Điều thứ nhất
Chúa Giêsu dạy xin với Cha trên trời là “cho chúng con hôm
nay lương thực hằng ngày”.
“Lương thực hằng
ngày” Chúa Giêsu dạy chúng ta xin với Chúa Cha đây là ǵ?
Phải
chăng là của ăn thức uống
hằng ngày? Bởi v́, đối với chúng ta, một khi
c̣n sống trên thế gian, “có thực mới vực
được đạo”, có ăn uống
no đủ mới có sức mà phụng sự Chúa, mà mở
mang Nước Chúa. Kinh nghiệm cho thấy, dù có của
ăn vừa đủ để sống, con người
cũng không thể nào yên trí để làm tôi kính mến Chúa
trọn vẹn được, v́
ḷng trí c̣n lo cho tương lai và
để tất cả giờ giấc vào việc sống
cái đă.
Thế nhưng, đối với
Thiên Chúa, lại khác.
Ngài dư biết chúng ta cần những ǵ
để sống. Do đó, theo
thượng trí vô cùng khôn ngoan quan pḥng của Ngài, nhất
là khi chúng ta
thật ḷng t́m Nước Ngài trước
(x.Mt
vẫn
cho mặc đẹp, mà c̣n, về tinh thần, chúng ta là con
đă biết lo cho Cha, chẳng nhẽ Cha lại vô t́nh bỏ
mặc đứa con hiếu thảo của Ngài?
Như
thế, “lương thực hằng ngày” Chúa dạy chúng ta
xin với Cha trên trời không phải chỉ là những ǵ
vật chất bề ngoài.
Phải
chăng “lương thực hằng ngày” là Ḿnh Chúa? Bởi
v́, “Thịt Ta thật là của ăn và
Máu Ta thật là của uống”
(Gn 6:55), “Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta th́ được
sống đời đời và Ta sẽ làm cho họ sống
lại trong ngày sau hết” (Gn 6:54), ngược lại, “nếu
các ngươi không ăn Thịt và uống Máu Con Người,
các ngươi sẽ không có sự sống trong ḿnh” (Gn
6:53). Đúng vậy, c̣n ǵ chính xác và thực tế hơn
Thánh Thể khi nói đến
”lương
thực hằng ngày” của những người con Thiên
Chúa, Đấng “đă yêu thế gian đến ban Con Một
Ḿnh” (Gn 3:16) cho họ.
Thế nhưng, dù Ḿnh Thánh
đă được ban cho thế gian như “Bánh của
Thiên Chúa bởi trời xuống ban sự sống cho thế
gian” (Gn 6:33), về phần con người, nếu họ
không tin tưởng, trái lại, giống như “nhiều
người trong số các môn đệ của Người
bỏ đi, không thuộc về nhóm của Người nữa”
(Gn 6:66), th́ “Bánh Hằng Sống từ trời xuống” (Gn
6:51) vô cùng cao trọng đó vĩnh viễn sẽ không phải
là “lương thực hằng ngày”
của họ.
Vả lại, không cần họ
“xin”, Chúa Giêsu cũng tự động ban ḿnh làm của
dưỡng nuôi những kẻ thuộc về Người,
như thân nho thông nhựa cho cành nho. Để rồi,
được ban
cho một
cách nhưng không như vậy, chi thể của Người
cũng không cần “xin” khi muốn ăn, mà chỉ cần
“nhận lấy mà ăn” (Mt 26:26) là đủ. Như thế,
xét cho cùng, Ḿnh Chúa cũng không phải chỉ là
“lương thực hằng ngày” Chúa Giêsu dạy chúng ta xin
với Cha trên trời ở đây.
