Ư CHA THỂ
HIỆN
Có
thể nào Danh Cha cả sáng và Nước Cha trị đến
mà Ư Cha thể hiện dưới đất
cũng như trên trời không xẩy
ra?
"Ư
Cha thể hiện dưới đất cũng như trên
trời" chính là câu nguyện cuối cùng nơi phần
đầu của kinh Chúa Dạy và cũng là câu nguyện cốt
lơi, câu nguyên tâm điểm của cả kinh Chúa Dạy!
Chẳng
những phần thứ nhất của kinh Chúa dạy,
đó là Danh Cha và Nước Cha chỉ có thể cả sáng
và trị đến khiƯ Cha được thể hiện,
mà, phần thứ hai của kinh Chúa dạy, cũng thế,
hoàn toàn đặt trên nền tảng Ư Cha này.
“Xin
Cha cho chúng con lương thực hằng ngày" là ǵ, phải
chăng xin làm trọn Ư
Ngài?
Xin
Cha tha nợ là ǵ, phải chăng
xin Ngài tha cho những ǵ ḿnh đă làm phật Ư Ngài?
"Xin
chớ để chúng con sa chước cám dỗ là ǵ, nếu
không phải xin Ngài chớ để ḿnh làm trái Ư Ngài.Và,
Nhưng
cứu chúng con cho khỏi sự dữ là ǵ, nếu không phải
xin Ngài cứu ḿnh khỏi phản nghịch với Ư Ngài.
Nếu
Danh Cha là bản tính cùng với các ưu phẩm vô cùng toàn
chân, toàn thiện và toàn
mỹ
của Đấng “Ta là Ta” được tỏ ra cho tạo
vật biết Ngài là “Thiên Chúa chân thật duy nhất” (Gn
17:3) của họ, và nếu Nước Cha là nơi Ngài ngự,
là môi trường để Ngài tỏ ḿnh ra, là đối
tượng hướng đến của Ngài trong việc
tỏ ḿnh ra, th́, Ư Cha là thiên nhan chí thánh của Đấng
“Ta là Ta”, là hoạt động của Đấng “Ta, Thiên
Chúa, Chúa các ngươi”, là nguyên lư hiện hữu, là
đường lối sống động, và là vĩnh
phúc cho tất cả mọi tạo vật, nhất là cho
con người là tạo vật duy nhất “đă
được dựng nên theo h́nh ảnh Thiên Chúa” (STK 9:6;
Gia 3:9).
Nghe
thấy danh tiếng của một con người có tài, (như các đại văn hào,
các ngôi sao điện ảnh, các tài tử thể thao, các
triết gia, các khoa học gia v.v.), có quyền, (như các vị
tổng thống, các vị giáo hoàng v.v.), hoặc có đức,
(như các vị sáng lập tôn giáo, các
vị
sáng lập các hội từ thiện bác ái đang phục vụ
nhân loại trên khắp thế giới v.v.), theo tâm lư tự
nhiên, ai cũng mong có dịp gặp mặt, và khi được
thấy, nhất là được chứng kiến tận
mắt những ǵ ḿnh đă nghe thấy về họ, chẳng
những họ có tiếng mà c̣n có miếng, th́ càng cảm
thấy vinh dự và cảm mến nhân vật đó hơn
nữa.
Đó
là trường hợp của nhóm dân thành kia,
sau khi được chị đàn bà
rằng
Người này đích thực là Đấng Cứu Thế'”
(Gn 4:29-30,40-42).
Phải,
Ư
Muốn của Thiên Chúa chính là hiện thân của Danh Ngài,
là biểu hiệu bản tính toàn hảo của Ngài, là kế
hoạch để làm cho Nước Ngài trị đến,
là đường lối cứu độ thế gian.
