ĐỜI CẦU NGUYỆN

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

 

Chương Hai

 

DANH CHA CẢ SÁNG

 

 

Là con cái, nhất là làm một đứa con hiếu thảo, "kính mến hết ḷng" "Cha" của ḿnh, "Cha" vô cùng "tốt lành" và "trọn lành" "ở trên trời", trước hết, về mặt tiêu cực, người con sẽ không bao giờ dám làm ô Danh của Ngài, trái lại, về mặt tích cực, chúng c̣n cố gắng sống làm sao xứng danh là con cái của Ngài, để làm vinh danh Ngài. Thế nhưng:

 

- Danh Cha là ǵ? 

- "Nguyện Danh Cha cả sáng" là làm sao?

 

 

DANH CHA LÀ G̀?

 

 

"Tên Ngài  là ǵ?", Moisen đă  hỏi Thiên Chúa thay cho dân để có thể trả lời cho họ, nếu họ đặt vấn đề hiểu biết về Đấng đă sai phái ông (XAC 3:13). Và Thiên Chúa  đă mạc khải (một cách cá nhân và bằng ngôn từ, trước khi một cách công khai và bằng hành động) Thánh Danh của Ngài cho Moisen: "Ta là Ta" (XAC 3:14).

 

"Ta là Ta". Đúng thế, nếu Danh là một tên gọi được gán cho một sự vật để nói lên bản chất hay đặc tính nổi bật của sự vật ấy, chứ không phải sự vật khác, mà hễ nói đến tên của vật đó, th́ ai cũng hiểu, cũng nhận ra ngay. Đối với  Thiên Chúa, tự Ngài không có và không cần Danh. Nhưng, đối ngoại, Ngài vẫn có Danh và cần Danh để làm nguyên lư hoạt động của Ngài và, nhờ hoạt động của Ḿnh, Ngài được loài người nhận biết Ngài là ai, tức là được loài người nhận biết Danh của Ngài. Vậy, Danh của Thiên Chúa đồng nghĩa với những

Ngài muốn tỏ ra cho con  người, hơn là đồng nghĩa với những ǵ con  người nghĩ  về Ngài.  Con người  không thể  nào tự ḿnh biết Thiên Chúa, nếu Ngài không tự mạc khải Ḿnh ra cho con người. Và, con người chỉ nhận biết Thiên Chúa như Ngài là, tức biết được Danh của Ngài là  ǵ, căn cứ vào những ǵ Thiên  Chúa đă mạc khải cho họ mà thôi.

"Ta là Ta". Thật vậy, không ǵ có thể diễn tả Thiên Chúa chân thực hơn,  tuyên xưng Thiên  Chúa chính xác  hơn điều mà chính Đấng đă biết Ḿnh Ngài nên  mới tuyên bố cho  loài người biết về Ngài như  thế. Tuy nhiên, đối  với loài người có  xác thịt, hướng chiều về h́nh thức và cụ thể th́, Danh Thiên Chúa "Ta là Ta" hoàn toàn trừu  tượng như một mầu  nhiệm, cần phải được  diễn tả, được cắt nghĩa rơ ràng và thực tế hơn, họ mới có thể hiểu và chấp nhận được. Chính v́  thế, đối ngoại nói chung, Thiên  Chúa có Danh của Ngài,  "Ta là  Ta", song,  đối với  con người  là đối tượng hướng ngoại chính yếu của Ngài nói riêng, Ngài cần phải tỏ Danh Ngài ra cho họ, nói cách khác, tỏ "Ta là Ta" như thế nào ra cho họ biết. Tỏ Ḿnh ra cho  con người, tức tỏ Danh Ḿnh ra  cho con người, đó là dự định  và chương tŕnh hành động của  Thiên Chúa hướng ngoại

nói chung và trong lịch sử con người nói riêng.