Phải chăng
“lương thực hằng ngày” ở đây là Ơn Chúa? Bởi
v́, trong việc “tiên vàn t́m
Nước Ngài và đường
lối thiện hảo của Ngài” (Mt 6:33), con người
không thể thiếu ơn của Ngài. Nhất là trong khi bị
thử thách và “bị bắt bớ v́ sự thiện hảo”
(Mt 5:10), con người không thể nào có thể trung thành với
Ngài, có thể “bền đỗ đến cùng để
được
cứu rỗi”
(Mt 24:13), nếu thiếu ơn của Ngài: “Ngoài Ta ra, các con
không làm ǵ được” (Gn 15:5). Và, cũng chỉ kết
hợp với Ngài như cành nho, con người mới
được Thiên
Chúa “cắt tỉa cho càng
sai trái hơn” (Gn 15:2), nhờ đó “Cha Ta sẽ được
vinh hiển v́ các con sinh hoa kết qủa” (Gn 15:8).
Về vấn đề này,
là phần của Thiên Chúa, có thể nào Ngài lại không biết
rằng các con cái của Ngài cần những sự ấy:
“Cha các con biết các con cần ǵ, trước khi các con xin
Ngài” (Mt 6:8). V́ thế, không cần họ phải
xin, Ngài cũng tự động ban cho họ: “Ơn Ta
đủ cho con” (2Cor 12:9), khi Ngài muốn để cho họ
phải đương đầu với các “chước
cám
Dỗ” (Mt 6:13). Miễn là họ
có ư theo Ngài và nhất định trung thành với Ngài, họ
sẽ thấy sức mạnh thần linh của Ơn
Ngài. Như thế, “lương thực hằng ngày” Chúa dạy
chúng ta xin với Cha trên trời ở đây cũng không phải
chỉ là Ơn Chúa.
Phải chăng
“lương thực hằng ngày” là Lời Chúa? Bởi v́,
người ta sống không nguyên
bởi bánh,
song bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra (ĐNL
8:3; Mt 4:4). Thật thế, nếu không có Lời Thiên Chúa “là
thần linh và là sự sống” (Gn 6:63), lời ban sự sống
đời đời”
(Gn 6:68), dù có ăn uống đầy đủ, thậm
chí có dư tiền dư của đi nữa, con người
cũng sẽ
không làm ǵ được, trái lại, của cải sẽ
trở thành một trở ngại cho họ được
sống đời
đời nữa là đàng khác: “Lạc đà chui qua lỗ
kim c̣n dễ hơn người giầu có vào Nước
Thiên Chúa” (Mt 19:24).
Thế nhưng, dù có lời
Chúa đó, như trường hợp người thanh niên
kia vừa giầu có lại vừa
giữ đủ
các lề luật căn bản “để được
sự sống đời đời” (Mt 19:16), song, đến
khi nghe thấy Lời Chúa nói cho biết rằng: “Nếu
ngươi muốn t́m kiếm sự trọn lành, hăy đi
bán những ǵ ḿnh có, thí cho kẻ nghèo... Sau đó, trở lại
mà theo Ta” (Mt 19:21), người thanh niên đă buồn bă bỏ
đi” (Mt 19:22).
Đây cũng là phần của
Thiên Chúa. Ngài biết chúng ta cần những ǵ, cho thân xác của
chúng ta là của ăn áo mặc; cho linh hồn bất tử
của chúng ta là Ḿnh Chúa; cho ư chí yếu nhược của
chúng ta là Ơn Ngài; và cho lư trí mù tối của chúng ta là Lời
Ngài. Tất nhiên, là Đấng ngự nơi kín ẩn và thấu
suốt mọi sự (x. Mt 6:6,18), Thiên Chúa là Cha c̣n tốt
lành hơn những người cha tội lỗi bất hảo
trên đời (x. Mt 7:11) có thể nào không hiểu và cho con
cái ḿnh những ǵ chúng cần, v́ lợi ích của chúng, nhất
là đối với
những đứa
con có ư hướng tốt lành thiện hảo chỉ muốn
“tiên vàn t́m Nước Ngài và đường lối công
chính của Ngài” (Mt 6: 33). Như thế, “lương thực
hằng ngày” ở đây cũng không phải chỉ là Lời
Chúa.
