn.17:3), Đấng mà “không ai biết ngoài Cha”
(Mt.11:27), và v́ thế Người cũng là Đấng
“nếu không được Cha ban phép” (Jn.6:65) và “lôi kéo”
(Jn.6:44), như chính Người tuyên bố, “không ai có
thể đến được với Thày” (Jn.6:44,65), tức
không ai có thể “chấp nhận Người” (Jn.1:12). Đúng
thế, Đức Giêsu Kitô chính là “những ǵ Cha đă
giấu kẻ thức giả và khôn lanh mà tỏ cho
những con trẻ bé mọn nhất biết” (Mt.11:25).
“ĐÂY
LÀ TRIỀU ĐẠI CỦA SATAN”:
TINH THẦN
VÀ ĐƯỜNG LỐI PHẢN KITÔ
Đ |
ến đây
chúng ta mới có thể hiểu được phần nào
lư do tại sao cho đến hạ bán thế kỷ 20 này,
nghĩa là sau gần 2000 năm Lời nhập thể, Thiên
Chúa mới ngỏ ư muốn chính thức thành lập Đạo
Binh Hồn Nhỏ trên thế giới này, như được
ghi nhận trong Thông Điệp T́nh Yêu Nhân Hậu của
Ngài ngày 1-4-1967: “Con sẽ thành lập Đạo Binh Hồn
Nhỏ của Trái Tim Nhân Hậu Chúa Giêsu”. Đúng thế,
Tinh Thần Hồn Nhỏ Phúc Aâm là một tinh thần có
tính cách “công giáo” nhất, tức có tính cách phổ quát
nhất, bao gồm mọi nhân đức, bao gồm
mọi thời điểm và bao gồm mọi ơn
gọi (tận hiến tu tŕ hay hôn nhân gia đ́nh). Tuy nhiên,
kể từ sau Công Đồng Chung Vaticanô II
(11/10/1962-8/12/1965), Tinh Thần Hồn Nhỏ Phúc Aâm cần được
phát động mạnh hơn, rơ hơn, đến
nỗi, phải được hóa thân thành một lực
lượng mang danh xưng “Đạo Binh Hồn Nhỏ”,
là v́, như Thông Điệp T́nh Yêu Nhân Hậu ghi lại
ngày 21-5-1967, “đây là triều đại của Satan”, mà
Thông Điệp T́nh Yêu Nhân Hậu ngày 10-10-1967 c̣n cho
biết: “Để chống lại đạo binh Satan, các
con hăy lập Đạo Binh Hồn Nhỏ”.
Đúng thế,
như trên đă nhận định, Tinh Thần Hồn
Nhỏ Phúc Aâm ở tại việc chấp nhận Đức
Giêsu Kitô là Đấng Cha sai, tức chấp nhận “Lời
đă hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta”
(Jn.1:14). Trong khi đó, như Thánh Kinh Tân Ước cho
biết, “nhiều kẻ gian xảo đă xuất hiện
trong thế gian, thành phần không công nhận Đức
Giêsu Kitô đến trong xác thịt. Thành phần này là thành
phần gian xảo. Đó là thành phần phản kitô”
(2Jn.7). Thành phần phản kitô này không phải là tay sai
của Satan và làm nên lực lượng của Satan hay sao,
v́ “Satan là tên cám dỗ cả thế gian” (Rev.12:9), hắn
chính là “con khổng long” (Rev.12:9), tên phản kitô đầu đảng,
như Sách Khải Huyền đă ghi lại thị kiến
của thánh Gioan tông đồ như sau: “Bấy giờ
con rồng đứng trước người nữ
sắp sinh con, ŕnh chực nuốt đi con bà khi con bà được
sinh ra” (Rev.12:4).