Do
đó, Ư Thiên Chúa phải phản ảnh thần tính vô cùng
toàn thiện của “Cha trên trời là Đấng trọn
lành” (Mt 5:48), phải phản ảnh ưu phẩm vô cùng
khôn ngoan và toàn năng
của
Đấng “là Alpha và Omega, Đấng đang Có, đă Có và
sẽ đến, Đấng Toàn Năng” (KH 1:8), Đấng
mà “đường lối Ngài khôn ḍ” (Rm 11:33), Đấng
mà “không ǵ là bất khả” (Lc 1:37), trái lại, “tất cả
đều có thể” (Mt 19:26), Đấng mà mọi sự
Ngài đă định,
đă
muốn là phải thành đúng như ư nghĩ của Ngài,
Đấng mà “mọi sự do Ngài, nhờ Ngài và v́ Ngài. Cho
vinh quang Ngài muôn đời” (Rm 11:36).
Và,
những ǵ Thiên Chúa muốn và tính chất của ư muốn
Ngài được tỏ hiện tất cả nơi việc
Ngài làm. Nói cách khác, căn cứ vào việc làm của Thiên
Chúa, con người có thể biết được nội
dung của ư muốn Ngài muốn ǵ cũng như tính chất
của ư muốn Ngài như thế nào. V́ sự liên hệ mật
thiết giữa ư muốn và việc làm, mà, khi Thiên Chúa hoàn
tất công việc Ngài làm là lúc ư muốn của Ngài
được thể hiện vậy.
Thế
th́, (chúng con nguyện) Ư Cha thể hiện là ǵ, nếu không
phải “chúng con cầu mong việc Cha làm được
công thành danh toại”. Nhưng, đâu là việc làm của
Thiên
Chúa?
Hay, Thiên Chúa đă làm ǵ và làm như thế nào?
“Đây
là công việc của Thiên Chúa: Hăy tin vào Đấng Ngài
đă sai” (Gn 6:29). Phải, chính việc của Thiên Chúa là
làm cho con người tin vào Đấng Ngài đă sai.
Bởi
v́, một khi con người đă tin vào Đấng Ngài
đă sai, tức là đă tin vào chính Ngài: Ai
thấy Ta là thấy
Cha. Sao các con có thể nói: 'Hăy tỏ Cha cho chúng con'. Các con
không biết
rằng Ta ở trong Cha và Cha ở trong Ta ư?” (Gn 14:9-10).
Như thế, một khi con
người đă tin vào Chúa Kitô, Đấng Thiên Sai, tức
là con người chấp nhận Thiên Chúa Cha, Đấng
đă sai Người và đă tỏ Ḿnh ra cho con người
nơi Người và qua Người. V́ việc của
Thiên Chúa là làm cho con người tin vào Đấng Ngài sai
như thế mà ư muốn của Ngài được tỏ
ra, đối với chính Ḿnh Ngài, với Chúa
Kitô cũng như với con
người.
Đối với chính Ḿnh
Ngài, ư muốn của Thiên Chúa là: “Ngài muốn mọi người
được cứu
độ và nhận
biết chân ly. Và chân lư là thế này: Chỉ có một Thiên
Chúa và một Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài
người là Con Người Giêsu Kitô, Đấng đă
hiến ḿnh làm
gía chuộc cho tất cả” (1Tim 2:4-6).
Đối với Chúa Giêsu
Kitô, Đấng Ngài đă sai: “Ư muốn của Đấng
đă sai Ta, đó là Ta không được làm mất một
sự ǵ Ngài đă ban cho Ta; mà phải làm cho chúng sống lại
trong ngày sau hết” (Gn 6: 39).
Đối
với con người là đối tượng của
Đấng Thiên Sai và là mục tiêu tỏ ḿnh ra của Thiên
Chúa: “Ư muốn của Cha Ta, đó là ai thấy Con và tin vào
Người sẽ được sống đời đời.
Họ sẽ được Ta làm cho sống lại trong
ngày sau hết” (Gn 6:40).
Ư
của Thiên Chúa đối với chính ḿnh Ngài, theo nguyên tắc,
có được thể hiện hay không hệ tại ư muốn
của Ngài đối với Chúa Giêsu, Đấng Ngài
đă sai, và đối với con người, thành phần
được Ngài tỏ ḿnh ra cho qua Đấng Thiên Sai là
Con Riêng Duy Nhất của Ngài.
