Trước
hết, “sự dữ” mà Chúa Giêsu có ư dậy anh em của
Người xin với Cha trên
trời
ở chi tiết cuối cùng trong kinh Lạy Cha này không phải
chỉ là “sự dữ” về thể lư nói riêng hay về tự
nhiên nói chung, tức những đau khổ nơi phần
xác con người hay những đau khổ nơi tâm thần
của họ, hoặc cả hai.
Những
“sự dữ” thuộc về phương diện thể
lư và tự nhiên này, đối với con người là
loài
sinh linh vật có khả năng và ước vọng hướng
về Chân, Thiện, Mỹ, th́ đúng là đau khổ cho họ
là loài mà bản tính đă bị hư đi v́ nguyên tội.
Tất nhiên, trước khi con người sa ngă nơi hai
nguyên tổ, mặc dù ngay lúc bấy giờ đă có "thử
thách", song con người đang có Ơn Nghĩa với
Chúa sống động và chiến đấu một cách tự
do, không có ǵ là đau khổ cả.
Có
thể nói, ngay từ đầu, con người đă vác
thập giá khi chịu thử thách và chiến đấu
để có thể trung thành với Thiên Chúa, Đấng tạo
dựng nên ḿnh theo h́nh ảnh của Ngài. Thế nhưng,
con người chỉ cảm thấy “đau khổ” khi họ
không thể vác “thập giá” và bị “thập giá” đè lên.
Từ đó, cả “thập giá” lẫn “đau khổ”
đă bị con người tự nhiên nguyền
rủa
và cố gắng xa tránh bao nhiêu có thể. Đến nỗi,
khi giờ tối tăm của họ đến (x.Lc
Thế
nhưng, đối với Thiên Chúa, “thập giá” vẫn
không phải là một “sự dư”, trái
lại,
nó c̣n là đường lối và biểu hiệu tốt
lành để Ngài có thể thông ân sủng và chân lư
của Ngài cho con người.
Do đó, "thập giá" đă trở thành "Thánh
Giá".
Phần con người, nếu
ngay từ ban đầu họ biết bỏ ḿnh đi,
không theo ư riêng của ḿnh trong việc ăn trái cấm, th́
họ đâu có bị “đau khổ” khi thảm bại
trước thử thách làm nên "thập giá" trái với
ư muốn của họ, trái lại, họ c̣n được
sống đời đời nữa là đàng khác. Bởi
vậy, tội lỗi của con người mới là
nguyên nhân sinh ra “đau khổ” và mới làm cho con người
“đau khổ”, chứ không phải “thập giá”, nơi
sinh ra sự sống và làm cho con người được
ân phúc.
Mặc dầu "thập
giá" bị con người tự nhiên đă hư đi
v́ nguyên tội chống đối như kẻ thù của
ḿnh (x.Phil 3:18) và t́m hết cách xa lánh cũng như trút bỏ
sức nặng của nó, bởi đă làm cho họ “đau
khổ”, nhưng, Thiên Chúa lại lợi dụng chính “thập
giá” để cứu rỗi họ, để hủy diệt
tội lỗi của họ cùng với các hậu quả của
nó, mà sự chết thể lư là tiêu biểu. Tội lỗi
của con người mới chính là “sự dữ” mà con
người cần phải khẩn nguyện đúng
như lời Chúa Giêsu
đă dậy: “nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ”.
Thật vậy, xét theo mạch
văn, câu cuối cùng của kinh Chúa Dạy có hai chi tiết
rất liên hệ với
nhau trong cùng một ư tưởng mà cả câu văn đó
nói lên, chỉ cách nhau bằng một liên từ “nhưng”. Chi
tiết thứ nhất trong câu văn cuối cùng này là: “Xin
chớ để chúng con sa chước cám dỗ”, và chi tiết
thứ hai tiếp theo ngay sau đó trong câu văn này là:
“nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ”.