Như thế, Chúa Giêsu có ư dạy
chúng ta là anh em của Người, là con cùng một Cha và là
tôi cùng một Chúa với Người (x.Gn 20:17), rằng
“Lương Thực Hằng Ngày" có thể
hiểu đó
không phải chỉ là của ăn nuôi phần xác, là Ḿnh
Thánh Chúa, là Ân Sủng Chúa hay là Lời Thần Linh.
Vậy,
"Lương Thực Hằng Ngày" Chúa Giêsu dạy
chúng ta xin "Cha ở trên trời" đây, phải
chăng, đó chính là ư muốn, là tác động của
chúng ta hướng về để tiếp xúc với
đối tượng, nhất là đối tượng
thiêng liêng có thể làm sống động phần hồn bất
tử của chúng ta đó?
Không phải hay sao, bên bờ
giếng Giacóp, sau khi người phụ nữ Samaritanô nói
chuyện với Ngài đi khỏi, bấy giờ,
được các môn đệ mời ăn: “Thưa Thày,
xin Thày dùng đi một chút” (Gn 4:31), Chúa Giêsu đă trả lời
các ông: “Thày đă có của ăn rồi mà các con không biết”
(Gn 4:32).
Thế th́, “lương
thực hằng ngày” của Chúa Giêsu mà các môn đệ không
biết đây là ǵ, nếu không phải là “làm theo ư Đấng
đă sai Thày và hoàn tất công việc Ngài trao phó, đó là của
ăn của Thày” (Gn 4:34).
Nói với các môn đệ về
lương thực của ḿnh như thế, Chúa Giêsu muốn
nhấn mạnh đến ư muốn, đến tác động
của Người hướng về “ư Đấng đă
sai Thày và công việc của Ngài”, đó là “làm theo”, là “hoàn tất”.
Đối với chúng ta là
thành phần được Chúa Giêsu dạy cầu nguyện:
“Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”,
điều ấy c̣n có nghĩa là: “Xin Cha cho chúng con biết
làm trọn Thánh Ư của Cha” như chúng con đă chúc tụng
“Ư Cha thể hiện dưới đất cũng như
trên trời” vậy.
Thế nhưng, để
có thể làm trọn Thánh Ư của Cha và chu toàn công việc của
Ngài, con người phải biết đúng Thánh Ư Ngài, chọn
đúng Thánh Ư Ngài, và làm đúng Thánh Ư Ngài.
Thiên Chúa đă tỏ cho con
người nói chung, và thành phần con cái của Ngài nói
riêng Thánh Ư của Ngài, đó là Ngài “muốn mọi người
được cứu rỗi và nhận biết chân lư”
(1Tim 2:4). Thế nhưng, chỉ có nơi Con Một của
Ngài là “Ngôi Lời đă hóa thành nhục thể” (Gn 1:14) mới
có “đầy ân sủng và chân lư” (Gn 1:14) mà thôi. Bởi thế,
Thiên Chúa “muốn mọi người được cứu
rỗi và nhận biết chân lư” chính là “muốn mọi
người
'tin vào
Đấng Ngài đă sai'" (Gn 6:29), thế thôi.
Nói cách khác, Thiên Chúa muốn
ǵ, Ngài đă tỏ ra nơi Chúa Giêsu, Con Một của Ngài,
Đấng mà Ngài đă sai xuống thế gian. Nên, cũng
có thể nói, Chúa Giêsu Kitô là Thánh ư Thiên Chúa được tỏ
cho con người. Bởi thế, đối với con
người, Chúa Giêsu chính “là Đường Lối, là Sự
Thật và là Sự Sống. Không ai đến được
với Cha mà không qua (Người)” (Gn 14:6).
Người “là Đường”
ở chỗ: “Ta là Bánh hằng sống bởi trời xuống...Ai
ăn thịt Ta và
uống Máu Ta
th́ có sự sống đời đời, và Ta sẽ làm
cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Gn 6:51,54).