Trước
hết, "Ư Cha" đă được hoàn toàn và tuyệt
hảo “thể hiện” nơi Chúa Giêsu Kitô, Đấng Ngài
sai. Ở chỗ: “Cha Ta yêu Ta v́ điều này, đó là Ta hy
sinh mạng sống ḿnh để rồi lấy nó lại.
Không ai có thể lấy mạng sống Ta được;
Ta tự ḿnh bỏ nó đi, và Ta cũng có quyền lấy
nó lại. Đó là mệnh lệnh Ta nhận được
từ Cha Ta” (Gn 10:17-18).
"Ư
Cha thể hiện" nơi Chúa Giêsu Kitô hoàn toàn theo nội
dung những ǵ Ngài muốn, và tuyệt hảo theo cách thức
ư muốn của Ngài, đến nỗi, kết qủa là:
“Thiên Chúa đă tôn vinh Người và ban cho Người một
danh hiệu, vượt trên mọi danh hiệu” (Phil 2:9),
để rồi, “không c̣n một danh hiệu nào khác dưới
gầm trời được ban cho con người nhờ
đó chúng ta được cứu độ” (TĐCV
4:12).
Sau
nữa,"Ư Cha thể hiện" cũng được
hoàn toàn và tuyệt hảo nơi các chi thể của Chúa Giêsu,
những kẻ “v́ họ mà Con đă tự hiến để
họ được thánh hoá trong chân lư” (Gn 17:19) và “những
kẻ tin Con nhờ lời họ” (Gn 17:20).
Bằng
cách, “những kẻ Ngài đă biết trước, Ngài cũng
tiền định ên giống h́nh ảnh Con Một Ngài,
để Con làm trưởng tử của đàn em
đông đúc. Những kẻ Ngài đă tiền định
th́ Ngài cũng kêu gọi; những kẻ Ngài đă kêu gọi
th́ Ngài làm cho họ nên công chính; những kẻ Ngài làm nên
công chính, Ngài làm cho họ nên vinh quang” (Rm 8:29-30).
Và,
việc làm cho những kẻ Ngài đă biết trước
tin vào Ngài, nơi Con của Ngài, để công chính hóa họ
ngỏ hầu họ được tham hưởng và
chiêm ngưỡng vinh quang của Ngài, đó
là,
“Thiên Chúa làm cho tất cả mọi sự ḥa hợp với
nhau v́ lợi ích của những kẻ được kêu gọi
theo ư định của Ngài” (Rm 8:28), kể cả việc
“không tha cho Con Một của
Ḿnh,
nhưng đă trao nộp Người v́ tất cả chúng
ta” (Rm 8:32).
Sau
hết, "Ư Cha thể hiện" sẽ được
hoàn toàn và tuyệt hảo “dưới đất cũng
như trên trời”. Ở chỗ, Ngài sẽ “canh tân lại
tất cả” (KH 21:5).
Để
thực hiện việc canh tân này, Thiên Chúa đă chôn vùi
trong thế gian chút men thần linh của Ngài là Giáo Hội,
Nhiệm Thể Chúa Kitô, Con của Ngài. Chính nhờ chút men
mà tự bản chất có “sự sống sung măn hơn” (Gn
10:10) “như Con ở trong họ, Cha ở
trong
Con, để sự hiệp nhất của họ
được nên trọn, (nhờ đó), thế gian nhận
biết rằng Cha đă sai Con và Cha yêu họ cũng
như yêu Con” (Gn 17: 23).
Thiên
Chúa đă thể hiện ư của Ngài nơi thế gian khi
Ngài “đă yêu thế gian đến nỗi đă ban Con Một
Ngài, để ai tin Con sẽ không chết song được
sống đời đời” (Gn 3:16).
