* GIAI ĐOẠN CẦU
NGUYỆN THỨ HAI
Sang
giai đoạn cầu nguyện thứ hai, thành phần
đầu tiên theo Chúa là các môn đệ này được
nghe bài giảng Phúc Đức Trọn Lành trên núi (x.Mt 5-7),
nghe một loạt dụ ngôn về Nước Trời
(x.Mt 13), được chứng kiến tận mắt hai
lần Bánh Hoá Ra nhiều (x.Mt
Trong
giai đoạn này, các tông đồ bề trong
được Ơn Minh Luận và bề bề ngoài
được Ơn Hiếu Thảo. Với ơn minh
luận là ơn “Cha trên trời tỏ ra cho” (Mt 16:17) bề
trong
để
giúp các ông kiện toàn hơn nhận định c̣n bất
toàn về Chúa Giêsu của các ông trong giai đoạn
đầu. Nhờ đó, qua vị đại diện
của ḿnh là thánh Phêrô, các ông có thể tuyên xưng sự
nhận biết “Thày là ai?” (Mt 16:15) một cách xác đáng
hơn: “Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”
(Mt 16:16).
Để
rồi, cùng với Ơn Hiếu Thảo bề ngoài, các ông
đă tỏ ra thông cảm và giao cảm với Thày ḿnh
đặc biệt hơn, ít là qua hai trường hợp
điển h́nh sau đây. Lần thứ nhất, khi
được Thày tỏ cho biết về cuộc tử
nạn của Ngài, thánh “Phêrô đă kéo Ngài ra một bên và can
gián Ngài rằng: 'Thày ơi, Thày mà lại bị như
thế à! Thiên Chúa làm sao
lại
để cho Thày chịu như vậy được!'”
(Mt 16:22). Lần thứ hai, khi Thày bị dân Samaria hất
hủi không tiếp đón (x.Lc 9:53), hai thánh “Giacôbê và Gioan
thấy vậy đă thưa Ngài rằng: 'Thưa Thày, Thày
có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống
thiêu hủy họ đi
không?'”
(Lc 9:54).
Tuy
nhiên, trong đoạn đời cầu nguyện thứ
hai này, v́ các tông đồ cũng vẫn chưa hoàn toàn
“giao tiếp với Chúa trong tinh thần và chân lư”, nên,
đối với các ông, Chúa Giêsu,
“Ngôi
Lời đă hóa thành nhục thể” (Gn 1:14), chẳng khác
nào như “hạt giống gieo trên đá sỏi là những
kẻ nghe Tin Mừng về Nước Thiên Chúa, thoạt
tiên vui vẻ nhận lấy, song không đâm rễ sâu, nên
chỉ tồn tại được ít lâu, cho đến
khi bị cấm cách hay bắt bớ v́ Tin Mừng liền
khô héo đi” (Mt 13:20-21).
Chính
v́ thế, dù không có ư xấu ǵ cả, trái lại, hoàn toàn có
ư ngay lành, lại c̣n có ḷng đặc biệt đối
với Thày ḿnh, khi thành thật bày tỏ tâm sự của ḿnh
trước lời tiên báo về cuộc tử nạn
của Người, mà thánh Phêrô đă bị chính Thày
quở một cách thậm tệ liền tại chỗ:
“Satan, xéo đi khỏi mặt Ta. Ngươi chỉ làm
cớ vấp phạm cho Ta. Ngươi không phán đoán theo
Thiên Chúa ǵ cả, mà chỉ rặt theo loài người
thôi!” (Mt 16:23). Hay, ngay khi các ông v́ Thày mà tự ái đă
muốn “xin lửa trời xuống thiêu hủy bọn dân
chúng Samaria đă không chịu tiếp đón Người,
Người đă mắng át các ông và nói: 'Các
ngươi chẳng có tinh thần ǵ cả. Con
Người đến không phải là để giết
hại mà là để cứu vớt'”
(Lc
9:55-56).
* GIAI ĐOẠN
CẦU NGUYỆN THỨ BA
Đoạn
đời cầu nguyện thứ ba của các thánh tông
đồ là thời gian kể từ lúc các ông
được
thấy
Chúa biến h́nh trên núi cao cho tới khi Ngài tử nạn và
được mai táng trong mồ đá ba ngày ba đêm.
Ở
giai đoạn này, Thiên Chúa nắm phần chủ
động nhiều hơn trong việc tỏ ḿnh ra cho các
tông đồ, và các tông đồ nhờ đó càng hiểu
rơ hơn về Thày ḿnh, Đấng mà các ngài đă tuyên
xưng: “Là Thày và là Chúa” (Gn 13:13-14) của ḿnh.