Người “là Sự Thật”
ở chỗ: “Ta là Ánh Sáng thế gian. Ai theo Ta sẽ không
đi trong tối tăm, song sẽ có ánh sáng ban sự sống”
(Gn 8:12).
Người “là Sự Sống”
ở chỗ: “Ta là Sự Sống lại và là Sự Sống.
Ai tin Ta dù có chết
cũng
được sống, c̣n ai đang sống mà tin Ta sẽ
không bao giờ chết” (Gn 11:26).
Và, Người đă chứng
thực rằng Người đúng “là Đường, là
Sự Thật và là Sự Sống”
cho con
người, tức là Đấng Thiên Sai của con người,
ở chỗ: “Hiến mạng sống ḿnh làm gía chuộc
muôn dân” (1Tim 2:6), (v́ Người là Đường), “cho họ
được thánh hóa trong chân lư” (Gn 17:19), (v́ Người
là Sự Thật), và “cho chiên được sống và sống
dồi dào hơn” (Gn 10:10), (v́ Người là Sự Sống).
Chúa Giêsu là Thánh Ư của Thiên
Chúa tỏ cho con người, và, với tư cách đó,
Chúa Giêsu “là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”
của con người và cho con người, để con
người có thể “đến cùng Cha”. Và, bởi v́,
“Chúa Kitô hôm qua, hôm nay và muôn đời vẫn là một” (DT
13:8), tinh thần của Người, lời nói của
Người và việc làm của Người, tự chúng,
sẽ không bao giờ trở nên lỗi thời, không bao giờ
trở thành vô hiệu.
Bởi thế, cho đến
đời đời, muốn “đến cùng Cha”, con
người phải nh́n vào Chúa Kitô là mạc khải của
Thiên Chúa (x.1Gn 1:2), là h́nh ảnh Thiên Chúa vô h́nh (Col 1:15).
Việc Làm của Người
sẽ là Đường Lối cho họ: “Như Thày
đă làm thế nào, các con hăy làm như vậy” (Gn 13:15).
Lời Nói của Người
sẽ là Sự Thật cho họ: “Lời Cha là Sự Thật”
(Gn 17:17), những Lời
mà “Cha là
Đấng đă sai Ta truyền cho Ta phải nói những ǵ
và phải nói như thế nào” (Gn 12:49).
Tinh Thần của Người
là Sự Sống cho họ: “Con Người đến không
phải để được phục dịch, nhưng
là để phục dịch, để hiến mạng sống
ḿnh làm giá chuộc cho nhiều người” (Mt 20:28), hầu
làm trọn “ư của Đấng đă sai (Người) là
(Người) không được làm mất
sự ǵ Ngài
đă ban cho (Người)” (Gn 6:39).
Thế nhưng, Chúa Kitô là một
ngôi vị có hai bản tính Thiên Chúa và loài người, nên,
những ǵ thuộc về và tỏ ra nơi nhân tính, như
tinh thần, lời nói và việc làm của Người, thẩy
đều ở trong ảnh hưởng của Thần
Tính và được Thần Tính chi phối cũng như
huy động.
Chính Thần Linh Thiên Chúa,
Khuynh Hướng và Động Lực của Thần Tính,
là nguyên lư đệ nhất tối cao đă chi phối và
huy động nhân tính Chúa Kitô, để tinh thần, lời
nói và
việc làm của
Người có thể làm theo Ư Đấng đă sai và chu tất
công việc Ngài trao phó” (Gn 4: 34).
Thần Linh đă làm chủ
tinh thần của Chúa Kitô, ở chỗ: “Thần Linh Chúa
ngự trên tôi, nên Ngài đă xức dầu cho tôi. Ngài đă
sai tôi đi mang tin mừng cho người nghèo khó, ban bố
ân xá cho kẻ bị lưu đầy, mở mắt cho kẻ
đui mù, và phóng thích cho những tù nhân, công bố năm hồng
ân của Thiên Chúa” (Lc 4:18-19).