Nếu chi tiết thứ
nhất Chúa Giêsu đă dạy chúng ta xin với Chúa Cha chớ
để chúng ta sa chước cám dỗ, tức chớ
để chúng ta làm ǵ theo ma qủi mất ḷng Ngài, th́, chi
tiết thứ hai, với chữ “nhưng” dẫn đầu,
không phải là Chúa Giêsu đă dạy chúng ta xin với Chúa
Cha cho chúng ta một điều ngược lại, đó
là luôn luôn biết làm trọn ư Chúa, theo Thần Linh của
Ngài huy động, nghĩa là đừng bao giờ v́ theo
ma qủi mà xúc phạm đến Thiên Chúa Tối Cao vô cùng
chí thánh, chí ái là Cha của ḿnh hay sao?
Bởi v́, đối với
con người là tạo vật vô cùng hèn hạ, lại
được Thiên Chúa thương yêu
một cách nhưng không,
không tiếc cả Con Một của Ngài v́ họ, mà họ
lại dám quay lưng lại với Ngài bằng những vô
ơn đă là một trọng tội. Huống chi họ
c̣n chối bỏ và hạ bệ Ngài bằng cách truất
phế Thánh Ư vô cùng khôn ngoan và thiện hảo của Ngài
nơi họ, th́ lại
càng đáng phạt, nhất là, nếu họ c̣n cả dám
giầy đạp Ngài bằng cách lợi dụng Ngài để
đưa ḿnh lên, coi Ngài như phương tiện để
đạt cả những điều đó không phải
là “sự dư” hay sao?
Để rồi, hậu
qủa của “sự dữ” về luân lư và siêu nhiên này là sự
chết đời đời, nghĩa là không được
hưởng Thánh Nhan của Thiên Chúa. Vậy, “sự dữ”
Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta cầu xin với Cha của
Người cũng là Cha của chúng ta, đó là “chớ
để chúng con xúc phạm đến Cha” hay “chớ
để chúng con bị hư đi đời đời”,
tức là “chớ để chúng con đời đời mất
Cha”.
Phải, khi c̣n ở trong
t́nh trạng công chính nguyên thủy, con người, qua hai
nguyên tổ, không hề biết đến tội lỗi
là ǵ, nghĩa là, con người chưa hề biết lành
biết dữ cho đến
khi ăn trái cấm, tức
cho đến khi phạm tội.
Tội lỗi chính là “sự
dữ chủ quan” gây ra bởi ư muốn của con người,
liên quan đến luân lư và đạo lư, ngược lại
với đau khổ là “sự dữ khách quan” xẩy ra cho
thể lư và tâm lư
của con người,
ngoài ư muốn của họ.
Tuy nhiên, v́ tâm linh của
con người, mới là yếu tố làm cho con người
khác với con vật, do đó, khi con người phạm tội
tức là lúc con người trở nên “dữ”, và họ tự
làm cho cả con người họ ra ô uế (x.Mt 15:18-20). Để
rồi, một khi đă trở nên, “dữ”, nên ô uế, dù
được dựng
nên theo h́nh ảnh Thiên Chúa theo thể thức, con người
sẽ không c̣n giống Ngài theo tinh thần nữa, Đấng
“trọn lành ở trên trời” (Mt 5:48), trái lại, họ
hoàn toàn bất xứng với Ngài và mất Ngài. Ngài không ở
trong họ nữa, v́ tự họ không muốn ở trong
Ngài. Mất Thiên Chúa là mất tất cả. Hay, nói cách khác,
mất linh hồn là mất tất cả. Đó mới là “sự
dữ” tuyệt đối, “sự dữ” tận cùng.
Thật ra, tuy tội lỗi,
tự nó là “sự dữ” trên thế gian này, nhưng, một
khi c̣n sống, tội nhân vẫn c̣n có thể được
cứu rỗi, nên, nó chỉ là một “sự dữ”
tương đối mà thôi.
Đối với thành phần
Kitô Hữu, khi phạm trọng tội là họ đă làm mất
Ơn Nghĩa Chúa, tức đă làm mất ḷng Chúa, do đó,
Chúa không c̣n ở với họ nữa. Nếu chết
đi trong thời gian không có Chúa hay mất Ơn Nghĩa
Chúa này mà không kịp ăn năn thống hối cách trọn,
th́ kể như họ đă đời đời mất
Chúa, đă không c̣n ở trong một “sự dữ”
tương đối nữa, mà là đă thuộc về một
thực tại bất hạnh đời đời, tức
là đă thuộc về “sự dữ”
tuyệt đối, thế
giới và vương quốc của các thần dữ, các
ngụy thần là Satan và ma qủi.