Hơn
thế nữa, Ngài c̣n “chứng tỏ t́nh yêu của Ngài
đối với chúng ta, đó là, đang khi chúng ta c̣n là những
tội nhân, (tức c̣n là những kẻ thù của Ngài, c̣n
là con cái của ma qủi, chứ không phải là bạn thân
của Ngài, được ơn nghĩa với Ngài để
xứng đáng được Ngài yêu thương, đến
nỗi), Chúa Kitô đă chết cho chúng ta” (Rm 5:8), “Đấng
vốn không biết đến tội lại trở nên tội
để trong Người chúng ta được trở
nên chính sự thiện hảo của Thiên Chúa” (2Cor 5:21).
Thậm
chí, để cứu vớt con người, để làm
cho con người nhận biết Ngài, nhất là biết
được ḷng yêu thương vô đối và nhưng
không của Ngài đối với họ, “Thiên Chúa đă dồn
tất cả vào sự cứng ḷng để có thể tỏ
ḷng yêu thương cho mọi người” (Rm 11:32).
Tuy
nhiên, ư Thiên Chúa thể hiện không phải ở tại
chính việc cứu rỗi con người, cho bằng ở
tại việc thỏa ḷng yêu thương của Ngài đối
với con người. Như thế, có nghĩa
là,
Thiên Chúa muốn yêu thương con người tùy ư của
Ngài, không ai bắt Ngài phải yêu thương con người.
Ngài yêu thương con người hoàn toàn là v́ Ngài, v́ Ngài là
T́nh
Yêu,
không thể nào không yêu theo bản tính của Ngài, thế
thôi.
Bởi
thế, một khi đă yêu, Ngài sẽ “yêu cho đến
cùng” (Gn 13:1), và, nhất là, trong khi yêu, “Thiên Chúa thương
ai th́ thương và làm ai cứng ḷng th́ làm” (Rm 9:18): “Ta sẽ
tỏ t́nh thương của Ta cho kẻ Ta tuyển chọn
và Ta sẽ thương kẻ nào tùy Ta” (Rm 9:15).
Thế
nhưng, như vậy không phải là Thiên Chúa bất công
hay xâm phạm đến tự do mà Ngài đă ban cho con
người.
Trước
hết, Thiên Chúa không bất công. Ở chỗ, “Ngài muốn
mọi người (chứ không phải một số nào
thôi) được cứu rỗi và nhận biết chân
lư” (1Tim 2:4). V́ muốn cho mọi người được
cứu rỗi, nên Ngài đă sai Con Ngài xuống thế, nhập
thể, mặc lấy nhân tính, hiện thân của chung nhân
loại, để giải cứu và thánh hóa nhân tính trong thần
tính của Ngài nơi Con Ngài. Để rồi, nhờ Chúa
Giêsu Kitô, Đấng Thiên Sai là “Ánh Sáng thế gian” (Gn 8:12),
và qua Giáo Hội, chứng nhân của Con Ngài, được
Con Ngài sai đi, như Người đă được
Ngài sai (x.Gn 17:18), đi khắp thế gian công bố tin mừng
cho hết mọi tạo vật” (Mc 16:15), mà mọi người
“sẽ được thấy ơn cứu độ của
Thiên Chúa”
(Lc
3:6).
Như
thế, Thiên Chúa đă công bằng trong việc tỏ ḿnh ra
cho tất cả mọi người, như trong trường
hợp Ngài mở tiệc cưới cho Con Ngài, đă sai
đầy tớ đi mời tất cả mọi người
đến tham dự (x.Mt 22:10), hay trường hợp Ngài
đích thân đi mời mọi người đi vào làm
vườn nho cho Ngài, từ sáng sớm cho đến chiều
muộn, với thù lao tương xứng (x.Mt 20:1-13).
Thứ
đến, Thiên Chúa không xâm phạm đến tự do mà
Ngài đă ban cho con người. Thật vậy, nhờ Chúa
Giêsu Kitô và qua Giáo Hội của Người, mọi người
đă, đang hay sẽ được thấy ơn cứu
độ của Thiên Chúa, tức được thấy
vinh hiển của Ngài
(x.Is
40:5), hay được nghe đến Danh Ngài.
Tuy
nhiên, không phải ai thấy vinh hiển của Ngài hay nghe
đến Danh Ngài đều “chấp
Nhận”
(Gn 1:12) Ngài, tác động tự do của con người
có lư trí và lương tri. Chính v́ con người có tự do
như vậy mà con người có quyền chọn lựa
lành hay dữ, tùy phán đoán và năng lực của họ.