Thần Linh đă hướng
dẫn và huy động việc làm của Chúa Kitô, ở chỗ:
“Chúa Giêsu, đầy Thánh Linh, bỏ sông Jorđan và được
Thần Linh dẫn vào sa mạc” (Lc 4:1), hay: Theo quyền
năng của Thần Linh, Chúa Giêsu trở về Galilêa” (Lc
4:14) v.v.
Thần Linh đă chi phối
lời nói của Chúa Kito ở chỗ: Lúc bấy giờ,
Chúa Giêsu đă hứng
khởi trong
Thánh Linh và nói: 'Ôi lạy Cha là Chúa trời đất, Con
chúc tụng Cha, v́ điều Cha giấu những kẻ
khôn ngoan, thông thái, Cha lại tỏ cho những kẻ bé mọn
hay. Vâng, lạy Cha, đó là quyết ư của Cha như vậy'”
(Lc 10:21).
Do đó, “ai không có Thần
Linh của Chúa Kitô, người đó không thuộc về
Chúa Kitô” (Rm 8:9). Trái lại, “tất cả những ai
được Thần Linh Thiên Chúa dẫn dắt đều
là con cái Thiên Chúa” (Rm 8:14).
Bởi v́, một khi
được Thần Linh Thiên Chúa hướng dẫn và
huy động, con người sẽ có cùng một tinh thần,
lời nói và việc làm như Chúa Giêsu Kitô và cũng sẽ
như Người
làm đẹp
ḷng Cha mọi đàng (x.Mt 3: 17,17:5).
Bấy giờ, họ
có thể nói: “Sự sống tôi đang sống đây không
phải là tôi sống, mà là Chúa Kitô sống trong tôi” (Gal 2:20),
hay, nói cách khác, “đối với tôi, sống là Chúa Kitô”
(Phil 1:21).
“Chúa Kitô sống trong tôi” hay
“sống là Chúa Kitô” là do Thần Linh của Người
trong chúng ta: “Ta sẽ xin Cha và Ngài sẽ
ban cho các con một Đấng An Ủi khác để ở
cùng các con luôn măi. Thần Chân Lư mà thế gian không không thể
chấp nhận Ngài, v́ họ
không thấy
cũng như không biết Ngài, song các con biết Ngài, v́ Ngài
ở với các con và ở trong các con. Thày không để
các con mồ côi; Thày sẽ trở lại với các con. Một
ít lâu
nữa thế
gian sẽ chẳng c̣n xem thấy Thày, song các con vẫn thấy
Thày, v́ Thày sống, các con cũng sẽ sống” (Gn
14:16-17,19).
Trên thực tế, Thần
Linh Thiên Chúa đă hướng dẫn và huy động Chúa
Kitô là để Người
có thể
hoàn toàn “sống động v́ Chúa và cho tha nhân”.
Cuộc đời trần
gian của Chúa Kitô là ǵ, nếu không phải là để làm
theo ư Đấng đă sai Người, tức là Người
chỉ sống “v́ Chúa”, Cha của Người. Mà, ư của
Đấng đă sai Người là ǵ, nếu không phải
là muốn Người “không được làm hư một
sự ǵ”, tức là muốn Người phải “hy sinh mạng
sống ḿnh đi” (Gn 10:17-18), nghĩa là muốn Người
sống “cho tha nhân”.
Bởi thế, ai có Thần
Linh Thiên Chúa cũng là Thần Linh của Chúa Kitô, th́ sẽ
sống trước hết cho Chúa và tha nhân, tức là hoàn
toàn bỏ sự sống ḿnh v́ Chúa (x.Mt 16:25), (bằng không,
sẽ không thể nào “v́ Chúa” và “cho tha nhân” được cả).
Tức là, một việc
làm trong Thần Linh và bởi Thần Linh Thiên Chúa phải là
một việc:bỏ bản thân, v́ Thiên Chúa và cho tha nhân. Do
đó, một việc hoàn hảo nên có đủ
ba chiều
này. Chỉ nhắm vào một chiều, việc làm của
con người có thể chưa được coi là thiện
hảo.