 

Để làm cho con người nhận biết  Ḿnh là ai, biết Danh Ngài là ǵ, như Ngài đă  mạc khải riêng cho Moisen rằng  "Ta là Ta" để Moisen có thể  đem truyền lại  cho dân. Nhưng,  trên thực tế,  Moisen đă không hề nói lại với dân rằng  Thiên Chúa đă nói với ông như vậy, mà chỉ làm theo ư Thiên Chúa, Đấng đă chọn và sai ông đi làm việc cho Ngài  mà thôi. Chính  qua ông, Thiên  Chúa đă tỏ  Ḿnh ra cho dân, bằng cách làm những việc lạ lùng cho họ và nơi họ, đúng như lời Ngài đă hứa với tổ phụ họ là Abraham, Isaac và Giacóp, để họ tin rằng ngoài Ngài ra không c̣n Thiên Chúa nào khác, chỉ có Ngài mới là  Thiên Chúa của họ  mà thôi. Như thế,  đối với Thiên Chúa, Danh Ngài là "Ta là Ta", song, đối với tâm trí của con người nhận biết Ngài, Danh Ngài là "Thiên Chúa": "Ta là Thiên Chúa, Chúa các ngươi" (Lv  26:13). Vậy, "Ta  là Ta", khi  được tỏ ra,  được diễn giải, sẽ  là "Ta là Thiên  Chúa". "Ta là Thiên  Chúa", đó là Danh của Đấng "đă dựng nên con người theo h́nh ảnh ḿnh" (STK 1:27).

 

"Thiên Chúa nói với Moisen: ...'Ta cũng đă thiết lập giao ước của Ta với  họ (các tổ phụ  Abraham, Isaac và Giacóp),  để ban cho họ đất Canaan, đất mà  họ đă ở như những ngoại kiều.  Giờ đây, Ta đă nghe thấy tiếng than khóc của dân  Ích Diên, thành phần bị dân Ai Cập bắt làm nô  lệ, Ta nhớ lại giao ước của  Ta. Thế nên, hăy nói với dân Ích Diên rằng: Ta là Thiên Chúa, Ta sẽ cứu các ngươi khỏi phải phục dịch người Ai Cập và sẽ giải thoát các ngươi khỏi bị nô lệ họ. Ta sẽ thẳng tay và khủng bố để cứu vớt các ngươi. Ta sẽ nhận các ngươi như dân của Ta và các ngươi sẽ có  Ta như Chúa của các ngươi. Các ngươi sẽ biết rằng Ta, Thiên Chúa, là Chúa của các ngươi khi  Ta giải thoát các  ngươi khỏi nô dịch  người Ai Cập và mang các ngươi vào đất mà Ta đă hứa với Abraham, Isaac và Giacóp. Ta sẽ ban  nó cho các ngươi làm gia nghiệp, Ta, Thiên Chúa'" (XAC 6:4-8). "Thiên Chúa c̣n nói thêm với  Moisen: 'Vậy, ngươi hăy nói với dân Ích Diên: Thiên Chúa, Chúa của cha ông các ngươi, Chúa của Abraham, Chúa của Isaac, Chúa của  Giacóp, đă sai tôi đến với các người. Đấy là Danh muôn đời của Ta; đấy là Danh Hiệu của Ta cho muôn thế hệ'" (XAC 3:15).

 

"Ta là Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac,  Thiên Chúa của Giacóp" là  ǵ, nếu không phải, như chính  Ngài nói, "là Danh muôn đời của Ta, là Danh hiệu  của Ta cho muôn thế hệ". Tức, Danh của Ngài không phải chỉ mạc khải  cho dân Do Thái mà thôi, c̣n tỏ ra cho cả nhân loại nữa. "Ngài là Thiên Chúa của kẻ sống, không phải Thiên Chúa của kẻ chết" (Mt 22:32). Kẻ sống đây là ai, nếu không phải là những kẻ tin vào Ngài như Abraham, Isaac và Giacóp, và những kẻ chết đây là ai, nếu không phải ngược lại, là những kẻ

không tin  vào Ngài. Những kẻ  không tin vào Ngài,  trên thực tế, đối với họ,  không phải là không có Thiên  Chúa hay sao, dù Thiên Chúa vẫn "Ta là  Ta" và vẫn tỏ ḿnh ra cho  họ "Ta là Thiên Chúa" của họ.  Thế nhưng, dù c̣n  sống, con người không  chịu nhận biết Thiên Chúa đi nữa để được sống đời đời, sau khi chết, dù có bị hư đi, họ cũng sẽ  nhận biết Ngài là Thiên Chúa của  họ. Đó là lư do tại sao Chúa  Giêsu "một ngày kia đă nói  với một số người Sađuxê là những kẻ không tin có sự sống lại" (Mt 22:23) rằng: "Về sự kiện kẻ chết sống lại, các ngươi không từng đọc điều Thiên Chúa đă nói với các  hay sao: 'Ta là  Thiên Chúa của Abraham,  Thiên Chúa của Isaac, Thiên  Chúa của Giacóp'? Ngài  là Thiên Chúa của  kẻ sống, chứ không phải là Thiên Chúa của kẻ chết" (Mt 22:31-32).