Thật ra, cho
tới “thời gian sau hết” (Heb.1:2) là lúc “Thiên Chúa nói
với chúng ta” (Heb.1:2) qua Lời nhập thể, thành
phần phản kitô này cũng mới bắt đầu
chính thức xuất hiện, đúng như thánh tông đồ
Gioan nhận định: “Hỡi các con, đây là giờ
phút cuối cùng (final hour), như các con đă nghe rằng
thành phần phản kitô đă đến, mà giờ đây
những kẻ phản kitô ấy đă xuất hiện
rồi. Điều này cho chúng ta chắc chắn đây là
giờ phút sau hết” (1Jn.2:18). Và tên phản kitô đầu
tiên được Phúc Aâm ghi nhận là Hêrôđê, vị
quận vương đă hạ lệnh truy sát “vua Do Thái
mới sinh ra tại Bêlem xứ Giuđa” (Mt.2:2,5). Ngoài ra,
thành phần phản kitô c̣n phải kể đến
“những người tự nhận chính danh Do Thái”
(Rev.2:9), đă kết tội Con Thiên Chúa (xem Mt.26:65-66), đă
xin Philatô đóng đanh Người (xem Mt.27:23-26), và đă
thách thức Người xuống khỏi thập giá để
họ tin nhận Ngài là Con Thiên Chúa (xem Mt.27:40-42).
Nếu thành
phần phản kitô là đồ đệ của Satan, “những
phần tử của hội đồng Satan” (Rev.2:9), thành
phần không công nhận Đức Giêsu Kitô đến trong
xác thể như thế, tức thành phần chỉ ham
chuộng và tôn sùng những ǵ là cao sang quyền thế,
rồi khinh chê và ghê tránh những ǵ là bần cùng khốn
khổ, th́ không c̣n thời điểm nào hơn thời điểm
kể từ thập niên 1960 đến nay, thời điểm
cho thấy tinh thần phản kitô có thể nói là đă lên đến
tuyệt đỉnh.
Thật thế,
kể từ thập niên 1960, thập niên đánh dấu
lịch sử con người bắt đầu tiến
vào giai đoạn nhảy vọt về khoa học và
kỹ thuật, nhưng lại bị khủng hoảng
về luân lư và văn hóa. Về khoa học và kỹ
thuật, con người đă thám hiểm không gian với
mộng chẳng những bá chủ trái đất mà cả
vũ trụ nữa, đă phát triển ngành điện
tử và điện toán càng ngày càng siêu kỹ thuật, đến
nỗi con người cảm thấy gần nhau hơn bao
giờ hết, nhờ đủ mọi phương
tiện truyền thông xă hội vượt thời gian và
không gian.
Phải chăng
v́ cảm thấy khả năng siêu việt của ḿnh
nơi khoa học và kỹ thuật như thế, nhất
là nơi những tiện nghi lợi ích thiết thực
cụ thể do khoa học và kỹ thuật mang lại cho
ḿnh như thế, mà con người, về luân lư và văn
hóa, càng ngày càng bị suy đồi đến phá sản?
Không phải hay sao, cũng từ thập niên 1960, con người
đă tự ḿnh hợp thức hóa việc ly dị và phá
thai, một hiện tượng chưa từng có trong
lịch sử loài người. Thậm chí con người
c̣n tôn sùng chủ nghĩa duy nhân bản đến nỗi đă
bắt đầu hợp thức hóa hôn nhân đồng tính
và tạo sinh ngoại nhiên.
Qua những
khoản lề luật nhân tạo phản tự nhiên và
luân lư này, không phải là bằøng chứng hiển nhiên cho
thấy con người hoàn toàn hướng về tự
nhiên, tự ḿnh giải quyết mọi vấn đề,
cái ǵ họ nghĩ là đúng, những ǵ họ muốn là
thiện và những ǵ họ làm là hay, không c̣n coi Thiên Chúa ra
ǵ, hay phủ nhận Thiên Chúa hiện hữu, hoặc Thiên
Chúa có hiện hữu th́ Ngài đă chết rồi. Tinh
thần tự cao và trào lưu bất phục tùng đến
tột độ của thế giới nói chung và Aâu
Mỹ là thế giới đặc biệt Kitô giáo nói riêng,
trong thời điểm này không cho thấy dấu chỉ “đây
là triều đại của Satan”, thời đại
của thành phần phản kitô hay sao?
