Kinh
Chúa Dạy phần thứ hai được chia làm hai
đoạn, cách nhau bằng một dấu chấm câu.
Đoạn thứ nhất trong hai đoạn của phần
thứ hai này gồm có hai chi tiết, liên lạc ư tứ với
nhau một cách chặt chẽ, bằng một dấu phẩy
kèm thêm chữ “và” để nối kết chúng lại với
nhau trong cùng một câu văn, diễn tả cùng một ư mà
có hai tứ.
Tuy
chữ “va” đă làm cho hai mệnh đề đứng
trước và sau nó thành hai mệnh đề độc lập,
không lệ thuộc vào nhau, nhưng, v́ chỉ là một câu
văn, nghĩa là v́ chỉ diễn tả cùng một ư
tưởng, nên, trong câu văn có hai mệnh đề
độc lập này, về ư tứ, phải có chính, có phụ.
Xét về mạch văn, mệnh đề đứng
trước trong câu văn này là chính và mệnh đề
theo sau là phụ.
Thật
vậy, nếu “xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực
hằng ngày”, như đă được diễn giải,
có thể nguyện khác đi là “xin Cha cho chúng con hôm nay làm trọn
ư Cha và hoàn tất công việc Cha trao phó”, th́, “và tha nợ
chúng con” không phải là “và xin Cha cũng tha lỗi cho chúng
con đă không làm trọn ư Cha và hoàn tất công việc Cha
trao phó” hay sao?
Phải,
“tha nợ” ở đây chính là “tha tội” vậy.
Bởi
v́, tội lỗi là ǵ, nếu không phải là điều
làm mất ḷng Chúa, và, phạm tội là ǵ, nếu không phải
là làm điều làm mất ḷng Chúa. Mà, điều làm mất
ḷng Chúa đây không phải là điều con người, v́
đam mê, tự ái cùng ư riêng của ḿnh, đă bất tuân ư
Chúa, hoặc đă làm trái ư Ngài, hay thậm chí đă phản
lại ư Ngài là ǵ?
Sở
dĩ, đối với thành phần có tư cách để
đọc kinh Chúa Dạy này, tội lỗi là một món “nợ”
họ
mắc với Thiên Chúa là v́, Thiên Chúa là Cha của họ, là
Đấng yêu họ trước (x.1Gn 4:19), là Đấng
yêu họ đang khi họ c̣n là một tội nhân (x.Rm 5:8),
là Đấng không tha cho Con Một Ḿnh v́ họ (x.Rm 8:32).
Thế
nên, theo nguyên tắc, họ đă nợ t́nh với Thiên Chúa
là Cha của họ rồi. Đằng này, nếu họ
không sống xứng đáng với những ǵ họ đă
được một cách nhưng không, nghĩa là không sống
xứng đáng với t́nh yêu Thiên Chúa, th́ không phải là họ
càng nợ Đấng đă cho họ mượn hay sao? Nếu
tính sổ lại, họ không phải là tên đầy tớ
mắc nợ chủ nhân ông là vua của ḿnh một món nợ
khổng lồ không thể nào trả nổi ư. Đến
nỗi, cả con người họ, tức linh hồn, vợ
hay chồng của họ, tức thân xác, con cái họ, tức
tài năng, và của cải họ, tức công nghiệp, phải
chịu khốn khó, tức bị đem bán đi, mới
có thể đền bù
một
phần nào món nợ họ mắc nợ với chủ của
ḿnh (x.Mt 18:23-25).
Phần
con người, khi bị gọi đến tính sổ với
chủ nợ của ḿnh, sẽ thấy rằng ḿnh thật
sự mắc nợ với chủ qúa nhiều. Họ mắc
nợ chủ ở chỗ chính họ đă tự động
đến xin Ngài ban cho họ điều họ muốn, rồi
sau đó v́ không biết sử dụng đă làm hao phí đi.