Tuy nhiên, khi c̣n sống, con
người mất Ơn Nghĩa Chúa, vẫn biết là
đă mất Chúa, tức không được Chúa ở trong
ḿnh nữa, nhưng không phải v́ thế mà Thiên Chúa không
yêu họ nữa. Nếu
muốn, họ vẫn có thể trở về với t́nh
yêu của Ngài, một t́nh yêu vẫn c̣n đó, đă bị
chính họ đuổi xua, song vẫn chờ đợi họ
trở lại để tha thứ cho họ, để cứu
độ và để thánh hóa họ, trừ phi họ
đă quá cứng ḷng, không thể trở lại với Ngài
được
nữa, đă hoàn toàn bỏ
rơi Ngài, đă hồ nghi t́nh Ngài yêu họ, không thể
tin rằng Ngài sẽ có thể tha thứ cho tội lỗi
tầy trời và sa số của họ được nữa.
Đây mới là “sự dữ”
khủng khiếp nhất,
kinh hoàng nhất và đáng sợ nhất đối với
con người khi c̣n sống trên đời, đáng con
người khẩn thiết nguyện xin với Cha ḿnh “cứu
chúng con cho khỏi sự dữ”.
Phải, khi con người
hoàn toàn cứng ḷng không thể nào trở lại với t́nh
yêu bao la, bất tận, bất diệt, bất biến của
Thiên Chúa là Cha đầy ḷng thương xót ở trên trời
của ḿnh nữa, đó là lúc con người c̣n sống mà
cũng như chết đời đời, mà đă hoàn
toàn thuộc về vương quốc của qủi ma, thế
giới của “sự dữ” tuyệt đối. Một
khi con người c̣n sống, không thể nào nói rằng v́
con người bất trung bất tín với Thiên Chúa nhiều
quá, nên Thiên Chúa đă bỏ họ, đă không ban ơn trở
lại cho họ nữa, thành ra họ cứng ḷng, đến
nỗi họ không thể nào trở về với Ngài
được nữa.
Theo nguyên tắc th́ điều
này có thể không đúng, nhưng theo thực tế th́
đúng.
Điều này không
đúng theo nguyên tắc. Ở chỗ, là T́nh Yêu, Thiên Chúa
không thể nào không yêu hay thôi yêu con người, và, dù con
người tội lỗi đến đâu đi nữa,
cũng không thể nào vượt được ranh giới
vô hạn của t́nh Ngài yêu họ.
Điều này đúng trên
thực tế. Ở chỗ, về phần con người,
một khi chối bỏ tiếng lương tâm, không theo
các ơn hiện sủng của Thiên Chúa ban cho từng dịp
để chống trả các chước cám dỗ, như
một người càng bỏ ăn càng kiệt sức, cho
đến khi hoàn toàn bất lực để làm
những ǵ phải làm, và
ngă gục khi gặp một cơn gió mát với người
khác song lại là một cơn gió độc đối với
họ, quật họ nằm xuống luôn, không bao giờ
chỗi dậy được nữa.
Do đó, khi xin “cứu
chúng con cho khỏi sự dữ”, Chúa Giêsu cũng có ư dạy
anh em của Người hăy xin “cứu chúng con cho khỏi
trở nên cứng ḷng đối với ơn Cha”, hay xin “cứu
chúng con cho khỏi hồ nghi ḷng Cha thương tha cho chúng
con”.
Thật ra, Thiên Chúa toàn
năng chí ái, Đấng có thể làm "đá trở nên
con cái của Abraham" (Mt 3:9), cũng có thể hoán cải
những con người có ḷng chai đá nhất.
Nhiều khi đường
lối yêu thương vô cùng khôn ngoan của Thiên Chúa chúng
ta không thể nào hoàn toàn
hiểu được, có khi chúng ta cũng không thể nào
tin
được là Ngài lại
có thể làm những việc lạ như vậy. Chẳng
hạn, việc Ngài, trong dụ ngôn thuê thợ làm vườn
nho, đă trả công cho người thợ làm vào giờ
sau hết và tất nhiên là làm ít nhất, cũng được
lănh lương bằng người thợ làm sớm
hơn và nhiều hơn họ (x.Mt 20:1-15). "Ngài
thương ai th́ thương" (Rm 9:18) là thế.