 

Tuy nhiên, dù tin vào Thiên Chúa đi nữa, cũng không phải là  việc và con người có thể tự ḿnh làm được. Thánh danh của Ngài vô cùng cao cả, không phải ai cũng có thể tự nhiên biết được một cách dễ dàng, không cần  được Thiên Chúa tỏ ḿnh Ngài  ra cho: "Con đă tỏ Danh  Cha cho  những kẻ  Cha đă  ban cho  Con giữa  thế gian" (Gn 17:6). Để tỏ Ḿnh ra hay tỏ Danh Ngài ra cho một ai, dù người đó là Trinh Nữ Maria, Đầy Ơn Phúc, tạo vật lư tưởng nhất trần gian này đi nữa, Ngài  cũng không thực hiện chỉ v́ họ  hơn là v́ chính Ngài, v́ Thánh Danh của Ngài hay cho Thánh danh của Ngài: "Thiên Chúa đă làm cho tôi những điều trọng đại. Danh Ngài là Thánh" (Lc 1:49). Thế rồi, kể cả khi được Thiên Chúa tỏ Thánh Danh Ngài ra

cho ḿnh đi nữa, chưa chắc con người đă có thể tự ḿnh nhận biết Ngài, nếu Ngài, cũng chỉ v́ Thánh Danh ḿnh, không làm cho họ có thể chấp nhận Ngài: "Lạy Cha chí thánh, xin hăy ǵn giữ chúng v́ Danh Cha đă ban cho Con. Bao lâu Con ở với họ, Con đă ǵn giữ họ nhân Danh Cha đă ban cho Con" (Gn 17:11-12).

 

Phải, Danh Thiên  Chúa đă được tỏ cho riêng  Moisen là người được Ngài sai đến cứu dân của Ngài,  và nhờ ông cũng như qua ông, Danh Ngài được tỏ cho dân Ngài: "Ở giữa các ngươi, Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi, và  các ngươi sẽ là dân Ta"  (Lv 26:12). Thế nhưng, để Danh Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống được tỏ cho muôn thế hệ, cho cả loài  người, Danh Ngài  chỉ được ban  cho một ḿnh  Chúa Giêsu Kitô mà thôi: "Xin ǵn giữ chúng  v́ Danh Cha đă ban cho Con" (Gn 17:11), và "Con đă  ǵn giữ họ nhân Danh Cha đă  ban cho Con" (Gn 17:12). Chính Chúa  Giêsu Kitô là Con Một của  Ngài, được sinh ra bởi Ngài  và cùng bản tính  với Ngài mới biết  được Ngài một cách chân thực "Ta  là Ta", và mới có  thế gía, có uy tín  để tỏ Danh

Cha cho  con người: "Ta  nói thật với  ông, chúng ta  nói về điều chúng  ta biết,  chúng ta  làm chứng  về điều  chúng ta thấy" (Gn 3:11);  "Đấng đến  từ trời  chứng thực  điều Người  đă thấy và đă nghe" (Gn 3:31-32). V́ Danh Cha được trao cho Ḿnh, nên, mục đích và sứ mạng nhập thể và nhập thế  của Ngôi Lời là "tỏ Danh Cha cho những kẻ Cha đă trao phó cho Con giữa thế gian" (Gn 17:6). Nhưng, Chúa Giêsu đă  tỏ Danh Cha ra như  thế nào? Đó là vấn  đề "Nguyện Danh Cha cả sáng".