Thế
nhưng, con người là loài “tinh thần th́ linh hoạt,
song bản chất lại yếu nhược” (Mc 14:38), nhất
là, sau khi “v́ một người mà tội lỗi cùng với
sự chết đă đột nhập thế
Gian”
(Rm 5:12), con người lại càng “yêu tối tăm hơn
ánh sáng” (Gn 3:19), khó ḷng có thể tự nhiên chấp nhận
vinh quang Thiên Chúa sáng láng như sự thật mà họ là “kẻ
làm ác vốn ghét...v́ sợ việc làm của họ bị
lộ ra” (Gn 3:20).
Bởi
đó, “nếu Cha Ta không cho phép, không ai có thể đến
cùng Ta” (Gn 6:44), Đấng Ngài sai, “làø (chính) chân lư” (Gn 14:6)
và “sinh ra cũng như đến trong thế gian để
làm chứng cho chân lư” (Gn 18:37). Như thế nghĩa là, muốn
nhận biết chân lư, chân lư được
mạc
khải nơi Chúa Giêsu Kitô, để có thể đến
cùng Cha: “Không ai có thể đến cùng Cha mà không qua Ta” (Gn
14:6), con người lại phải có ơn đặc biệt
của Thiên Chúa ban riêng cho nữa mới được.
Vâng,
chính bởi ư muốn của Thiên Chúa, ư muốn đă “tiền
định cho họ nên giống h́nh ảnh Con của Ngài”
(Rm 8:29) mà con người đă được cứu rỗi,
con người đă nghe được
tiếng
Ngài: “Lư do các ngươi không nghe được (tiếng
Ngài) là v́ các ngươi không phải bởi Ngài (Gn 8:47), và
con người đă tin vào Đấng Ngài sai: “Các
ngươi từ chối không
tin
v́ các ngươi không phải là chiên của Ta” (Gn 10:26).
Như
thế, trong việc thể hiện ư của ḿnh dưới
thế, Thiên Chúa đă chẳng làm được mọi sự
theo như thượng trí và toàn năng của Ngài một
cách toàn mỹ hay sao, như Ngài đă tiền định từ
thuở đời đời. Ư Thiên Chúa thể hiện
dưới đất như Ngài đă tiền định
từ thuở đời đời chẳng qua chỉ là
“Ư Cha thể hiện dưới đất cũng như
trên trời” mà thôi.
Thật
ra, thành ngữ “dưới đất cũng như trên trời”
ở đây, theo h́nh thức bố cục của câu
văn nói riêng và của đoạn văn nói chung, có thể
áp dụng và hiểu cho cả những ǵ đă đề
cập
đến trước đó.
Như
thành ngữ: “Chúng con nguyện” không cần phải
được lập đi lập lại ở mỗi
đầu câu, như ở một trong những câu trước
đó: “Chúng con nguyện Danh Cha cả sáng”. Nếu lập lại
như vậy, câu văn và đoạn văn sẽ trở
thành điệp ngữ và nặng nề, như sau: “Chúng
con
nguyện Danh Cha cả sáng. Chúng con nguyện Nước Cha
trị đến. Chúng con nguyện Ư Cha thể hiện
dưới đất cũng như trên trời”.
H́nh
thức của câu văn là để diễn tả nội
dung, diễn đạt ư tưởng được ẩn
dấu. Bởi đó,
qua
câu văn: “Chúng con nguyện Danh Cha cả sáng, Nước
Cha trị đến, Ư Cha thể hiện dưới đất
cũng như trên trời”, liên tục như vậy, bằng
những dấu phẩy, (chứ không
phải
bằng những dấu chấm làm dứt ư của từng
câu), mà ư tưởng của toàn câu trong phần đầu
của kinh Chúa dạy đây có một liên hệ mật thiết
với nhau, như đă được
diễn
giải. V́ ư tưởng liên hệ mật thiết của
toàn câu như vậy, h́nh thức của câu văn này cũng
không cần lập lại thành ngữ “dưới đất
cũng như trên trời” ở cuối mỗi chi tiết
trong câu, như: “Chúng con nguyện Danh Cha cả sáng dưới
đất cũng như trên trời, Nước Cha trị
đến dưới đất cũng như trên trời,
Ư Cha thể hiện dưới đất cũng như
trên trời”.
