“CẦU NGUYỆN
LÀ GIAO TIẾP VỚI THIÊN CHÚA LÀ THẦN LINH TRONG TINH
THẦN VÀ CHÂN LÝ”
Thế
nhưng, chính tác động “cầu nguyện”, tức tác
động “giao tiếp với Thiên Chúa là Thần Linh trong
tinh thần và chân lý” này, tự mình, con người cũng
không thể nào
làm được, nếu không
có Thiên Chúa.
Chính
Chúa Giêsu đã không giúp các tông đồ biết “cầu nguyện”,
biết phải “giao tiếp với Thiên Chúa là Thần Linh
trong tinh thần và chân lý” là gì! Kinh Lạy Cha không phải là
mô thức chính Chúa Kitô đã dạy chúng ta, qua các tông đồ,
để chúng ta biết cầu nguyện với Thiên Chúa
trong tinh thần nghĩa tử và chân lý Cha con với Ngài là
gì!
Để
con người có thể “giao tiếp với Thiên Chúa là Thần
Linh trong tinh thần và chân lý”, Thiên Chúa đã phải ban cho
chúng ta cùng một lúc cả “tinh thần và chân ly”.
Thật
vậy, con người tự mình không thể nào biết
Thiên Chúa như Ngài là, nếu Ngài không tự mạc khải,
tự tỏ mình ra cho họ. Những gì Thiên Chúa mạc khải
cho con người
về
Ngài đều là và chính là “chân lý” mà con người phải
chấp nhận mới có thể nghiệm thấy Ngài và
tuân theo mới có thể hợp với Ngài.
Tuy
nhiên, dù Thiên Chúa có tỏ mình cho con người, nghĩa là,
dù “chân lý” có được mạc khải cho họ, qua
Ngôi Lời nhập thể và bằng lời nói cũng
như hành động của
Chúa
Giêsu Kitô, Con Một của Ngài, “con người vốn yêu tối
tăm hơn ánh sáng” (Gn 3:19) cũng không thể nào tự
“chấp nhận” (Gn 1:11) Ngài, nếu Ngài không ban thần trí
của Ngài cho, để “là Thần Chân Lý, Ngài sẽ dẫn
dắt các con vào sự toàn chân” (Gn 16:13). Do đó, “tinh thần”của
con người để nhận biết và chấp nhận
“chân lý” chính là
thần trí của Thiên Chúa. Để rồi, khi con người “cầu nguyện”
là chính Thiên Chúa “biết mình” và “yêu mình”, như Ngài là và
như Ngài đáng, nơi con người.
Phần
chúng ta là thành phần Kitô hữu, tức thành phần
được Chúa Giêsu Kitô, Đấng
Thiên
Sai, kêu gọi đi cầu nguyện với Ngài: “Hãy ở
lại đây và tỉnh thức với Thày” (Mt 26:38).
Chính
lúc đọc kinh Lạy Cha, chúng ta cũng đã đọc
kinh ấy chung với Chúa Kitô, khi chúng ta xưng với Thiên
Chúa với tư cách là “chúng con”, một tư cách bao gồm
cả Chúa Giêsu, “trưởng tử của một đàn
em đông đúc” (Rm 8:29).
Vậy,
khi cầu nguyện chung với Chúa Kitô, nghĩa là khi “giao
tiếp với Thiên Chúa” trong Chúa Kitô và với Chúa Kitô, chúng
ta phải cộng tác với Chúa Kitô, để Ngài có thể
cầu nguyện, có thể liên tục “giao tiếp” với
Thiên Chúa qua chúng ta. Nhưng, Chúa
Kitô
không thể nào cầu nguyện trong chúng ta và qua chúng ta nếu
chúng ta không
“tỉnh thức với Thày”.
Phải,
Nếu
chính việc "cầu nguyện giao tiếp với Thiên
Chúa là Thần Linh trong tinh
thần và chân lý”, thì phần của
con người Kitô hữu trong việc cầu nguyện chẳng
qua chỉ là “tỉnh thức” mà thôi.
Tác động “tỉnh thức”
để cầu nguyện đây có hai nghĩa, tiêu cực
và tích cực.
-Về
ý nghĩa tiêu cực, “tỉnh thức” là không “say sưa”
hay “ngủ gật”;
-Về
ý nghĩa tích cực, “tỉnh thức” là “chú ý” hay “chuyên
tâm”.