Đó
là trường hợp của người con hoang đàng:
“Thưa cha, xin chia cho con phần gia nghiệp thuộc về
con” (Lc 15:12). Căn cứ vào ư muốn đó, “người
cha đă phân chia của cải ra (cho nó)” (Lc 15:12). Điều
này, trên thực tế, xẩy ra khi con người
được chịu
phép
rửa tội. Tự bản tính và theo ư muốn cứu
độ con người, Thiên Chúa thật là Cha của con
người, dù con người c̣n ở trong t́nh trạng
chưa chính thức được cứu rỗi bằng
Ơn Thánh của Ngài.
Tuy
con người, qua Adong, đă mất ơn nghĩa với
Ngài, song không phải v́ thế mà Ngài không thương họ
nữa, trái lại, “Thiên Chúa (c̣n) yêu thế gian đến
nỗi đă ban Con Một Ḿnh” (Gn 3:16), chính v́ thế, “khi
chúng ta c̣n bất lực, vào thời gian ấn định,
Chúa Kitô đă chết cho chúng ta là những kẻ vô thần”
(Rm 5:6) .
Bởi
đó, theo t́nh, con người vẫn là con cái của Ngài,
và, bởi đó, mới có đủ tư cách đến
để xin Ngài chia gia tài cho ḿnh là sự sống đời
đời mà Ngài đă ban cho họ qua Con Một của
Ngài, “Đấng đă hiến mạng sống ḿnh làm giá
chuộc mọi người” (1Tim 2:6).
Theo
đó, Giáo Hội không thể nào ban bí tích rửa tội cho
ai, tức ban sự sống đời đời cho
người nào, nếu họ không hoàn toàn tự do tỏ ư
muốn được “phân chia phần gia nghiệp thuộc
về họ”, phần gia nghiệp mà “tất cả của
cha cũng là của con” (Lc 15:31). Như thế, khi không sống
xứng đáng với những ǵ được chia ban cho
ḿnh, theo ư muốn của ḿnh, th́, theo lư, không phải là con
người đă mắc “nợ” với Thiên Chúa là Cha của
ḿnh hay sao?
Vậy,
cả t́nh, về phương diện Thiên Chúa đă tỏ
ḷng yêu chúng ta trước, và lư, về phương diện
chúng ta cũng tỏ ư chấp nhận t́nh yêu của Ngài
sau, để có thể trở nên con cái của Ngài: “Ai chấp
nhận Người, Người ban cho họ quyền làm
con cái Thiên Chúa” (Gn 1: 12), chúng ta, thành phần chính thức
để đọc kinh Chúa Dạy, không thể chối
căi được rằng chúng ta đă mắc “nợ” với
“Cha ở trên trời” của chúng ta nhiều lắm, to lắm,
không ǵ có thể đền trả cho cân xứng, ngoài việc
làm theo ư của Ngài và chu tất mọi
công
việc Ngài trao, như “lương thực hằng ngày” của
ḿnh.
Bằng
không, không làm theo ư Ngài và chu tất mọi công việc Ngài
trao, như nén bạc c̣n nguyên, dù không bị mất v́ vô ư
đánh rơi hay đầu tư bị thua lỗ vẫn
bị Ngài trừng phạt như thường (x.Mt
25:25-30).
Không
làm theo ư Ngài, không chu tất công việc của Ngài trao cho
c̣n bị Ngài
trừng
phạt như thế, v́, đối với Ngài, không có
lưng chừng, không có nửa vời, “ai không hợp với
Ta là chống lại Ta, ai không thu góp với Ta là phá đám”
(Mt 12:30) thế thôi, huống chi những kẻ chẳng những
không hợp với Ngài th́ chớ, lại c̣n tỏ ra chống
lại Ngài, bằng cách làm mất đi cả những ǵ
Ngài đă ban cho họ v́ họ đến xin Ngài. Điển
h́nh là trường hợp của người con hoang
đàng, người con mà “mấy ngày sau đă
thu
quén tất cả những ǵ thuộc về nó và trẩy
đi phương xa, ở đó, nó phung phá gia tài của
ḿnh vào cuộc sống trác táng trụy lạc” (Lc 5:13).