Điển h́nh và thực
tế nhất là thái độ và hành động của
Chúa Giêsu đối với trường hợp
của Lazarô, bạn thân của
Người. Khi “chị em (của Lazarô) nhắn tin cho Chúa
Giêsu rằng: 'Thưa Chúa, kẻ Chúa yêu đang bị bệnh'.
Khi nghe thấy vậy, Chúa Giêsu nói: 'Bệnh này không đến
nỗi chết, mà là để vinh danh Thiên Chúa, nhờ
đó, Con Thiên Chúa cũng được vinh quang.' Chúa Giêsu yêu thương gia
đ́nh này. Tuy nhiên, dù nghe biết Lazarô bị bệnh, Ngài
c̣n ở đó hai hôm nữa” (Gn 11:3-6).
Ở
đây, rơ ràng là Chúa biết Lazarô bị bệnh, và dù Chúa yêu
thương Lazarô, song Chúa không đến cứu Lazarô ngay,
trái lại, Chúa cố ư để cho Lazarô hoàn toàn chết
đi đă: “Lạy Chúa, tới nay đă bốn ngày; chắc
là chương thối lên rồi!” (x.Gn 11:39), sau đó mới
ra tay cứu sống Lazarô: “để họ tin rằng Cha
đă sai Con” (Gn 11:42).
Đối
với chung tất cả mọi người và mỗi
người, Thiên Chúa đều muốn cho họ
“được cứu rỗi và nhận biết chân lư”
(1Tim 2:4), đồng thời, Ngài cũng tỏ ḿnh ra cho họ
cách này hay cách kia, làm cho họ, theo khả năng của
ḿnh, nhận biết Ngài để được cứu rỗi,
chứ Ngài không dựng nên họ rồi bỏ mặc họ
hay t́m cách làm cho họ hư đi.
Nhưng,
một điều chắc chắn là, “những kẻ Ngài
biết trước th́ Ngài cũng tiền định... Những
kẻ Ngài đă tiền định th́ Ngài cũng kêu gọi...Những
kẻ Ngài kêu gọi th́ Ngài cũng công chính hóa...Những kẻ
Ngài công chính hóa th́ Ngài làm cho họ được
vinh
quang” (Rm 8:29-30). Nghĩa là, “Thiên Chúa làm mọi sự ḥa hợp
với nhau
v́
lợi ích của những kẻ được kêu gọi
theo ư định của Ngài” (Rm 8:28).
Bởi
đó, những kẻ Thiên Chúa đă tiền định
được cứu rỗi, th́ dù có tội lỗi đến
đâu
đi
nữa, tức "dù có chết mà tin (Ngài) cũng sẽ
được sống" (Gn 11:26), Ngài vẫn có thể
làm cho họ trở nên như ư muốn của Ngài. Chẳng
hạn Mađalêna, Phaolô hay Augustinô.
Phần
những kẻ hư đi, Ngài vẫn không bất công với
họ và họ cũng không kêu ǵ được Ngài, v́ họ
đă cảm thấy họ đă được Ngài ban
đủ ơn cho họ để họ có thể nhận
biết Ngài
và
được cứu rỗi, song, chỉ v́ lỗi của
họ đă làm cho họ hư đi thôi.
Thậm
chí, dù Thiên Chúa có cho những kẻ hư đi như họ
tự chọn thiên đàng và hỏa ngục, họ cũng
không dám chọn thiên đàng. Bởi v́, với tội lỗi
của họ, tội lỗi mà bản chất của nó là
chống lại Thiên Chúa toàn thiện chí ái, th́ ở thiên
đàng đối diện với
Đấng
mà họ phản bội và giầy đạp, coi không ra ǵ,
thậm chí coi Ngài c̣n thua cả Satan là tên cám dỗ họ, họ
sẽ c̣n khổ hơn cả ở hỏa ngục, nơi
mà họ c̣n có thể ẩn lành được Thánh Nhan
đầy vinh quang chói lọi của Ngài. Tâm trạng của
hai nguyên tổ sau khi phạm tội ăn trái Chúa cấm
đă xấu hổ, chạy trốn Thiên Chúa khi vừa nghe
thấy tiếng Ngài trong vườn địa đàng
(x.STK 3:7-8) là tâm trạng của các kẻ hư đi đời
đời.