Chẳng hạn những
trường hợp điển h́nh sau đây:
Trường hợp không bỏ
ḿnh và không cho tha nhân mà chỉ v́ Chúa.
Đó là trường hợp
của thánh Phêrô, sau khi nghe Chúa Kitô lần đầu tiên tiết
lộ cho biết về cuộc tử nạn của
Người, v́ ḷng yêu Thày, (phải hiểu, trong đó có cả
ḷng yêu ḿnh, v́ không muốn mất Thày) “đă kéo Người
ra một bên và can gián Người rằng: 'Làm sao
lại có thể
như vậy được, thưa Thày! Thiên Chúa lỡ
nào lại làm như vậy cho Thày ư!’” (Mt 16:22).
V́ thế, hậu quả là,
thánh Phêrô đă bị chính Đấng mà ngài yêu kính (nên ngài
đă chân thành và mạnh dạn can gián Người) quở
trách thậm tệ: “Satan, hăy xéo đi! Ngươi chỉ
làm cớ cho Ta vấp phạm. Ngươi chẳng biết
phán đoán theo Thiên Chúa ǵ cả, mà chỉ rặt theo loài
người thôi” (Mt 16:23).
Trường hợp cho tha
nhân mà lại không bỏ ḿnh và không v́ Chúa.
Đó là trường hợp
của Caipha, trước nỗi lo sợ của cả hội
đồng giáo quyền Do Thái: “Chúng ta phải làm ǵ với
con người làm đủ mọi sự lạ này
đây? Nếu chúng ta cứ để như vậy, cả
thế gian sẽ đổ xô vào tin hắn mất. Chẳng
những thế, người Roma sẽ phá
hủy nơi
thánh và dân tộc của chúng ta nữa ḱa” (Gn 11:47-48), đă
phát biểu bằng một phán quyết tối hậu: “Qúi
vị không biết ǵ cả! Quí vị không thể nghĩ rằng
thà một người
chết thay cho
toàn dân hay sao?” (Gn 11:49-50).
Dựa vào phán quyết quả
thực khôn ngoan đối với thành phần vốn “ghen
ghét Người” (Mt 27:18) đó, hậu quả
đương nhiên xẩy ra là: “Kể từ ngày đó trở
đi, họ đă hoạch định trừ diệt
Người” (Mt 11:53).
Tóm lại, dấu hiệu
chứng thực một việc làm hoàn toàn bỏ bản
thân, v́ Thiên Chúa và cho tha nhân, tức được Thần
Linh Thiên Chúa làm chủ, hướng dẫn và huy động,
đó là:
“không thể bị hủy diệt” (TĐCV 5:39).
Chính v́ thế, dù bị bắt
bớ và cấm cách, thế gian vẫn không làm ǵ được
trước các chứng nhân đích thực và sống động
của Thiên Chúa là các tông đồ "đầy Thánh
Linh" (TĐCV 2:4,4:31): “Quí ngài thử nghĩ xem, chúng tôi
nên nghe lời qúi ngài hơn hay nghe lời Thiên Chúa hơn. Chắc
chắn chúng tôi không thể nào không loan báo điều chúng
tôi đă
nghe và đă thấy” (TĐCV
4:19-20). Trái lại, c̣n hơn thế nữa, “họ tràn
đầy Thánh Linh và tin tưởng tiếp tục rao giảng
Lời Thiên Chúa” (TĐCV 4:31), đến nỗi, “các tông
đồ
tràn
đầy vui sướng khi các ngài xứng đáng chịu
bạc đăi v́ tôn Danh (Thày)” (TĐCV 5:41).
Như
vậy,
“Chu
toàn ư Đấng đă sai và chu tất công việc của
Ngài trao” là “lương thực hằng ngày” của Chúa Giêsu
cũng như của các tông đồ và của mọi chi
thể thuộc nhiệm thể Giáo Hội của Người
là như thế:
“Chúng
con nguyện Ư Cha thể hiện dưới đất cũng
như trên trời”