“Tỉnh
Thức” là không “say sưa” hay “ngủ gật”.
Hành động của các môn
đệ thân tín nhất của Chúa Giêsu, được
Ngài cho đi cầu nguyện với Ngài, đã “ngủ gật”
(Mc 14:37) đến nỗi “mắt họ díu chặt lại
với nhau và miệng không nói gì được với Ngài”
(Mc 14:40) là một trường hợp cụ thể điển
hình. Hậu qủa
của hành động thiếu “tỉnh
thức” nên không thể cầu nguyện này của các tông
đồ, đó là các ông đã “sa chước cám dỗ”
(Mc 14:38), ở chỗ, vào chính lúc Thày của mình bị bắt
và điệu đi thì “tất cả đều bỏ Ngài
mà tẩu thoát” (Mc 14:50)!
Thái
độ khinh thường của người đầy
tớ được chủ đi xa cho coi nhà mà lại
“chè chén với
lũ say sưa” (Mt 24:49) là một
dụ ngôn rất xác thực về phương diện tâm
lý trong việc thiếu “tỉnh thức”. Hậu qủa của
thái độ khinh thường nên bề ngoài “không sẵn
sàng”
(Mt
24:50) này của người đầy tớ là đã không chu toàn việc của chủ trao cho đúng
như ý của chủ, nên đã bị chủ “trừng phạt
nặng và bị khai trừ” (Mt 24:51).
Hành
động “ngủ gật” của các tông đồ hay thái
độ “say sưa” của người đầy tớ
coi nhà
cho chủ là những gì liên quan
đến mắt, đến miệng lưỡi của
con người, tiêu biểu cho giác quan hướng ngoại
của họ. Vậy, “tỉnh thức”, theo
nghĩa tiêu cực, không phải là gìn
giữ giác quan hay sao?
Thật ra, giác quan không có gì là
xấu, nếu biết làm chủ chúng, chúng còn làm lợi
cho con người nữa là đàng khác, trong việc “giao tiếp”
với ngoại vật.
Thế nhưng, theo nguyên tắc tu đức,
bất cứ một sự gì, dù xem ra tốt lành và có lợi
mấy đi nữa, thậm chí kể cả việc “lợi
cả thế gian mà thiệt mất linh hồn mình, thì nào
có ích chi?”
(Mt
16:26).
Vì
thế, trong trường hợp chưa làm chủ
được mình, còn bị tạo vật chi phối, có
thể vì chúng mà làm mất lòng Chúa, vì chúng mà nên dịp tội
cho mình, tốt nhất hãy dứt
khoát từ bỏ chúng đi, bằng
cách bỏ mình đi, hãm mình lại. “Nếu mắt
ngươi...tay ngươi nên dịp tội cho
ngươi, hãy móc ra...hãy chặt cụt và quẳng nó
đi, thà mất một phần
thân thể còn hơn cả thân
thể bị quăng vào hỏa ngục” (Mt 5:29-30). Một
khi đã bỏ mình, bằng cách hãm mình, giữ ngũ quan kỹ lưỡng như thế,
còn gì có thể làm con người muốn
cầu nguyện chia trí được
nữa.
Bà
Evà, dù bị rắn qủi cám dỗ, và dù lòng có muốn nên
khôn ngoan giống như Thiên Chúa đi nữa, ít nhất, bề
ngoài, nếu bà còn biết giữ giác quan để không thấy
rằng “cây (biết lành biết dữ) có trái ngon, bắt mắt”
(STK 3:6), chưa chắc gì bà đã “sa chước cám dỗ”
và đã giơ tay ra “hái ít trái mà ăn và đưa cả
cho chồng cùng ăn” (STK 3:6). Để rồi, từ
đó, dù thân thể con người, hiện thân cho những
gì thuộc về thế gian, tự nó không xấu, vì hổ
thẹn, con người cũng đã tìm cách che đậy
nó lại (x.STK 3:7), nhất là, để “thuộc về
Chúa Giêsu Kitô, (họ còn) phải đóng đanh xác thịt
mình cùng với đam
mê và tình dục của nó” (Gal 5:24).
