CHÂN
LƯ: Hạt giống Đức Tin chứa đựng tất
cả Chúa Kitô mà con người lănh nhận ngay sau khi được
Nước Rửa Tội thanh tẩy, trong giai đoạn
này, rơi vào bụi gai, bị gai
mọc
lên làm chết nghẹt (x.Mt 13:7).
TINH
THẦN: Vẫn biết, trong giai đoạn thứ hai, đối
với Đức Tin, người Kitô Hữu mới chỉ
tiếp nhận và sống bằng lư trí của ḿnh, nên họ
đă không đứng vững với Chân Lư khi bị thử
thách. Tuy nhiên, cũng nhờ giai đoạn này, nếu biết
dùng, người Kitô Hữu có thể tiến sang giai đoạn
thứ ba, giai đoạn họ sống Đức Tin bằng
t́nh cảm của họ. V́ sống Đức Tin bằng
t́nh cảm, họ cảm thấy sốt sắng thực hành
Đức Tin, nhờ đó, Đức
Tin
có thể mọc mầm và đâm rễ nơi họ. Thế
nhưng, chỉ v́ sống theo t́nh cảm, mà, Đức Tin
đă bị lẫn lộn với các lo lắng cũng như
ham muốn khác của t́nh cảm tự nhiên
nơi
con người, nhiều khi những t́nh cảm tự nhiên
này c̣n mạnh hơn t́nh cảm đối với Đức
Tin. Nhất là khi con người trở nên khô khan, hết cảm
thấy hương sắc ngọt ngào của Đức
Tin như trước, bấy giờ, hạt giống Đức
Tin sẽ bị t́nh cảm tự nhiên lấn át làm cho người
Kitô Hữu trong giai đoạn này dù sốt sắng một
thời mà vẫn không sinh hoa kết qủa ǵ: “Phần gieo
vào bụi gai là những kẻ nghe Tin Mừng, nhưng những
lo toan thế gian và ham mê tiền bạc làm nghẹt nó đi.
Hạt giống đó không sinh hoa kết qủa ǵ” (Mt
ĐIỂN
H̀NH: Trong giai đoạn thứ ba này, Chúa Giêsu tỏ Ḿnh ra
cho các thánh Tông
Đồ
càng ngày càng rơ ràng hơn, cả bằng việc làm cũng
như lời nói. Bằng việc làm, Người đă biến
h́nh trên nơi cao (x.Mt 17:1-13) cho các ông thấy nhân tính vinh hiển
được kết hợp với Thần Tính của Người.
Bằng lời nói, Người đă tỏ cho các ông ba lần
về cuộc tử nạn và phục sinh của Người
(x.Mt 16:21,17:22-23,20:17-19), nhất là, trong bữa tiệc ly,
Người đă “nói thẳng về Cha” (Gn 16:25) với các
ông, không c̣n bằng ngôn ngữ mập mờ, để các ông
thấy rằng Người được Cha sai (x.Gn
17:8), Người ở trong Cha và Cha ở trong Người
(x.Gn 14:11), ai thấy Người là thấy Cha (x.Gn 14:9). Phần
các thánh Tông Đồ, trong giai đoạn này đă thân mật
với Thày hơn và tỏ ra sốt sắng với
Thày
hơn bao giờ hết, đến nỗi, các ông đă muốn
cắm lều ở với Người trên chỗ Người
biến
h́nh (x.Mt 17:4), dù có uống chén của Người cũng được
(x.Mt 20:22), và “dù có chết cũng không bao giờ bỏ Thày”
(Mt 26:35). Phải chăng, trong giai đoạn này, các thánh Tông
Đồ đă được Ơn Thâm Hiểu để
có thể tuyên xưng: “Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng
sống” (Mt 16:16)? Phải chăng, cũng trong giai đoạn
này, các thánh Tông Đồ, nhờ thâm hiểu Thày ḿnh hơn,
nên cũng được Ơn Can Đảm, đến nỗi
đă hết
ḷng
thề hứa theo Người và trung thành với Người
với bất cứ giá nào, nhất là dám dùng cả gươm
để chém đứt tai đầy tớ của thày cả
thượng tế đến bắt Thày ḿnh (x.Mt 26:51)?