Thực
ra, Thiên Chúa là Cha “thương xót” (Lc 6:36) của chúng ta
đă chính thức “tha nợ” cho chúng ta là con cái của Ngài
nơi Con Một của Ngài, “Đấng đă không hề
biết đến tội lỗi đă trở thành tội
lỗi v́ chúng ta” (2Cor 5:21). Và, chỉ có Người, Đấng
đẹp ḷng Cha mọi đàng mới có đủ tư
cách và công nghiệp để đền bù lại số nợ
khổng lồ tự
chúng
ta không thể nào trả nổi.
Giang
tay trên thập giá, Chúa Giêsu, hơn lúc nào hết, thay cho chúng
ta, những kẻ sẽ được tái sinh bởi
Người trong Ơn Nghĩa Chúa, kêu lên với Chúa Cha rằng:
“Xin Cha tha nợ chúng con”. “Chúng con” đây bao gồm cả
Chúa Giêsu vô tội nhưng v́ chúng ta đă trở nên tội
lỗi để có thể “chết cho tội lỗi của
chúng ta” (1Cor 15:3).
Như
thế là, chẳng những chúng ta đă nợ t́nh với
Thiên Chúa là Cha, “Đấng đă yêu chúng ta trước”,
chúng ta c̣n nợ nghĩa với Con của Ngài cũng là
Thiên Chúa của chúng ta nữa, Đấng đă chuộc
chúng ta “bằng một giá cao” (1Cor 6:20,7:23).
Về
việc trả nợ cho Ngài, hơn ai hết, Thiên Chúa
đă biết chúng ta không thể nào trả nổi, Ngài vẫn
sẵn sàng tha thứ cho chúng ta một cách nhưng không mỗi
lần chúng ta thành tâm hối lỗi xin Ngài thứ tha (x.Mt
18:26-27).
Tuy
nhiên, dù Thiên Chúa không kể đó là “nợ” cho chúng ta mượn
và đ̣i chúng ta phải trả, về phía chúng ta là “những
đứa con được thừa nhận” (Gal 4:5) cũng
cảm thấy đó là “ơn” phải đền. Nếu
chúng ta làm theo ư Ngài và chu tất công việc Ngài trao cho là
chúng ta đền ơn Ngài, bằng không, tất cả những
ơn đó liền trở thành nợ mà chúng ta phải trả
lại Ngài một cách công bằng.
Trên
thực tế, dù đă được Ơn Nghĩa với
Chúa, một khi c̣n sống trong “thân xác chết chóc này” (Rm
7:24), “chúng ta chứa đựng kho tàng (Ơn Nghĩa) này
trong một b́nh sành” (2Cor 4:7) dễ vỡ là thân xác với
“bản chất yếu nhược” (Mc 14:38) của chúng
ta. Do đó, không thể nào chúng ta tránh được việc
làm mất ḷng Thiên Chúa, tức làm hao
hụt
đi kho tàng Ơn Thánh của chúng ta bằng những vết
nứt ở b́nh sành thân xác, tượng trưng cho tội
nhẹ, thậm chí, c̣n có thể làm vỡ toang chiếc b́nh
thân xác bằng những
tội
trọng của chúng ta, làm tan hoang cả kho tàng Ơn Thánh
vô cùng qúi gía và qúi trọng mà Thiên Chúa đă ban cho chúng ta.
Chính
v́ biết được chúng ta như thế, Thiên Chúa là
Cha của chúng ta vẫn luôn sẵn sàng tha thứ cho chúng
ta, như thái độ của người cha đối với
đứa con bỏ nhà ra đi phung phí hết gia tài ông
đă chia cho nó theo như ư muốn của nó: “Đang khi hắn
c̣n ở đằng xa, vừa trông thấy hắn, hết
sức xúc động, ông đă vội chạy tới gặp
hắn, ôm chầm lấy cổ hắn mà hôn” (Lc 15:20). Miễn
là, sau khi phạm tội, nặng nợ với Ngài, chúng ta
biết ḿnh,
hối
lỗi và trở về với Ngài, như trường hợp
của người con phung phá: “Con đă lỗi phạm
đến Trời và đến cha; con không đáng gọi
là con Cha nữa” (Lc 15:21).