Tâm
trạng của thành phần hư đi đời đời
là "Khóc lóc và nghiến răng” (Mt 8:12;22:13;25:30). Chẳng
những bởi v́ họ oán hận cho chính ḿnh, mà c̣n ghen tức
với những kẻ được rỗi trên thiên
đàng nữa. Thế thôi. Họ không oán hận Thiên Chúa,
“Đấng
có quyền hủy diệt cả hồn lẫn xác (của
họ) trong hỏa ngục” (Mt 10:28). Trái lại, trong thân phận
đời đời bất hạnh của ḿnh, họ c̣n
nh́n nhận sự thật tuyệt đối là
sự
thật và là sự sống cho họ trên đời mà họ
đă cố t́nh phủ nhận khi c̣n sống, đó là: “Chỉ
có một Thiên Chúa và chỉ có một Trung Gian Duy Nhất giữa
Thiên Chúa và
loài
người là Con Người Giêsu Kitô, Đấng đă hiến
ḿnh làm gía chuộc cho tất cả mọi người”
(1Tim 2:5-6).
Tuy
nhiên, không phải v́ có một số tạo vật, kể
cả thiên thần và loài người hư đi đời
đời
như vậy, mà việc làm bên ngoài của Thiên Chúa bị
thất bại hay không hoàn hảo. Trái lại, tất cả
những ǵ đă xẩy ra đúng như ư định vô
cùng khôn ngoan thượng trí của Thiên Chúa đă chứng
tỏ Ngài chính là Thiên Chúa: “Ta là Ta”, “Thiên Chúa, Chúa các
ngươi": “Chúc tụng Danh Cha cả sáng dưới
đất cũng như trên trời”.
Thiên
Chúa đă hoàn toàn tỏ hết ḿnh ra cho tạo vật
nơi nhân tính Con của Ngài, Đấng là “phản ảnh
vinh quang Cha, là h́nh ảnh bản thể Cha” (DT 1:3): “Chúc tụng
Nước Cha trị đến dưới đất cũng
như trên trời”.
Và,
Con của Ngài đă đến “làm theo ư Ngài và chu tất những
việc Ngài trao” (Gn 4:34) như “lương thực hằng
ngày” của Người: “Chúc tụng Ư Cha thể hiện
dưới đất cũng như trên trời”.
Như
thế, bề trong, Thiên Chúa đă tự viên măn thế nào,
bề ngoài, Ngài cũng hoàn toàn như vậy nơi chính nhân
tính của Chúa Giêsu Kitô là “Con đẹp ḷng Cha mọi
đàng” (Mt
3:17,17:5)
của Ngài.
Đối
với Thiên Chúa không có “sự dư”, mà chỉ có “sự thiện”
nơi Ngài tỏ ra, kể cả việc
biến
dữ nên lành cho tạo vật. Đối với chung tạo
vật và riêng con người tự bản chất sa ngă lại
có “sự dữ”, đó là “không có sự thật trong ḿnh”
(Gn 8:44), tức không có “Thiên Chúa là Ánh Sáng” (1Gn 1:5) trong ḿnh.
Vậy,
xin “cứu chúng con cho khỏi sự dữ”, đó là "Lạy
Cha chúng con ở trên trời là Thiên Chúa chân thật duy nhất
của chúng con đời đời chẳng cùng”.
Đến
đây, phần thứ hai của Kinh Lạy Cha, căn cứ
vào những ǵ đă được suy diễn, cũng
được
diễn ngôn để phụ họa phần thứ nhất
(trang 64-65), như sau:
"Chúng
con nguyện: làm theo ư Cha và chu tất những việc của
Cha; nếu chúng con có ǵ làm phật ḷng Cha, không đúng với
ư Cha, xin cũng thứ tha cho chúng con, để t́nh
thương của Cha, qua chúng con, cũng được tỏ
ra cho cả những kẻ phạm đến chúng con. Chúng
con nguyện tỉnh thức và cầu nguyện cho khỏi
sa chước cám dỗ, phạm tội mất
ḷng
Cha là Đấng vô cùng toàn ái, là Thiên Chúa chân thật duy nhất
chí tôn muôn đời".