Tuy
nhiên, tất cả những sự sốt sắng của các
vị Tông Đồ trong giai đoạn này vẫn không hoàn
toàn sâu xa và vững chắc, nên, ngay khi thánh Phêrô xin Chúa cho dựng
ba lều trên chỗ Người biến h́nh th́ ông cũng
“thật sự không biết là ḿnh đang nói ǵ” (Lc 9:33); hơn
nữa, trong số các ông, thậm chí c̣n có kẻ mưu toan
nộp Người (x.Lc 22:1-6), c̣n có kẻ ngủ gật
trong khi Người “buồn sầu đến chết được”
(Mt 26:38), c̣n “tất cả bỏ Người mà tẩu tán”
(Mc 16:50; Mt 26:56), nhất là, c̣n lănh tụ Phêrô chối bỏ
Người đến
ba
lần (x.Mt 26:69-75). Tại sao thế? Phải chăng, kẻ
phản nộp Người v́ ham mê tiền
bạc
(x.Lc 22:5-6), và, tất cả bỏ Người mà tẩu tán
v́ c̣n tinh thần tranh ngôi giành vị vào những lúc khẩn
trương của Thày ḿnh, như lần Người lên
Giêrusalem cuối cùng (x.Mc 10:34), hay ngay trong bữa tiệc ly
(x. Lc 22:24)? Phải chăng, những lo toan thế gian và ḷng
ham mê tiền bạc, đúng như trong dụ ngôn nói về
phần hạt giống gieo vào bụi gai, đă xẩy ra nơi
các thánh Tông Đồ trong giai đoạn thứ ba này?
Cầu Nguyện: Giai Đoạn Bốn.
CHÂN
LƯ: Hạt giống Đức Tin chứa đựng toàn thể
Chúa Kitô được Thiên Chúa gieo nơi con người
ngay khi họ nhận được Nước Rửa Tội
tái sinh, trong giai đoạn này, như được gieo vào
đất tốt, nhờ đó, đă nẩy mầm, mọc
lên và trổ sinh hoa trái (x.Mt 13:7).
TINH
THẦN: Trong giai đoạn này, hạt giống Đức
Tin được nẩy mầm, phát triển và trổ
sinh hoa trái là v́ nó được người Kitô Hữu chấp
nhận bằng cả ḷng muốn của ḿnh, chứ không
phải bằng cảm quan hời hợt (như ở giai
đoạn một), bằng lư trí nông cạn (như ở
giai đoạn hai) hay bằng t́nh cảm hỗn tạp nhất
thời của họ (như ở giai đọan ba). Và,
bởi
chấp nhận bằng cả ḷng muốn của ḿnh, người
Kitô Hữu đă sống Đức Tin được gieo
trong họ, như nó là và theo như nó đ̣i hỏi. V́ Đức
Tin không ngược với tự nhiên, song vượt trên
tự nhiên và thánh hoá tự nhiên, nên, để sống Đức
Tin, người Kitô Hữu đă phải sống siêu nhiên,
tức không c̣n sống theo tự nhiên, theo xu hướng,
ham thích và tư lợi tự nhiên của ḿnh. Tức là, người
Kitô Hữu phải từ bỏ mọi sự ḿnh có, bỏ
cả chính ḿnh, bỏ sự sống ḿnh, để bảo
vệ và làm chứng cho Đức Tin. Nhờ biết bỏ
ḿnh v́ Đức Tin như thế, gặp bất cứ thử
thách nào v́ Đức Tin, họ vẫn không mất rể Đức
Tin, trái lại, càng làm cho Đức Tin của họ phát
triển hơn bao giờ hết. “Phần được
gieo vào đất tốt
là
người nghe Tin Mừng và nhận lấy. Họ chính là
người trổ sinh hoa trái gấp trăm, hay gấp sáu
mươi hoặc gấp ba mươi lần” (Mt 13:23).
ĐIỂN
H̀NH: Trong giai đoạn này, qua những lần hiện ra với
các ông sau khi từ trong kẻ chết sống lại, bề
ngoài Chúa Giêsu cho các ông thấy thân xác vinh hiển của Người
(x.Gn 20:27; Lc 24:39-43), bề trong, về trí, Người cho các
ông hiểu Lời sách thánh nói về Người (x.Lc
24:25-27,45), về ḷng, Người ban cho các ông b́nh an (x.Lc
24:36; Gn 20:19,26), và, đối với cả con người,
Người ban cho các ông Thánh Thần của Người
qua hơi thở Người thổi trên thân xác của họ
(x.Gn 20:22). Từ đó, như thân xác được dựng
nên bởi bùn đất của con người sau khi nhận
hơi thở của Thiên Chúa đă trở nên một vật
sống thế nào (x.STK 2:7), con người của các đấng
đă được Chúa Kitô rửa cho trước
bữa
tiệc ly (x.Gn 13:5-10) cũng trở nên một tạo vật
mới (x.2Cor 5:17) bởi hơi thở phục sinh của
Người như vậy. Phải chăng, trong giai đoạn
này, các thánh Tông Đồ đă được
Ơn
Khôn Ngoan, để, qua thánh Tôma, tuyên xưng với tất
cả ư thức của ḿnh về Chúa Kitô: “Lạy Chúa Tôi, lạy
Thiên Chúa tôi” (Gn 20: 28). Ngoài ra, các thánh Tông Đồ cũng được
Ơn Huấn Dụ để có thể làm cho các người
nghe ḿnh nhận biết và trở lại với chân lư là Chúa
Kitô mà các vị rao giảng và làm chứng. Với lời đối
đáp: “Qúi vị tự xét trước mặt Thiên Chúa xem
chúng tôi có nên vâng lệnh qúi vị hơn là vâng lệnh Thiên
Chúa
hay chăng. Chúng tôi nhất định không thể không nói
về những điều chúng tôi đă nghe và đă thấy”
(TĐCV 4:19- 20), cũng đủ chứng tỏ các thánh Tông
Đồ được cả Ơn Khôn Ngoan bề trong và
Ơn Huấn Dụ bề ngoài. Con số chừng năm
ngàn người (x.TĐCV 4:4) trở lại sau bài giảng
đầu tiên của thánh Phêrô không phải là hoa trái đầu
tiên của hạt giống Chân Lư là Chúa Kitô, Thày của các đấng,
đă được gieo vào các vị như vào một mảnh
đất tốt hay sao?