“Trên
trời” đây, theo cả chữ lẫn nghĩa, ngược
lại với “dưới đất” phải chăng Chúa
Giêsu có ư nói, có ư ám chỉ về “thần tính” của Thiên
Chúa, so với “nhân tính” của nhân loại?
*
“Danh Cha cả sáng dưới đất cũng như trên
trời” tức là, Ưu Phẩm nơi thần tính vô cùng
toàn chân, toàn thiện, toàn mỹ, toàn ái, toàn tri, toàn năng của
Ngài thế nào, Ngài cũng tỏ ra nơi nhân tính đă
được dựng nên theo h́nh ảnh Ngài như vậy,
nhân tính mà Con Ngài đă mặc lấy khi làm người, nhờ
đó, thế gian có thể tỏ tường nh́n thấy
và chiêm ngưỡng Vinh Hiển của Ngài: “Ta là Ta” “Ta,
Thiên Chúa, Chúa các ngươi”.
*
“Nước Cha trị đến dưới đất
cũng như trên trời” tức là, Sự Sống thần
linh vô cùng
viên
măn nơi thần tính Ngài thế nào, Ngài cũng muốn
thông ban tất cả cho nhân tính, nơi ngôi vị Chúa Kitô,
Con của Ngài, Ngôi Lời nhập thể và ở giữa
chúng sinh, để tất
cả
t́m được Ơn Cứu Độ của Ngài, (tức
Ơn Nghĩa với Ngài), cũng như được hiệp
nhất
và
thông hưởng Sự Sống của Ngài nơi nhân tính
Con Ngài, hầu làm nên một nhiệm thể duy nhất, một
vương quốc đời đời mà Ngài là Chúa của
họ và họ là dân của Ngài.
*
“Ư Cha thể hiện dưới đất cũng như
trên trời” tức là, T́nh Yêu vô cùng tuyệt hảo nơi
thần
tính muốn mọi người được cứu rỗi,
được tham hưởng Sự Sống thần linh
vô cùng viên măn của Ngài và chiêm ngưỡng Vinh Hiển vô
cùng cao cả của Thánh Danh Ngài thế nào, Ngài cũng thực
hiện như vậy nơi nhân tính, tức trên thế
gian, hay dưới đất, nơi mà Con Ngài đă
được sai đến để hiến mạng sống
ḿnh làm gía chuộc muôn dân, ngỏ hầu qua Người,
con người có thể đến với Thiên Chúa, Đấng
đă lôi kéo họ theo ư định của Ngài.
Nếu
“trên trời chỉ về thần tính của Thiên Chúa, th́
“Lạy Cha chúng con ở trên trời”
không
phải là “Lạy Cha là Thiên Chúa của chúng con” hay sao? Bởi
v́ thần tính là chính bản thể Thiên Chúa, biểu hiệu
Thiên Chúa.
“Chúng
con nguyện Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến,
Ư Cha thể hiện dưới
đất
cũng như trên trời” là tác động “chúng con chúc tụng,
(chứ không phải "chúng con ước nguyện",
v́ tự ḿnh, Thiên Chúa đă tự măn, không cần tạo vật
phải cầu mong sao cho Ngài được như thế;
chữ “nguyện” ở đây có ư nghĩa “nhận biết
và tuyên xưng”,
tức
ư nghĩa “chúc tụng"), Ưu Phẩm vô cùng toàn chân của
Cha, Sự Sống vô cùng toàn thiện của Cha và T́nh Yêu vô
cùng toàn mỹ của Cha “ở trên trời”, tức ở
nơi thần tính Cha, cũng hoàn toàn thể hiện nơi
nhân tính, thực tại “thuộc về hạ giới” (Gn
8:23) là dưới đất” của chúng con, con cái của
Cha, thành phần mà nhờ Thánh Sủng đă được
hiệp thông với thần tính của Cha, thực tại
“thuộc về thượng giới” (Gn 8:23) là “trên
trời”.