Trước
hết, Người tỏ cho các ông thấy nhân tính vinh
hiển được kết hợp với thần tính
của Người, khi Người biến h́nh
trước mặt các ông (x.Mt 17:1-13). Sau đó,
Người lại tỏ cho các ông thêm hai lần nữa
về cuộc khổ nạn, tử gía và phục sinh
của Người (x.Mt 17:22-23; 20:17-19). Sau hết, trong
bữa tiệc ly, Người đă “nói thẳng về
Cha” (Gn 16:25) cho các ông, không nói bằng ngôn ngữ mập
mờ nữa (x.Gn 16:25), để các ông thấy rằng
Người được Cha sai (x.Gn 17:8), Người
ở trong Cha và Cha ở trong Người (x.Gn 14:11), ai
thấy Người tức là thấy Cha Người (x.Gn
14:9).
Phần
các tông đồ, càng đi sâu vào Thày, càng được
Thày tỏ ḿnh ra cho, càng hứng khởi hơn bao giờ
hết, đến nỗi, không muốn rời xa
Người nữa, đă xin cắm lều cho
Người ở luôn trên núi (x.Lc 9:33), thậm chí, “dù có
chết cũng không bao giờ bỏ Thày” (Gn 26:35), có
uống chén của Người uống cũng
được (x.Mt 20:22) v.v.
Thế
nhưng, dù các tông đồ bề trong có được
Ơn Thâm Hiểu rơ ràng và sâu xa hơn về Thiên Chúa ở
cùng thế gian là Chúa Giêsu, Thày của ḿnh đi nữa, và
bề ngoài có được Ơn Mạnh Bạo đến
nỗi đă dùng gươm chém vào những kẻ dám tra tay
bắt Thày chí thánh của ḿnh đi nữa (x.Mc 16:46), các ông
vẫn chưa đạt đến tuyệt mức
cầu nguyện, nghĩa là vẫn chưa hoàn toàn “giao
tiếp với Thiên Chúa trong tinh thần và chân lư”. Chúa Giêsu,
đối với các ông, ở trong giai đoạn này,
chẳng khác ǵ “hạt giống được
gieo
vào bụi gai là kẻ nghe Tin Mừng, nhưng các lo toan
thế gian và ham mê tiền
bạc
của họ đă làm cho nó nghẹt đi, chẳng sinh
lợi lộc ǵ” (Mt 13:22).
Các
tông đồ đă không lo toan thế gian là ǵ khi các ông c̣n
tranh ngôi thứ vào lần Chúa Giêsu lên Giêrusalem cuối cùng
(x.Mc 10:34) hay ngay cả trong bữa tiệc ly (x.Lc 22:24) là
giây phút đáng lẽ các ông phải cảm thấy buồn
đau v́ sắp sửa “không được
thấy
Thày nữa” (Gn
Bởi
thế, gần đến giờ nguy tử của Thày ḿnh
rồi, giờ mà “tâm thần Thày buồn chết đi được”
(Mt 26:38), buồn đến độ “mồ hôi toát ra
như máu nhỏ xuống đất”
(Lc
22:44), các ông vẫn như không biết ǵ, vẫn ngủ
ngon như thường (x.Mc 14:37).
Để
rồi, hậu qủa không tỉnh thức và cầu
nguyện nên đă sa chước cám dỗ (x.Mt 26:41), đó
là các ông “tất cả đều bỏ Người mà
tẩu tán” (Mc 14:50; Mt 26:56) khi Người
bị
bắt điệu đi như tên trộm cướp (x.Mc
18:48; Mt 26:55); cho dù có mon men “theo Người xa xa” (Lc 22:54)
như lănh tụ Phêrô, cuối cùng cũng phũ phàng và
trắng trợn
phủ
nhận Người những ba lần trước mặt
bọn tùy vệ của các thượng tế (x.Lc
22:56-60).
* GIAI ĐOẠN
CẦU NGUYỆN THỨ BỐN.
Đời
cầu nguyện của các tông đồ bước sang
giai đoạn thứ bốn cũng là giai đoạn
cuối cùng này kể từ khi Chúa Giêsu phục sinh cho
tới lúc Chúa Thánh Linh hiện xuống.
