-8-
Thánh Nữ
TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU
với Người
Công Giáo
Việt
Linh Mục
Bùi
1. Thánh Nữ Têrêsa Nhỏ,
một vị thánh rất quen thuộc của
Người Công Giáo Việt
S |
au năm 1925, hàng
Giáo Phẩm và Giáo Sĩ Việt Nam đă phát động một
phong trào sùng kính Thánh Nữ Têrêsa thành Lisieux tại khắp các
điạ phận Việt Nam, từ Nam ra Bắc một cách
rất qui mô và sâu rộng. Các ḍng tu nam nữ, các chủng
viện lớn nhỏ đều được thường
xuyên nghe giảng về đời sống và các nhân đức
của thánh nữ. Nhà thờ nào cũng trưng bày tượng
ảnh của thánh nữ. Hầu hết họ đạo
nào cũng tổ chức “Hội Khấn Bà Thánh Têrêsa”.
Việc sùng kính này
càng trở nên mănh liệt, khi thánh nữ Têrêsa được
Giáo Hội tôn phong làm “Quan Thày các xứ Truyền Giáo” với
lễ trọng bậc nhất.
Việc Giáo Hội
Việt Nam có ḷng sùng mến đặc biệt với vị
thánh nữ này phát xuất bởi mấy lư do sau đây:
1.
V́ thánh
nữ đă có một mối liên hệ đặc biệt
với Việt Nam khi ngài ngỏ ư với các bề trên trong
ḍng xin t́nh nguyện sang Việt Nam để tu tại Ḍng
Kín Hà Nội xứ Truyền Giáo.
2.
V́ các Giám
Mục Việt Nam muốn phổ biến một cách nên thánh
đơn sơ, có thể thích ứng với mọi bậc
người: “Một phương thế nên thánh tới bậc
toàn thiện mà bất cứ ở điạ vị nào, mọi
người đều có thể thực hiện được,
ở ngoài đời hay ở bậc tu tŕ”. (Diễn văn
của Đức Piô XI, 18/5/1925).
3.
V́ giáo dân
Việt Nam muốn xin thánh nữ cầu bầu cho ḿnh như
thánh nữ hứa trước khi qua đời: “Tôi sẽ
làm mưa hoa hồng ơn phúc xuống cho mọi người”.
2-
Con đường thơ ấu thiêng liêng
T |
rong khi phong hiển
thánh cho thánh nữ Têrêsa Nhỏ, Đức Piô XI đă tuyên
bố rằng, thánh nữ đă đem đến cho thế
giới “một sứ điệp mới” (Un massage nouveau)
(18/5/1925), nghĩa là một phương thế nên thánh phù hợp
với mọi người, một phương thế mà bất
luận một tín hữu nào cũng có thể thực hiện
được.
Phương pháp
này là sống đời sống Phúc Aâm hằng ngày, ở mọi
nơi và trong mọi hoàn cảnh. Chính thánh nữ đă viết:
“Chúa Kitô không đ̣i hỏi nơi chúng ta những hành vi lớn
lao cao cả. Người chỉ đ̣i hỏi nơi ta sự
tín thác toàn thân nơi Ngài” (cf. Thérèse de Lisieux, Autobiographie, B.
Fol. p. Ve). “Con đường nên thánh đây đích thực
là một con đường lớn, xuất hiện với
mọi người dưới h́nh thức một con đường
nhỏ” (Jacques Maritain: Liturgie et Comtemplation, p.77). “Con đường
thơ ấu thiêng liêng” (Voie de l’Enfance Spirituelle) của thánh
nữ Têrêsa nhỏ căn cứ ở việc mỗi tín hữu
hăy hoàn toàn Tin, Cậy, Mến Chúa, làm mọi việc v́ Chúa
theo những lời dạy của Phúc Aâm: “Dù khi ăn khi ngủ,
tôi làm mọi việc v́ ḷng mến Chúa”, hoặc câu: “Đối
với ai mến Chúa th́ mọi sự có thể trở nên tốt
lành...” (cf. Jean Guitton: l’Eglise et les laics, p.150).
Chúa Kitô đă phán:
“Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống,
không ai có thể đến với Cha Ta mà không cần Ta”
(Jo.14,6). Công Đồng Vatican II đă khuyến dụ mọi
tín hữu phải cố gắng đoạt được
sự toàn thiện bằng cách “bước đi theo dấu
chân của Chúa Kitô và sống phù hợp với h́nh ảnh của
Ngài” (Lumen Gent. no 40). Mỗi người đều nên thánh
tùy theo cá tính và khả năng của ḿnh: “Mỗi người
đều nhận lănh nơi Thiên Chúa ơn riêng của ḿnh,
người ơn này, người ơn khác” (1Cor.7,7).