Không phải “đây
là triều đại của Satan”, tức triều đại
phản kitô, triều đại không công nhận Đức
Giêsu Kitô đến trong xác thể yếu hèn hay sao? Điển
h́nh thứ nhất là phong trào thần học giải phóng ở
Mỹ Châu La Tinh từ thập niên 1970, chủ trương
ơn cứu rỗi phải được thể
hiện bằng đường lối đấu tranh giai
cấp như chủ nghĩa cộng sản, một
chủ trương như thách thức Chúa Giêsu Kitô phải
xuống khỏi thập giá mới đáng tin. Điển
h́nh thứ hai là các khoản luật cho phép phá thai, nếu đứa
nhỏ trong bụng mẹ được khám phá thấy có
thể bị tàn tật, hay luật cho phép giết chết
bệnh nhân bất khả chữa trị trước giờ
chết của họ, để họ khỏi đau và xă
hội đỡ gánh nặng, hoặc luật cho phép ly
dị nhau đơn phương, với lư do chỉ
cần cảm thấy không hợp nhau chứ không phải
“v́ lư do ngoại t́nh” (Mt.19:9) v.v.
Tất cả
những khoản luật này hay các khoản tương
tự đă không nói lên khuynh hướng con người
chỉ công nhận một “Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa
hằng sống” (Mt.16:16), chứ không chấp nhận
một “Con Người” khổ nạn và tử nạn
rồi mới phục sinh (xem Mtù. 20:18-19; 16:21). Tức con
người thiên về khoa học thực nghiệm và
kỹ thuật tiện ích ngày nay chỉ giải quyết
mọi sự, bao gồm cả lănh vực lương tâm
và luân lư, căn cứ vào những cái lợi thực tế
mà thôi, hễ có lợi là tốt, mà tốt th́ cần
phải làm và được phép làm, có quyền làm, dù có
phản trái với lương tâm hay nguyên tắc luân lư
phổ quát đi nữa. Chân lư của con người ngày
nay là phán đoán chủ quan của họ, và sự
thiện của họ là lợi lộc hiện sinh của
họ. Nghĩa là con người thuộc “triều đại
của Satan” ngày nay muốn thay thế Thiên Chúa trong việc
“biết lành biết dữ” (Gen.3:5), tức muốn tự
ḿnh định đoạt tất cả mọi sự theo
ư riêng của ḿnh, cái ǵ họ nghĩ lành là lành, như ly
dị, phá thai, hôn nhân đồng tính, tạo sinh ngoại
nhiên v.v., nên có quyền làm; và cái ǵ họ cho dữ là
dữ, như thai nhi tàn tật, bệnh nhân bất trị
v.v., nên cần phải giết đi!
Thế nhưng,
với lư luận sắc bén và thực tế như
thế, nhất là lối lư luận này lại được
chính quyền hợp thức hóa, được nhiều
người theo như thế, làm sao Hồn Nhỏ có
thể nhận ra những sai lầm của “triều đại
Satan”, tức có thể nhận diện và điểm
mặt thành phần phản kitô này, một thành phần mà
Thánh Kinh Tân Ước đă nhận định “chúng từ
hàng ngũ của chúng ta mà ra” (1Jn.2:19). Chính v́ thành phần
này, cũng Thánh Kinh Tân Ước nhận định, là
thành phần “gian xảo” (2Jn.7), mà Chúa Giêsu đă cảnh
giác các môn đệ trong những ngày cuối thời, “lừa
đảo nhiều người” (Mt.24:5,11), thậm chí lừa
đảo “cả thành phần được chọn”
(Mt.24:24). Ngay thánh Phêrô, sống ở kề bên và sống
ngay trước một “Đức Kitô” (Mt.16:16) thực
sự, như ngài được ơn Chúa tuyên xưng (xem
Mt.16:17), mà c̣n trở thành “Satan” (Mt.16:23), tức c̣n khuynh
hướng phản kitô, chưa hoàn toàn công nhận Đức
Giêsu Kitô đến trong xác thể, huống chi chúng ta đă
sống xa Người cả gần 2000 năm, chưa
hề được “nghe bằng tai, thấy bằng
mắt, sờ bằng tay” (1Jn.1:1), như các tông đồ
là chứng nhân tiên khởi của Kitô giáo chúng ta.
