-9-
ƯỚC
MƠ
Linh Mục
Nguyễn Trọng Tước, S.J.
N |
ơi nào có ước
mơ, nơi ấy trở thành kỳ diệu. Không có ước
mơ th́ không có đi tới, không có nẩy sinh. Người
ta có thể không thực hiện được điều
ḿnh ước mơ. Nhưng bất cứ một điều
ǵ người ta thực hiện được th́ trước
đó họ đă phải xây dựng trên ước mơ.
“Ta ước ao được ăn lễ Vượt Qua
này với các ngươi trước khi Ta chịu khổ
nạn” (Lk.22:15). Ước mơ đó đă thôi thúc Chúa lập
phép Thánh Thể để ở lại với tôi. Ước
mơ, rồi bảo ḷng ḿnh bước tới. Bởi đó,
nơi nào có ước mơ th́ có hy vọng. Nơi nào có hy
vọng th́ có khơi mầm sáng tạo.
Một ngày không
nuôi hoài băo là một ngày ủ dột, ngủ dài. Hoài băo là cánh
buồm gọi gió, đưa tôi ra khơi. Một ngày không ấp
ủ ước mơ là một ngày trống vắng, lặng
lẽ. Lư tưởng nào cũng được ôm ấp bằng
những ước mơ. Ước mơ định hướng
cho tôi đi tới. Sống không ước mơ là một
cánh bèo trôi dạt buồn tênh.
Người ta nói
tiếc thương quá khứ chứ không nói tiếc thương
tương lai. V́ tương lai chưa tới th́ làm ǵ có
phàn nàn, hối hận, thương tiếc. Cũng vậy,
người ta nói ước mơ tương lai chứ không
nói ước mơ quá khứ. V́ quá khứ đă ở sau
lưng th́ c̣n ǵ mà mơ ước. Như thế, lối đi
của ước mơ là nẻo hướng tới trước
mặt, là nh́n về tương lai. Quá khứ có thể là
sứt mẻ, nhưng tương lai th́ nguyên vẹn. Lối
đi trước mặt của đồi non là những
chùm lá dâu xanh cho tầm dệt lụa, nhả tơ. Lối
đi trước mặt của bầy sâu xấu xí là lớn
lên thành cánh bướm cho đẹp khóm hoa. Cỏ cây cũng
c̣n cần lối đi trước mặt để hướng
tới, để kiện toàn, huống ǵ con người.
Tôi cần tương lai để thăng hoa. Nẻo đi
trước mặt hàm chứa hy vọng, là nối dài những
ước mơ. V́ thế, tôi sống là tôi ước mơ.
Ước mơ.
Nơi nào có ước mơ, nơi ấy trở thành kỳ
diệu.
Trong truyện Một
Tâm Hồn, hầu như không trang nào mà Têrêsa không ước
về ước mơ yêu thương. Trong cái can đảm
chịu đau đớn trên giường bệnh, người
ta vẫn đọc thấy ước mơ được
nũng nịu với Chúa. Có nhiều tước hiệu được
xưng tụng cho Têrêsa. Giáo Hội gọi vị thánh trẻ
là nhà truyền giáo thời danh. Nhưng tôi thích gọi Têrêsa
là cô bé làm dáng, một thiếu nữ đa cảm. Cái làm dáng
của Evà nhưng rồi lại đa cảm trong duyên t́nh
thánh của Maria. Tôi muốn gọi Têrêsa là một nữ tu
suốt đời dệt mộng, và là vị thánh của ước
mơ. Têrêsa đâu có đi truyền giáo, chỉ ước
mơ thôi, và ước mơ đẹp nhất của Têrêsa
có lẽ là ước mơ về trời để làm mưa
hoa hồng xuống trần gian.
Giă từ ước
mơ mặc áo hở cánh, Têrêsa đă đốt cháy đời
ḿnh bằng những ước mơ khác. Nàng ước mơ
được làm linh mục để đi truyền giáo.
Ước mơ được tới Hà Nội và Sài G̣n
(Một Tâm Hồn trang 215). Têrêsa đă chẳng bao giờ tới
Sài G̣n được. Nhưng mỗi lần đi ngang nhà
Kín, trên con đường Cường Để rợp lá
me, tôi thấy dáng Têrêsa đang trồng những khóm hồng.
Têrêsa đă chẳng bao giờ làm linh mục, nhưng ước
mơ đă đốt cháy t́nh yêu của nàng thành muôn ngàn thánh
lễ trọng thể. Chúa Kitô là linh mục đau khổ,
vị đă chấp nhận thánh ư của Cha ḿnh. Trong ư nghĩa
ấy th́ Têrêsa đang dâng thánh lễ trên điạ cầu:
“Lạy Chúa, con không muốn nên thánh nửa vời, con chẳng
sợ như thế th́ phải chiụ đau khổ v́ Chúa
đâu... xin Chúa nhận lấy ư riêng con, bởi v́ con chọn
tất cả những sự Chúa muốn, con chọn trót ư
Chúa” (Một Tâm Hồn, trang 27).
(trích từ cuốn “Nước
Mắt và Hạnh Phúc”)