Theo
kinh nghiệm, nếu không biết giữ giác quan cẩn thận,
con người không thể nào cầu nguyện cho nên. Triệu
chứng chia trí khi đọc kinh hay khi trầm tư suy gẫm
hoặc tâm sự với Chúa, nguyên do trực tiếp cũng
là vì không biết giữ giác quan.
Tất
cả những gì giác quan tha hồ “giao tiếp” với ngoại
vật trước khi đọc kinh, suy gẫm hay cầu
nguyện, sẽ hiện về, ám ảnh và quấy rầy
con người đang muốn “giao tiếp với
Thiên
Chúa”. Thậm chí, nhiều khi quá đam mê, con người có
thể cắt xén, bỏ cả cầu nguyện để
xem phim chưởng, hay có làm cũng làm một cách chiếu
lệ, một cách vội vàng cho mau xong để còn kịp
giờ xem trình diễn văn nghệ, thể thao, đấm
bốc v.v.
Thế
rồi, vì chỉ sống theo xác thịt
và chạy theo thị hiếu của giác quan, con người
sẽ chán nản khi cầu nguyện, ngủ gật khi
đọc kinh, dần dần không còn cầu nguyện
được nữa, nghĩa là mất liên lạc với
Thiên Chúa. Hậu qủa của việc mất liên lạc với
Thiên Chúa với việc phạm tội, bỏ Thiên Chúa, chối
Thiên Chúa và phản lại Thiên Chúa sẽ
không thể nào tránh được.
“Hãy tỉnh thức và cầu
nguyện kẻo sa chước cám dỗ. Tinh thần thì
linh hoạt, song bản chất lại yếu nhược”
(Mc 14: 38) là thế.
“Tỉnh
Thức” là “Chú Ý” hay “Chuyên Tâm”.
Nếu “Tỉnh Thức” về
mặt tiêu cực là giữ giác quan bề ngoài, thì “Tỉnh
Thức” về mặt tích cực là giữ ý hướng bề
trong.
Theo
kinh nghiệm, để làm bất cứ một việc
gì, con người là một con vật có lý trí và có
lương tâm, bao giờ cũng phải có lý do chính
đáng mới dám làm. Thế nhưng, dù có
viện dẫn đủ mọi lý
do để làm đi nữa, kết cục, dù thành công hay
thất bại, nhiều khi họ vẫn cảm thấy
áy náy, cảm thấy hối hận. Phải chăng, vì họ
đã làm việc đó theo đam mê, vì ý
riêng, cho tư lợi của mình?
Mà,
một khi đã làm vì mình như thế, trong khi làm, con
người lắm khi đã bất chấp thủ đoạn,
bất chấp luật lệ và công ích, bất chấp quyền
lợi và thiệt hại cho tha nhân, miễn
làm sao cho mình được tối
đa thỏa mãn mới thôi. Thậm chí khi làm một việc
lành, việc thánh, con người còn có khuynh hướng tìm
mình, chưa hoàn toàn bỏ mình, vẫn có thể bị
ý xấu làm tục hóa việc thánh họ làm
và vô hiệu hóa việc lành họ thực hiện.
Động
lực thúc đẩy con người làm việc lành, việc
thánh, có thể là để cho người ta biết đến
mình. Cho dù trước khi làm việc lành, việc thánh, tác
nhân có ý ngay lành, hoàn toàn vì Chúa muốn và cho vinh danh Chúa đi
nữa, nhưng, nếu không “tỉnh thức” đề
phòng đủ, họ vẫn có thể từ từ qui về
mình lúc nào không biết. Một điều có thể chứng
tỏ họ không còn làm việc lành, việc thánh đó hoàn
toàn vì Chúa và cho Chúa hay không, là khi họ tức giận hay bỏ
giở việc họ làm lúc bị người khác chê bai,
phê bình, đả kích họ.
Kể
cả trước khi hay đang khi làm việc lành, việc
thánh, con người vẫn giữ nguyên được ý
ngay lành ban đầu vì Chúa và cho Chúa đi nữa, sau khi
hoàn tất việc làm, nếu không “tỉnh thức” đề
phòng, con người vẫn có thể qui về mình như
thường, khi tỏ ra, ngấm ngầm hay rõ ràng, tự
mãn, tự cao, tự đại. Dấu hiệu chứng tỏ
con người không làm
việc
lành, việc thánh hoàn toàn vì Chúa và cho Chúa cho đến cùng,
đó là họ tỏ ra coi thường người khác,
khinh người kém hơn mình, ghen người khá hơn
mình v.v.