Đối
với Thiên Chúa là Cha trọn lành của chúng ta ở trên trời
th́ như thế, dù chúng ta có tội lỗi đầy trời
ngập đất đi nữa, cũng không thể nào
vượt được ḷng yêu thương vô cùng bất
tận, bất biến và bất diệt của Ngài. Chỉ
cần chúng ta biết ḿnh tự hạ trước nhan
Thiên Chúa như người thu thuế cúi mặt và đấm
ngực: “Ôi Thiên Chúa, xin thương đến
con
là kẻ tội lỗi” (Lc 18:13), th́ sẽ được
thứ tha, “được công chính hóa” (Lc 18:14).
Dù
chúng ta có được Thiên Chúa hay tha thứ tội lỗi,
nhưng, nếu chúng ta không thực sự biết ḿnh và
không thực t́nh thống hối tội lỗi của chúng
ta, chỉ lợi dụng ḷng thương xót của Chúa,
chúng ta sẽ không thể nào giấu được Ngài và
giấu được thiên hạ.
Trường
hợp của người đầy tớ thanh toán nợ
nần với chủ vương của ḿnh th́ rơ. Trong khi
chủ vương của anh ta tha hết nợ cho anh ta, th́
anh ta lại không chịu tha nợ cho bạn
bè
của ḿnh, dù số nợ của bạn bè đối với
anh ta chẳng đáng là bao nhiêu, so với số nợ anh
ta phải trả cho chủ vương của anh ta mà lại
được chủ vương thương t́nh tha cho
(x.Mt 18:24-30).
Phải
chăng, hắn muốn đ̣i nợ người để
trả nợ chủ của hắn? Thế nhưng, hắn
không hiểu chủ hắn nhân từ là chừng nào, mặc
dù hắn không xin chủ tha nợ không thể trả
được của hắn, chỉ khất thôi, tự
chủ hắn cũng vốn đă có ư tha hết nợ cho
hắn rồi: “Động ḷng thương, chủ liền
thả hắn về và tha hết nợ cho hắn” (Mt
18:27). Được chủ đối xử
nhân
từ như vậy, (không phải là hắn không biết
điều đó), song, chỉ v́ ḷng tham lam vị kỷ của
hắn, chứ không phải để lấy nợ trả
nợ, (hắn c̣n nợ chủ hắn nữa đâu mà sợ),
hắn đă đối xử với con nợ của hắn
qúa ư là bất nhân và tàn nhẫn, không giống như chủ
hắn đă đối xử với hắn một tí nào.
Do
đó, thật là công bằng khi chủ hắn, v́ biết
được thái độ chấp nhất và hành động
bủn xỉn của hắn như vậy, đă bắt hắn
phải trả cho bằng hết số nợ với ông
(x.Mt 18:32- 34). “Cha Ta trên trời sẽ đối xử với
các ngươi y hệt như vậy, trừ phi các
ngươi thật ḷng tha thứ cho anh em ḿnh” (Mt 18:35).
Đó
là:
Xin
“tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ
chúng con”.
Thế
nhưng, lư do và động lực thúc đẩy chúng ta tha
cho kẻ mắc nợ chúng ta không phải là v́ để
được Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta, mà là v́ đă
được Thiên Chúa thứ tha cho chúng ta rồi, nên chúng
ta cũng phải thứ tha cho người mắc nợ
chúng ta.
Nếu
v́ để được Thiên Chúa tha nợ cho ḿnh mà ḿnh
tha nợ cho kẻ khác th́ chỉ là trả lẽ công bằng
với Thiên Chúa mà thôi. Bởi v́, nếu chúng ta cảm thấy
chúng ta không
mắc
nợ ǵ với Chúa, chúng ta sẽ không c̣n tha nợ cho kẻ
khác nữa, khi kẻ khác mắc nợ của chúng ta.