Như
Kinh Tin Kính Các Thánh Tông Đồ đă được công
đồng chung Công-Tăng-Ti-Nô, năm 381, diễn nghĩa
thành Kinh Tin Kính Phụng Vụ hiện hành được
Giáo Hội dùng
để
tuyên xưng trong phụng vụ thánh lễ, và cũng
được Đức Thánh Cha Phaolô Đệ Lục dẫn
giải thành kinh Tin Kính Dân Chúa để kết thúc Năm
Đức Tin, 30-6-1968, dịp kỷ
niệm
đúng 1900 năm hai Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô tử
đạo, cũng thế, phần đầu của kinh
Chúa Dạy, dựa theo những diễn nghĩa đă
được bàn giải từ đầu đến
đây, có thể đọc như sau:
“Lạy
Cha là Thiên Chúa của chúng con, chúng con chúc tụng Ưu Phẩm
vô cùng toàn chân, Sự Sống vô cùng toàn thiện, và T́nh Yêu vô
cùng toàn mỹ của Thần Tính Chúa, như Chúa đă tỏ
Ḿnh ra nơi Chúa Giêsu, Con Chúa, Chúa chúng con, Đấng đă
mặc
lấy
nhân tính của chúng con để ở giữa chúng con và
đă hiến ḿnh làm gía chuộc chúng con, như Chúa muốn,
cho vinh hiển Chúa muôn đời”.
“Xin
Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ
chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Xin
chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng
cứu chúng con cho khỏi sự dữ“.
Đây
là phần thứ hai của kinh Chúa Dạy. Tất nhiên, phần
này phải có liên hệ chặt chẽ và mạch lạc với
phần trước.
Tác
động của phần trên là “nguyện”, do con người
("chúng con") chủ động hướng về
đối tượng là Thiên Chúa ("Cha"): “Chúc tụng
Chúa”.
Tác
động của phần dưới là “xin” với Đấng
chủ động ban phát ("Cha") cho đối tượng
là chính ḿnh: “Cầu mong ḿnh”.
Nội
dung của phần trên là chân lư cầu nguyện, tức thực
tại về Thiên Chúa, như Thần Tính của Ngài ("ở
trên trời"), Ưu Phẩm của Ngài ("Danh
Cha"), Sự Sống của Ngài
("Nước
Cha"), và T́nh Yêu của Ngài ("Ư Cha").
Nội
dung của phần dưới là tinh thần cầu nguyện,
tức ư hướng cầu nguyện của con người.
Ư hướng thứ nhất đó là Xin Vâng Ư Thiên Chúa là Cha
của ḿnh ("lương thực
hằng
ngày"), ư hướng này bao gồm cả ư hướng
Thống Hối nếu không làm theo ư Cha, tức làm mất
ḷng Ngài ("tha nợ"). Ư hướng thứ hai đó
là Tín Thác cho Thánh Ư toàn
ái
của Thiên Chúa là Cha của ḿnh trong mọi sự ("chớ
để chúng con sa chước cám dỗ"), ư hướng
này bao gồm cả ư hướng Kính Sợ làm mất ḷng
Chúa khi bị Ngài thử
thách
("nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ").
Vâng,
chỉ khi nào con người được kết hợp
với Thánh Ư Thiên Chúa là Cha của ḿnh, bằng tinh thần
Xin Vâng và Tín Thác cho T́nh Yêu nhưng không, vô đối và tuyệt
đối của Ngài, con người mới hoàn toàn là Con
Cái của Ngài, mới trọn vẹn thông hiệp với Sự
Sống thần linh vô cùng viên măn của Ngài, mới xứng
đáng chiêm ngưỡng các Ưu Phẩm vô cùng vinh hiển
của Ngài, và mới nên trọn hảo trong Thần Tính vô
cùng trọn lành của Ngài.