Bởi thế,
căn cứ vào lời Chúa Giêsu trách cứ thánh Phêrô trong
việc thánh nhân “không phán đoán theo Thiên Chúa mà chỉ theo loài
người” (Mt.16:23), tức chỉ theo phán đoán tự
nhiên của ḿnh hướng về những ǵ tốt lành
chủ quan, chứ “không chấp nhận” (Jn.1:12) mạc
khải của Thiên Chúa, một mạc khải được
trọn vẹn thể hiện nơi “Lời đă hóa thành
nhục thể” (Jn.1:14) là Đức Giêsu Kitô đă đến
trong xác thịt, chúng ta có thể kết luận để
lột trần bộ mặt phản kitô nơi chính
bản thân ḿnh cũng như trong việc giao tiếp xă
hội. Sau đây là một số dấu hiệu:
Dấu hiệu
thứ nhất:
những ai không tuân phục quyền bính Giáo Hội và Đức
Thánh Cha nói riêng, đều là phản kitô, v́ Giáo Hội là
thân thể của Chúa Kitô và vị đại diện
của Người trên trần gian là đầu của
thân thể này, không tuân phục Giáo Hội và Đức
Thánh Cha là không công nhận Đức Giêsu Kitô đă đến
trong xác thể.
Dấu hiệu
thứ hai
có thể nhận diện thành phần phản kitô là họ
không tin hay coi thường Bí Tích Thánh Thể, một
thực tại thần linh mà Đức Giêsu Kitô c̣n đang
hiện diện bằng cả thần tính cũng như
nhân tính của Người nói chung và Ḿnh Máu Thánh Người
nói riêng; không tin hay tôn sùng Thánh Thể là dấu chứng
tỏ phản kitô, thành phần không công nhận Đức
Giêsu Kitô đă đến trong xác thịt.
Dấu hiệu
thứ ba
cũng không kém phần vững chắc để nhận
ra thành phần phản kitô là họ không nhận biết
Mẹ Maria, thậm chí c̣n chỉ trích và chống đối
việc tôn sùng Mẹ, v́ như thế là họ tỏ ra
cũng không công nhận Đức Giêsu Kitô đă đến
trong xác thịt, tức đă được sinh ra bởi
Mẹ Maria.
Dấu hiệu
thứ bốn
để nhận ra thành phần phản kitô là ḷng thù
hằn thánh giá của họ, ở chỗ không phải
họ chỉ sợ hăi và tránh né thánh giá theo tính tự nhiên
như mọi con người b́nh thường, mà c̣n dùng
thủ đoạn bất chính để tiêu diệt thánh
giá nữa, bằng cách không được như ư là ly
dị, là phá thai, là giết người nhân đạo v.v.;
mà thánh giá là đường lối duy nhất Lời
nhập thể đă dùng để cứu rỗi nhân
loại, do đó, “trở thành những kẻ thù của
thánh giá Đức Kitô” (Phil.3:18) như thế tức là
không công nhận Đức Giêsu Kitô đă đến trong
xác thịt.