Trước
khi bước sang giai đoạn cầu nguyện cuối
cùng này, tức tiến đến tuyệt đỉnh
của đời sống cầu nguyện, các tông đồ
phải trải qua một cuộc tử nạn kinh hoàng
nhất,
một
đêm tối tăm tuyệt vọng nhất. Đó là
thời gian mà “Ánh Sáng thế gian” (Gn 8:12), Thày của các ông,
vụt tắt, khi Ngài trút hơi thở trên thập gía, và
lặn mất, khi Ngài nằm
trong
huyệt đá ba ngày ba đêm.
Các
ông tuyệt vọng và tối tăm không phải ở
tại” không c̣n được trông thấy Thày nữa” (Gn
16:16), cho bằng ở tại các ông cảm thấy tất
cả những ǵ các ông vốn thấy và quan niệm đều
hoàn toàn sụp đổ, hoàn toàn sai lầm về Thày
của ḿnh, Đấng toàn năng trên biển cả và
giông tố, Đấng toàn năng trên sự chết và
qủi ma, cũng là Đấng không thể tự cứu được
ḿnh, không thể tự xuống khỏi thập gía (x.Mc
15:31-32).
Chính
v́ biết trước được sự mù tối và
yếu đuối của các tông đồ trước
cơn thử thách kinh hoàng đó, để, sau khi trải
qua, các ông sẽ thực sự biết tự cầu
nguyện cùng Cha nhân danh Thày, chứ không cần phải
nhờ Thày cầu nguyện thay cho nữa( x.Gn 16:26), v́ các
ông
đă biết “giao tiếp với Thiên Chúa trong tinh thần
và chân lư”, mà Chúa Giêsu đă phải trấn an, khích lệ và
hứa hẹn với các ông.
-
Trấn an: “Một ít lâu nữa các con sẽ chẳng c̣n
thấy Thày, song trong ít lâu các con lại được xem
thấy Thày” (Gn 16:16).
-
Khích lệ: “Buồn phiền một thời gian rồi các
con lại xem thấy Thày; bấy giờ ḷng các con sẽ
mừng vui đến nỗi không ai có thể cướp
nó đi khỏi các con được nữa”
(Gn
16:22).
-
Hứa hẹn: “Các con sẽ được b́nh an trong Thày.
Trên thế gian các con sẽ chịu khốn khó. Song hăy can đảm
lên. Ta đă thắng thế gian!” (Gn 16:33).
Phải,
chính lúc vô cùng tối tăm và tuyệt vọng theo tâm trí
loài người trước mầu nhiệm siêu linh
của Thiên Chúa này, mà cuộc đời của các tông đồ
đă trở thành như một mảnh đất tốt
cho hạt giống đời đời là Lời Chúa,
hiện thân nơi Thày của các ông, sinh hoa kết trái
gấp trăm (x.Mt 13:23), và chính con người của các
ông cũng trở nên như một hạt lúa miến
mục nát đi để trổ sinh muôn vàn hoa trái (x.Gn
12:24).
Đúng
thế, khi Chúa Giêsu phục sinh từ trong cơi chết và
hiện đến với các ông là lúc các ông được
Ơn Thượng Trí và Ơn Khôn Ngoan.
Các
tông đồ được Ơn Khôn Ngoan để
“hiểu biết Thánh Kinh” (Lc 24:45) đó là khi Chúa Giêsu
“mở trí khôn của các ông” (Lc 24:45), để các ông, dù
cứng ḷng mấy đi
nữa,
như trường hợp của thánh Tôma, cũng phải
cúi ḿnh tuyên xưng một cách sâu xa rằng: “Lạy Chúa tôi,
lạy Thiên Chúa tôi” (Gn 20:28).
Ngoài
ra, một dấu hiệu vững chắc nhất chứng
tỏ và bảo đảm việc “giao tiếp” chân
thực và bền bỉ của các tông đồ với
Thày của ḿnh, “Đấng đă chết nhưng vẫn
sống muôn đời” (KH 1:18), đó là, các ông được
“b́nh an Thày ban cho” (Gn 14:27) khi Ngài hiện đến chúc cho
các ông: “B́nh an cho các con” (Gn 20:19,21,26).
Thế
rồi, chỉ sau khi Chúa Giêsu lên trời, nghĩa là,
chỉ sau khi Thày của các ông ”được nhấc lên
trong đám mây khuất khỏi mắt của các ông” (TĐCV
1:9), các ông mới thực sự và chính thức bắt đầu
“giao tiếp với Thiên Chúa là Thần Linh”, bằng cách:
“Cùng nhau chuyên tâm cầu nguyện liên lỉ” (TĐCV 1:14).