 

"DANH CHA CẢ SÁNG"

 

Đă có danh  th́ phải có tiếng. Nghĩa là,  phải được biết đến, mới gọi  là có  danh, bằng  không, cũng  chẳng khác  ǵ vô danh. Phần Thiên Chúa,  tự Ngài không có  Danh và không cần  Danh, nhưng, v́ hoạt động  hướng ngoại, Ngài đă  có Danh và phải  được rạng Danh, nghĩa là, phải được mọi người biết đến. "Danh Cha cả sáng" là như thế. Thật ra, dù không ai biết  đến Ngài, Ngài cũng vẫn là Thiên Chúa và tự  Ḿnh, Ngài vẫn vinh hiển, không  cần tạo vật tôn vinh chúc tụng. Nhưng, cũng chính v́ Ngài vô cùng viên măn và cả sáng,

không thể nào không  tràn ra và tỏa ra. Do đó,  cũng chính v́ "Ta là Thiên Chúa"  mà tạo vật đă được  tạo dựng. Để rồi, một  khi đă được tạo dựng v́ Danh Chúa như  thế, tạo vật cũng chỉ tồn tại nơi Ngài mà thôi. Cuộc tồn tại của  tạo vật, nhất là cuộc tồn tại đời đời của chúng, dù có được tham hưởng vinh hiển với Thiên Chúa hay không, Thiên Chúa cũng hoàn toàn  vinh Danh. Ngài vinh Danh ở chỗ đă tỏ hết Ḿnh  ra cho tạo vật và được tất cả  mọi tạo vật, dù hư đi như  Satan và bọn  ngụy thần cùng  với các linh  hồn bất hạnh,

nhận biết Ngài là "Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Ngài sai là Giêsu Kitô" (Gn 17:3).

 

Phần Chúa Giêsu, mang Danh là  Con Thiên Chúa, "Cha ở trên trời", được Cha sai xuống thế, Ngài "đă  tôn vinh Cha trên thế gian bằng cách hoàn tất công việc Cha đă  trao phó" (Gn 17:4) cho Ngài làm, trọn hảo đến  nỗi, "v́ Danh Cha đă  ban cho Con, Con đă  cẩn thận ǵn giữ họ và không một ai trong chúng bị hư đi, ngoại trừ kẻ bị hư đi để hoàn tất lời kinh thánh" (Gn 17:12). Kết qủa là "Giờ đây, họ nhận biết  rằng tất cả những ǵ Cha ban cho Con đều từ Cha mà đến...Họ biết thật rằng Con đến từ Cha, chính Cha là Đấng đă sai Con"  (Gn 17:7-8).  Được nhận  biết như  thế, "Ta  là Thiên Chúa" không "cả sáng"  hay sao? Thật ra, "Danh Cha  cả sáng" nhất không phải v́ được con người nhận biết, cho bằng được chính Con Một của Ngài đă mặc lấy nhân tính tôn vinh. Nghĩa là, trong nhân tính và qua nhân tính  của Chúa Giêsu, "Thiên Chúa là Ánh Sáng" (1Gn 1:5) đă tỏ hết vinh  hiển của Ngài ra một cách trọn  vẹn: "Ngôi Lời đă hóa thành nhục thể ở giữa chúng ta, và chúng ta đă thấy vinh hiển của Người, vinh hiển của Người Con  Duy Nhất đến từ Cha, tràn đầy ân sủng và chấn lư" (Gn 1:14).

 

Thật vậy, "Danh Cha cả sáng" nhất nơi Chúa Giêsu Kitô chẳng những ở tại việc nhập thể của Người, mà c̣n ở tại việc tử nạn của Người nữa. Bởi  thế, khi Chúa Giêsu  kêu lên cùng Thiên  Chúa: "Cha ơi, xin hăy tôn  vinh Danh Cha" (Gn 12:28), th́  "bấy giờ có tiếng từ trời vang xuống: 'Ta đă tôn vinh Danh Ta rồi, Ta sẽ tôn vinh Danh Ta nữa'" (Gn 12:28). Thiên Chúa đă chẳng tôn vinh Danh Ngài là ǵ khi sai Con  Ngài xuống thế: "Thiên Chúa đă  yêu thế gian đến nỗi đă ban Con Một Ḿnh cho thế gian" (Gn 3:16); và, Con Ngài, "Tuy