ĐẠO
BINH HỒN NHỎ:
TINH THẦN
VÀ ĐỜI SỐNG CÁC HỒN NHỎ
T |
óm lại,
nếu “Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn.4:24) đă “tự hư
không hóa” (Phil.2:6) nơi Đấng “tuy thân phận là Thiên
Chúa song cũng không cứ phải cho ḿnh ngang hàng với
Thiên Chúa mới được... (và) đă mặc lấy
thân phận tôi đ̣i, được sinh ra giống h́nh
ảnh con người” (Phil.2:6-7), th́ tất cả
những ǵ là kiêu căng, tự tôn, tự cao, tự đại,
tự măn v.v. đều là tinh thần phản kitô. Và
nếu “Thiên Chúa là t́nh yêu” (1Jn.4:8,16) đă “đến không
phải để được phục vụ mà là
phục vụ” (Mt.20:28), nơi Đấng “đă vâng lời
cho đến chết và chết trên thập giá” (Phil.2:8) “để
hiến ḿnh làm giá chuộc cho nhiều người”
(Mt.20:28), th́ tất cả những ǵ là nổi loạn,
chống đối, bất phục tùng, ghen ghét, đố
kỵ, khinh thường và sát hại nhau v.v. đều
là các việc làm của thành phần phản kitô. Có thể
nói thành phần phản kitô là thành phần kiêu căng
tự ái, tôn sùng ḿnh hơn kính Chúa yêu người. Do đó,
Thông Điệp T́nh Yêu Nhân Hậu (cuốn sách ghi lại
tất cả các lời Chúa Giêsu tâm sự riêng với
nữ sứ giả của Người tại Bỉ
kể từ sau Công Đồng Chung Vaticanô II) ngày 16-4-1970
mới lập lại lư do hiện hữu của Đạo
Binh Hồn Nhỏ như sau:
“Cha đến
để lay động cái ù ĺ của các dân tộc, t́nh
trạng lănh đạm nơi những người Kitô
hữu trung b́nh; và để tái sinh t́nh yêu trong những
tấm ḷng tinh tuyền. Theo t́nh thương của ḿnh, Cha
t́m ra phương thế này để cứu vớt
một số lớn những linh hồn bất định
và phản loạn, đó là thành lập một Đạo
Binh Hồn Nhỏ tinh tuyền cho phần rỗi của
những linh hồn ấy”;
“Một
Hồn Nhỏ phải là một linh hồn yêu
thương, ngoài ra không c̣n làm được ǵ khác... Cha ở
giữa các con để dạy cho các con t́nh yêu là cái duy
nhất có thể cứu thế giới” (12-6-1972).
Với mục đích
rơ ràng như thế trong việc thành lập Đạo Binh
Hồn Nhỏ, Thông Điệp T́nh Yêu Nhân Hậu đă ghi
lại lời Chúa Giêsu kêu gọi thành phần ham mộ và
muốn sống Tinh Thần Hồn Nhỏ Phúc Aâm như
sau:
“Cha
cần một số Hồn Nhỏ khiêm tốn để
chốùng lại với tính kiêu căng. Những linh
hồn yêu thương để chống lại với
t́nh trạng thiếu hụt yêu thương. Những linh
hồn quảng đại để chống lại
với ḷng ích kỷ. Các Hồn Nhỏ nguyện cầu để
chống lại với t́nh trạng thiếu nguyện
cầu. Các Hồn Nhỏ cậy trông để chống
lại với tâm trạng bi quan. Các Hồn Nhỏ tinh
tuyền để chống lại với cái ô nhơ. Các
Hồn Nhỏ chân thật để chống lại
với những gian dối và giả h́nh. Các Hồn Nhỏ
tùng phục để chống lại với việc
bất tùng phục. Các Hồn Nhỏ sốt sắng để
chống lại với t́nh trạng dửng dưng và nhát đảm.
Các Hồn Nhỏ hiến ḿnh làm vật hy sinh để
chống lại với tà thuyết”.
Đời
sống Hồn Nhỏ là một cuộc sống có tính cách
thay thế và bù đắp như Chúa Giêsu mong muốn để
“làm vật hy sinh” này được thể hiện nơi
những ǵ phản ngược lại với những
triệu chứng phản kitô, như triệu chứng
bất phục Giáo Hội, bất kính Thánh Thể và Mẹ
Maria.
Để
sống phản ngược lại với triệu chứng
bất phục Giáo Hội của thành phần phản
kitô, Thông Điệp T́nh Yêu Nhân Hậu đă lập
lại lời Chúa Giêsu kêu gọi các Hồn Nhỏ của
Người như sau:
“Hăy
dâng ngày để cầu cho Đức Giáo Hoàng cũng
như cho các ư chỉ của ngài” (5-12-1967);
“Tổ
chức Hồn Nhỏ phải được bắt
nguồn từ Ngai Ṭa Vương Quốc Kitô Giáo” (25-12-1971);
“Hôm
nay đây là thời điểm khốn khó, thời Hội
Thánh đau đớn sinh con. Tổ chức Hồn Nhỏ
của Trái Tim Thương Xót Cha sẽ làm cho việc sinh
con này mau đến” (10-2-1974).