C̣n,
nếu chúng ta tha nợ cho kẻ khác chỉ v́ đă
được Thiên Chúa thứ tha cho ḿnh th́ mới là
đáp lại t́nh yêu của Ngài, nhờ đó, mới làm
Ngài hoàn toàn măn nguyện. Bởi v́, lúc ấy, lúc chúng ta tha nợ
cho kẻ khác như đă được Thiên Chúa thứ
tha cho chúng ta là lúc chúng ta để cho ḷng thương xót của
Ngài tuôn chảy sang kẻ khác qua chúng ta; bằng không, ḷng
thương yêu vô bờ bến của Ngài sẽ bị chặn
đứng lại nơi chúng ta. Như thế, vô t́nh hay cố
ư, chúng ta đă làm trái với bản tính vô cùng trọn lành của
Ngài, tức là chúng ta đă xúc phạm đến Thần
Tính Ngài, làm tổn thương đến Danh Thánh Ngài và
tổn
hại đến Nước của Ngài.
Một
khi chúng ta để cho t́nh yêu thương vô cùng bất tận
của Thiên Chúa tuôn chảy từ chúng ta đến các linh
hồn, nhất là các linh hồn mắc nợ chúng ta, th́
chúng ta không thể nào không tha thứ cho họ, bất kể
họ là ai, bất kể họ nợ chúng ta bao nhiêu, bất
kể họ có tỏ ư xin chúng ta tha nợ cho họ hay
không, nhất là bất kể họ cố t́nh chứ không
phải
vô
ư làm tổn hại đến chúng ta cách nào.
Bất
kể kẻ mắc nợ chúng ta là ai, v́ Thiên Chúa đă tha
thứ cho chúng ta, chúng ta cũng phải thứ tha cho họ.
Bởi đó, Chúa Giêsu đă dạy chúng ta: “Và tha nợ
chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”, chứ
Chúa không dạy chúng ta chỉ nguyện “như chúng con cũng
tha” cho nhau, (tức cho anh chị em trong gia đ́nh nhiệm
thể Giáo Hội của ḿnh cũng là con cái của Cha trên
trời với ḿnh) mà thôi.
Bất
kể kẻ mắc nợ chúng ta bao nhiêu, v́ Thiên Chúa đă
tha thứ cho chúng ta số nợ chúng ta “không thể nào trả
nổi”, chúng ta cũng phải tha cho họ “chẳng những
bảy
lần
mà là bảy mươi lần bảy lần” (Mt 18:22), nghĩa
là luôn luôn tha thứ, không bao giờ chấp nhất, không
bao giờ giới hạn, không bao giờ tính toán, như
Thiên Chúa đă thứ tha cho chúng ta.
Bất
kể kẻ mắc nợ chúng ta có tỏ ư xin chúng ta tha nợ
cho họ hay không, v́ Thiên Chúa đă tự ư yêu thương
chúng ta, chết cho chúng ta khi chúng ta c̣n là những tội
nhân thù nghịch với Ngài, chúng ta cũng phải tự
động tha cho họ như không có ǵ xẩy ra: “khi thấy
anh em ngươi có ǵ với ngươi (chứ không phải
ngươi có ǵ với họ) ... hăy đi làm ḥa với (họ)
trước đă, rồi hăy đến mà dâng lễ vật
của ḿnh” (Mt 5:23-24).
Bất
kể kẻ mắc nợ chúng ta có cố t́nh xúc phạm
hay làm hại đến chúng ta, v́ Thiên Chúa đă tha cho chúng
ta tất cả mọi tội lỗi, dù vô t́nh hay cố ư
mà chúng ta phạm
thượng
đến Ngài, chúng ta cũng phải thứ tha cho họ
như vậy: “Đừng chống cự lại kẻ
gian ác. Khi người ta vả má bên phải ngươi,
hăy ch́a cho họ cả má bên trái nữa. Nếu
có
ai muốn lột áo ngươi, hăy cởi cả áo khoác
ngoài cho họ. Nếu ai bắt ngươi đi một dặm,
hăy đi với họ hai dặm. Cứ cho kẻ xin
ngươi. Đừng chối từ kẻ muốn vay nợ
ngươi” (Mt 5:39-42).
“Và
tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ
chúng con” là như thế!