Và, cũng chỉ trong thời gian “cùng nhau chuyên tâm cầu
nguyện liên lỉ” này mà các tông đồ đă “nhận được
quyền lực từ trên cao” (Lc 24:49).
Kết
quả, nhờ đời cầu nguyện của ḿnh sau
khi “đầy Thánh Linh” (TĐCV 2:4), các tông đồ đă
chẳng những có thể “là chứng nhân cho Thày” (TĐCV
1:8): “Chúng tôi không thể không nói về những ǵ chúng tôi đă
nghe và đă thấy” (TĐCV 4:20), mà c̣n “vui mừng khi
thấy ḿnh đáng chịu khốn nạn v́ Danh (Thày)” (TĐCV
5:41).
Tóm
lại,
“CẦU NGUYỆN
CHÍNH LÀ GIAO TIẾP VỚI THIÊN CHÚA LÀ THẦN LINH TRONG TINH
THẦN VÀ CHÂN LƯ”
Các
tông đồ là mô phạm cầu nguyện điển h́nh
nhất cho người Kitô hữu và Kinh Lạy Cha là mô
thức cầu nguyện lư tưởng nhất của
người Kitô hữu. Các tông đồ là mô phạm
cầu nguyện điển h́nh nhất cho thành phần
Kitô hữu.
Bởi
v́, các ngài, nhờ Thày dạy cho, đă biết “giao tiếp
với Thiên Chúa trong tinh thần”. Ở chỗ, các ngài đă
“chấp nhận” (Gn 1:12) những ǵ được mạc
khải, được tỏ ra cho ḿnh nơi và qua “Thày là Đức
Kitô” (Mt 16:16), bằng tác động “tin tưởng” (Gn
17:8) của ḷng muốn. Nhưng, các thánh tông đồ đă
chấp nhận và tin tưởng những ǵ, nếu không
phải là Thày, Đấng “là Chân Lư” (Gn 14:6). Do đó, “giao
tiếp với Thiên Chúa trong tinh thần” cũng là “giao
tiếp với Thiên Chúa trong chân lư”. Tức là, đối
tượng mà các thánh tông đồ giao tiếp không
phải là những ǵ giác quan của các ngài thấy được
hay trí khôn của các ngài hiểu được nơi Chúa
Giêsu, Thày của ḿnh cũng là Thiên Chúa ở cùng chúng sinh
(x.Mt 1:23; Gn 1:14), song là chính bản thân của Chúa Giêsu, “Con
Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16:16), Đấng “đến
từ Cha” (Gn 17:8).
Kinh
Lạy Cha là mô thức cầu nguyện lư tưởng
nhất của thành phần Kitô hữu.
Bởi
v́, để đọc được Kinh Lạy Cha,
tức để cầu nguyện theo mô thức của
Kinh Lạy Cha, con người thực sự phải “giao
tiếp với Thiên Chúa trong tinh thần và chân lư”. Đúng
thế, kinh Lạy Cha chính là “những lời than khôn
tả” (Rm 8:26) nhất mà Thần Linh Thiên Chúa, qua Chúa Giêsu, đă
dạy cho chung con người cũng như riêng
người Kitô hữu vốn “không biết phải
cầu nguyện làm sao cho phải” (Rm 8:26). Như thế, để
cầu nguyện đúng như kinh Lạy Cha này, con người
cũng phải có Thần Linh Thiên Chúa, Đấng
“thấu
suốt những ǵ sâu nhiệm nơi Thiên Chúa” (1Cor
Thế
mà, c̣n ai trong thành phần con cái Thiên Chúa đă sống đúng
ư Thiên Chúa và đă làm đẹp ḷng Ngài nhất cho bằng
Chúa Giêsu Kitô: “Đây là Con Ta yêu dấu, đẹp ḷng Ta
mọi đàng” (Mt
(Gn
14:10,20), nghĩa là, Ngài hằng liên lỉ “giao tiếp
với Thiên Chúa”, Cha của
Ngài.
Như thế, theo gương Chúa Giêsu, cầu nguyện là
“giao tiếp” với Thiên Chúa “trong tinh thần” ở
tại ư muốn xin tuân phục Thiên Chúa, và “trong chân lư”
ở tại Thánh Ư Thiên Chúa được thể hiện.
“Tinh thần” và “chân lư” này chính là tất cả nội dung
và thực chất của kinh Lạy Cha, và kẻ sống
kinh Lạy Cha chính là sống Chúa Kitô, Đấng đă
dạy con người lời cầu nguyện và cách
cầu nguyện của ḿnh.