mang phận Thiên Chúa, song không tự coi ḿnh ngang hàng với Thiên Chúa. Mà Người đă hư không hoá chính ḿnh, mặc lấy thân phận  tôi đ̣i, sinh ra giống như con người" (Phil 2:6-7),  đă làm cho Thiên Chúa hết sức "cả sáng": "Này là Con Ta yêu  dấu, đẹp ḷng Ta  mọi đàng" (Mt 3:17, 17:5). Và,  Thiên Chúa cũng c̣n tôn vinh  Danh Ngài nữa khi "Ngài đă không tha cho Con Riêng của Ḿnh,  song đă trao nộp Người  v́ tất cả chúng ta" (Rm  8:32); và, Con Ngài cũng đă tự  nguyện "phó thác linh hồn trong tay Cha" (Lc 23:46): "Linh

hồn Thày giờ đây phiền năo, nhưng  biết nói sao đây, Lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ này, song cũng chỉ v́ giờ này mà Con đă đến. Cha ơi, xin hăy tôn vinh Danh  Cha" (Gn 12:27-28): "Giờ đây Con Người được  vinh hiển  và Thiên  Chúa  được  vinh hiển  nơi Người"  (Gn 13:31).

 

Phần Ngôi Cha, nếu Ngài "được tôn vinh nơi Người (Chúa Kitô), th́ ngược  lại, Ngài  sẽ tôn  vinh  Người  nơi chính  ḿnh Ngài"  (Gn 13:32). Ở chỗ, "Thiên Chúa đă tôn vinh Người và ban cho Người một Danh hiệu vượt  trên mọi danh hiệu. Để trước  Danh Giêsu, mọi gối phải qùi xuống, trên trời, dưới đất  và âm phủ, và mọi miệng lưỡi tuyên  tụng cho  vinh quang  Thiên Chúa  Cha: Chúa  Giêsu Kitô là Thiên Chúa" (Phil  2:10-11). Và, ở chỗ, "Thánh  Thần, Đấng mà Cha sẽ sai  đến nhân Danh  Ta sẽ chỉ  dẫn cho các  con mọi sự..." (Gn 14:26), "sẽ dẫn các con vào tất cả sự thật...Làm như thế, Ngài sẽ tôn vinh Ta, v́ Ngài sẽ nhận lănh từ Ta điều Ngài sẽ thông truyền cho các con" (Gn 16:13-14). Bởi thế,  con người đă được cứu độ là v́ Danh  Thiên Chúa Ba Ngôi  và do Danh Thiên  Chúa Ba Ngôi, Ngôi Cha là Thiên Chúa, Ngôi Con là  Thiên Chúa Con và Ngôi Thánh Thần cũng là Thiên Chúa: "Hăy đi tuyển mộ môn đồ khắp thế gian và rửa tội cho họ, nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần" (Mt 28:19).

 

Phần con người được rửa tội nhân Danh Ba Ngôi là Thiên Chúa chân thật duy nhất, đă được Ơn Nghĩa với Chúa, được thông phần bản tính và sự sống thần linh vô cùng toàn thiện và viên măn của Thiên Chúa. Và, trong Ơn Thánh, họ  đă được kết hợp với Chúa Kitô như cành nho  hợp với thân nho (x.Gn 15:5). Thế nhưng, dù có được kết hợp với thân nho đi nữa, nếu và chỉ nếu: "Ai ở trong Thày và Thày ở trong họ sẽ trổ sinh muôn vàn hoa trái" (Gn 15:5) mà thôi. Và, cũng chỉ trổ sinh hoa trái như thế, nhờ Chúa Kitô, trong Chúa

Kitô và với Chúa Kitô, "là Thày và là Chúa" (Gn 13:14) của ḿnh, bằng  cách thực  tế là "làm mọi  sự nhân  Danh Chúa  Giêsu" (Col 3:17), th́ những chi thể làm nên Giáo Hội, nhiệm thể của Người, mới có thể làm cho "Danh Cha cả sáng": "Cha Ta được tôn vinh trong việc trổ sinh nhiều hoa trái của các con và trong việc các con trở nên môn đệ của Thày" (Gn 15:8).

 

Vậy, cùng với  Chúa Giêsu Kitô, Con Duy Nhất  của Thiên Chúa cũng là Anh Cả của ḿnh, Đấng đă làm rạng Danh Thiên Chúa tuyệt mức và Đấng mà  nơi Người Thiên  Chúa hoàn toàn  hài ḷng, chúng  ta hăy

cầu nguyện rằng: "Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến ..."