Nếu
chỉ xét nguyên tác động nói lên h́nh thức cầu nguyện
nơi con người, tức cầu nguyện là tác động
giao tiếp với Thiên Chúa, th́, tất cả những việc
nào làm cho con người giao tiếp với Thiên Chúa, đều
là những việc có tính cách cầu nguyện và đều
là những việc cầu nguyện. Chẳng hạn, việc
dâng lễ, hiệp lễ, lănh nhận các Bí Tích, đọc
kinh v.v. là những việc con người trực diện
với Thiên Chúa, tự chúng, đều là những việc
thánh và chính thức là việc cầu nguyện thuần túy.
Tuy
nhiên, nếu xét về tinh thần làm nên việc cầu nguyện
nơi con người, tức cầu nguyện là tác động
giao tiếp với Thiên Chúa là Thần Linh trong tinh thần và
chân lư, th́, tất cả những việc nào Kitô Hữu làm
trong tinh thần và chân lư đều có tính cách cầu nguyện.
Chẳng hạn, việc ăn chay, bố thí, sinh hoạt hằng
ngày như ăn uống, chơi đùa, học hành, vệ
sinh v.v. là những việc làm tự nhiên hay những việc
lành tự nhiên, nhờ được làm trong tinh thần
(v́ Chúa) và chân lư (trong Chúa) mà chúng đă trở nên những việc
tỏ ra hay giúp cho người Kitô Hữu giao tiếp với
Thiên Chúa.
Cũng
xét theo tinh thần cầu nguyện này, một việc, dù lành
thánh mấy đi nữa, như việc dâng lễ, rước
lễ là những việc tự chúng làm cho người Kitô
Hữu giao tiếp với Thiên Chúa, nhưng, nếu họ
không làm trong tinh thần và chân lư, tức không làm v́ Chúa với
ư ngay lành hay trong Chúa theo như đường lối của
Ngài, th́, ngược lại, họ chẳng những không được
công mà lại c̣n có thể phạm sự thánh, v́ đă tục
hoá một việc thánh, việc trực giao với Đấng
vô cùng Thánh Hảo.
Dù
xét về tác động nói lên h́nh thức cầu nguyện
nơi con người hay tinh thần làm nên việc cầu
nguyện nơi con người đi nữa, nếu con người
không có Ơn Thánh, th́ tất cả mọi
việc
làm của họ đều là việc chết, không có công ǵ
trước mặt Chúa.
Do
đó, Ơn Thánh mới là nguyên lư làm cho người Kitô Hữu
giao tiếp với Thiên Chúa, cầu nguyện với Thiên Chúa.
Thiên Chúa ở với người Kitô bằng Ơn Thánh,
giao tiếp với họ bằng Ơn Thánh, ngược lại,
con người cũng chỉ giao tiếp với Ngài, chỉ
ở lại trong Ngài bằng tinh thần và chân lư, khi có Ơn
Thánh mà thôi.
Như
thế, cầu nguyện là ở lại với Thiên Chúa
trong Ơn Thánh của Ngài bằng tinh thần và chân lư.
Mà,
Ơn Thánh là ǵ, nếu không phải là T́nh Yêu của Thiên Chúa
yêu thương con người như con cái, và, con người
ở lại với Thiên Chúa trong Ơn Nghĩa Chúa bằng
tinh thần và chân lư là ǵ, nếu không phải là kính mến
Ngài như Cha của ḿnh.
Vậy,
cầu nguyện là sống t́nh con cái với Thiên Chúa là
Cha của ḿnh.
Kinh
Chúa dạy chính là mô thức để người Kitô Hữu
có thể theo đó sống xứng đáng với Thiên Chúa
là Thần Linh trong Ơn Thánh bằng tinh thần con cái và chân
lư Cha con.
CẦU
NGUYỆN LÀ SỐNG KINH LẠY CHA.
SỐNG
KINH LẠY CHA CHÍNH LÀ SỐNG "Đời Cầu
Nguyện".
Khởi
viết vào Ngày Lễ Chúa Ba Ngôi 10-6-1990
CAO
TẤN TĨNH