Để
sống phản ngược lại với triệu chứng
bất kính Thánh Thể của thành phần phản kitô,
Thông Điệp T́nh Yêu Nhân Hậu ngày 17-2-1970 đă lập
lại lời Chúa Giêsu kêu nài các hồn nhỏ như sau:
“Cha
xin mỗi Hồn Nhỏ một ḷng trọng kính bao la đối
với Bí Tích T́nh Yêu bị tổn thương bởi
những xúc phạm mà Cha muốn có những người
nhiệt t́nh bảo vệ”.
Để
sống phản ngược lại với triệu chứng
bất kính Mẹ Maria của thành phần phản kitô, Thông
Điệp T́nh Yêu Nhân Hậu đă lập lại lời
Chúa Giêsu kêu gọi các hồn nhỏ của Người
như sau:
“Các
con hăy yêu mến Mẹ, hăy phó ḿnh cho Mẹ. Cha lấy làm
hài ḷng hơn biết bao khi tiếp nhận các con từ tay
của Mẹ”
(3-12-1966);
“Tất
cả các Hồn Nhỏ phải nhận Mẹ làm Mẹ và
làm Cố Vấn” (22-5-1967);
“Các
con hăy nhờ Người Mẹ của các con mà đến
với Cha”
(23-5-1967).
Để
sống phản ngược lại với triệu chứng
thù hằn muốn tiêu diệt thánh giá của thành phần
phản kitô, Thông Điệp T́nh Yêu Nhân Hậu đă
lập lại lời Chúa Giêsu kêu gọi các hồn nhỏ
của Người như sau:
“Dù
các con ở trong hay ngoài thế gian, mỗi ngày các con hăy can đảm
ôm lấy thánh giá, với ḷng nhiệt thành, với hết
tâm hồn ḿnh”
(22-5-1967);
“Là
Hồn Nhỏ tức gắn liền với thánh giá cứu
rỗi”
(16-8-1972).
Chính bởi Đời
sống Hồn Nhỏ là một cuộc sống có tính cách
thay thế và bù đắp như Chúa Giêsu mong muốn để
“làm vật hy sinh”, mà đời sống này có thể được
tóm gọn trong 6 Điều Tâm Niệm Hồn Nhỏ, theo
lời Chúa Giêsu “Cho tập đoàn Hồn Nhỏ” trong
Thông Điệp T́nh Yêu Nhân Hậu của Người ngày
9-5-1967 như sau:
1- Một chủ tể duy nhất là Thiên Chúa.
2- Một hướng đạo duy nhất là Mẹ Maria.
3- Một dụng cụ nhỏ bé là con.
4- Một đường lối duy nhất là phó thác trong
tay Cha.
5- Kẻ thù thứ nhất phải thắng là cái tôi
của ḿnh.
6- Nhân đức thứ nhất phải thực hành là
quảng đại.
Có như vậy, việc chinh phục các linh hồn sẽ được
thực hiện”.
Phải, “có
như vậy”, Đạo Binh Hồn Nhỏ mới xứng
đáng, như Chúa Giêsu khẳng định tầm quan
trọng và giá trị của nó trong Thông Điệp T́nh Yêu
Nhân Hậu ngày 25-12-1971 như sau:
“Nó là
một công cuộc được sắp xếp
tương xứng với sự cao cả của Đấng
soi động để thành lập nên nó, và là một công
cuộc mà tất cả những phong trào đang hiện
hữu khác phải hiệp nhất với”.
Và, cũng “có
như vậy”, đời sống của các Hồn
Nhỏ, khi mau mắn đáp lại lời Chúa Giêsu: “Cha kêu
gọi tất cả hăy tham gia ‘Đạo Binh Hồn
Nhỏ’” (12-3-1967), mới có thể hoàn toàn thể hiện
căn tính là chứng nhân của ḿnh, đúng như Chúa Giêsu
xác nhận trong Thông Điệp T́nh Yêu Nhân Hậu ngày
21-4-1974:
“Đạo
Binh Hồn Nhỏ có thể được sánh như
những chứng nhân tiên khởi của Chúa Kitô”.