Và trên mọi nẻo
đường, trong mọi hoàn cảnh, người tín hữu
muốn nên thánh sẽ suy nghĩ, phát biểu và hành động
theo ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần: “Chúa Thánh Thần sẽ
trợ giúp cho sự yếu hèn của chúng ta” (Rom.8,26), sẽ
cầu bầu cho ta (Rom.8,26), sẽ làm cho trái tim ta được
tràn đầy sự yêu thương của Ngài (Rom.5,5).
Con đường
thơ ấu thiêng liêng cũng là chân lư mà Công Đồng Vatican
II đă nhắc lại: “Với mọi tín hữu, Chúa Cha đă
sai Chúa Thánh Thần xuống để làm cho họ được
yêu mến Thiên Chúa hết ḷng, hết trí (Mc.12,30) và đồng
thời cũng yêu thương tha nhân như chính Chúa Kitô đă
yêu thương loài người (Jo.13,34)” (L.9,40).
“Sự thánh thiện
không hệ tại ở những việc phi thường,
nhưng là ở việc làm những việc tầm thường
với một tinh thần phi thường. Một người
giáo dân sống ngoài đời vốn có thể nên thánh khi họ
thi hành mọi bổn phận của họ mỗi ngày một
cách hoàn hảo theo thánh ư Chúa” (Đức Benoit XV - AAS 1920, p.
173).
Mọi giới công
giáo trên thế giới đă phải lấy làm ngạc nhiên
khi Giáo Hội tôn phong thánh nữ Têrêsa là Bổn Mạng các
xứ truyền giáo (Patronne des Missions) ngang hàng với Thánh
Francois Xavier. Ngạc nhiên v́ người ta không hiểu giá
trị của đời sống chiêm niệm và cầu
nguyện, của một đời sống ốm đau và
bệnh tật đă được tận hiến cho Chúa
để cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo.
Truyền giáo không nguyên hệ tại ở những hành động
bề ngoài, nhưng trước hết và trên hết, hệ
tại ở việc cầu nguyện.
“Chỉ những
người không đọc lịch sử Giáo Hội mới
lầm tưởng rằng những người chiêm niệm
là những người không đem lại hiệu quả.
Trái lại, do chính lời cầu nguyện mà những vị
tông đồ hăng say nhất, can đảm nhất của
Giáo Hội đă t́m lại được những nhuệ
khí truyền giáo sắc bén nhất. Và chỉ Thiên Chúa mới
biết rằng có biết bao tín hữu sống đời
cầu nguyện một cách âm thầm và vô danh ngay giữa
ḷng đời, giữa thế gian, họ không phải là tu
sĩ, nhưng đă sống chiêm niệm hơn cả những
vị khổ tu sống trong các tu viện” (cf. Henri Caffrel:
Présence à Dieu, Edit. Feu Nouveau, p. 225).
3-
Thánh nữ Têrêsa, vị Quan Thày
của
những trường hợp bất khả thắng.
“K |
hi người ta
nh́n vào đời sống thực tế của thánh nữ
Têrêsa, người ta sẽ nhận thấy rằng, thay v́
phải bó tay trước những hoàn cảnh cực kỳ
khó khăn, thánh nữ Têrêsa là một v́ thánh đă chiến
thắng những trướng hợp bất khả thắng
(Patronne des victoires impossibles), chiến thắng một cách liên
tục dưới mọi h́nh thức. Không ǵ có thể làm
cho ngài bị nản chí hay đầu hàng. Bị bao vây bởi
muôn vàn khó khăn và trắc trở dưới mọi hoàn cảnh,
thánh nữ đă t́m ra được những phương
thế hữu hiệu nhất để lướt thắng
tất cả”
(cf. André Combes:
Sainte Thérèse de l’Enfant Jésus,
Contemplation et
Apostolat, Bonnes Press, p. 229).
Và tác giả đă
nêu lên từ 30 đến 40 trường hợp bất khả
thắng trong đời sốùng thánh nữ, những khó khăn
thuộc loại thể lư hay luân lư mà thánh nữ đă chiến
thắng một cách anh hùng. Ngài đă nói lên một vài ví dụ
diển h́nh như:
·
Khi c̣n
nhỏ, thánh nữ đă bị bạo bệnh hầu như
không thể sống được, nhưng Đức Mẹ
Maria đă mỉm cười với Ngài và bệnh đó đă
tan biến liền.
·
Vào ḍng
tu lúc 15 tuổi là một điều mà cả luật Ḍng Kín,
cả luật Giáo Hội đều khước từ, nhưng
thánh nữ đă được chính thức nhập tu lúc
15 tuổi.
·
Sống
đời chiêm niệm với một bản tính ưa hoạt
động là một điều không ai có thể ngờ được,
nhưng thánh nữ đă sống đời sống đó
một cách hoàn hảo ngay từ ngày đầu khi mới
nhập ḍng...