Một
khi con người làm mọi việc chỉ vì mình và cho
mình, nghĩa là hoàn toàn ở lại trong mình, tất nhiên, họ
không còn và không thể “giao tiếp” với Thiên Chúa nữa,
nghĩa là họ không còn và không thể cầu nguyện nữa,
hay có cầu nguyện cũng không thành.
“Chú ý” giữ chủ ý cho ngay
lành trong tất cả mọi việc làm của mình, đó
là “Tỉnh Thức”.
Ngoài ra, “Tỉnh Thức” trong ý nghĩa tích cực
của nó còn là “chuyên tâm”.
Hình ảnh sống động
trong việc “chuyên tâm” này là hình ảnh các tông đồ, sau
khi Chúa Giêsu về trời, “đã cùng nhau chuyên tâm liên lỉ
cầu nguyện” (TĐCV 1:14) để đón nhận Chúa
Thánh Linh hiện xuống.
Còn một hình ảnh “chuyên
tâm” không kém phần thiết thực khác, đó là trường
hợp Maria “ngồi dưới chân Chúa và lắng nghe lời
Ngài” (Lc 10:39).
Thật
ra, nếu Matta, vì phận sự tiếp thượng khách
là Chúa Giêsu mà phải vất vả phục dịch Ngài, nếu
chỉ “chuyên tâm” vì Chúa và cho Chúa mà làm những việc bề
ngoài
đó, không còn quan tâm đến sự
gì khác nữa, thì Chúa đâu có trách nàng là: “Lo lắng và bối
rối nhiều chuyện” (Lc 10:41).
“Chuyên
tâm” ở đây rõ ràng là chỉ để tâm trí đến
“một điều cần duy nhất” (Lc 10:42), đó là việc
“giao tiếp” với Thiên Chúa mà thôi.
Thật
vậy, mục đích của việc cầm giữ giác
quan và chủ ý ngay lành là gì, nếu không phải, trực tiếp,
đó là để tạo môi trường thuận lợi
cho tâm hồn tĩnh lặng hầu có thể “giao tiếp”
với Thiên Chúa.
Nếu
con người không đủ “tỉnh thức”, cứ
để thả lỏng giác quan, buông tuồng chủ ý, họ
sẽ không thể nào, dù hết sức muốn và thật
lòng muốn đi nữa, “chuyên tâm” cầu
nguyện được. Bởi vì, “chuyên tâm”
ở đây đồng nghĩa với việc “Tìm Nước
Chúa và sự công chính của Ngài trước, còn mọi sự
khác Ngài sẽ lo cho sau” (Mt 6:33).
Do
đó, “chuyên tâm” chính là lòng trí không lo lắng gì cả, trái lại,
phó mặc mọi sự cho Chúa. Nhờ biết phó thác mọi
sự trong tay Chúa, không lo lắng gì cả,
lòng trí con người
mới được bình an,
được tỉnh táo, được nhẹ thoát,
để có thể “giao tiếp”, có thể kết
hợp với Thiên Chúa.
Một
con người không có sự bằng an trong tâm hồn
như thế, dù họ có vào sa mạc, ở
rừng vắng, lên núi cao, giữa biển cả, không thấy
một hình ảnh nào, không nghe một tiếng
động
trần t ục nào, ngoài thiên nhiên tinh khiết như vườn
điạ đàng của hai nguyên tổ đi nữa, họ
vẫn không thể nào “giao tiếp” với Thiên Chúa, không thể
nào gặp gỡ “Đấng ở nơi kín đáo” (Mt
6:4,18) được.
Vậy,
để có thể “giao tiếp” với Thiên Chúa, có thể
gặp gỡ Ngài, việc của con người “tỉnh
thức” khôn ngoan, đó là “đi vào phòng của mình, đóng
cửa lại, và cầu nguyện cùng Chúa Cha trong âm thầm”
(Mt 6:6).
“Đi vào phòng của mình” là
gì, nếu không phải đi vào nội tâm của mình. “Đóng cửa
lại” là gì, nếu không phải cầm giữ giác quan và
chủ ý xấu là những gì trực tiếp liên hệ với
thế gian trần tục ở bên ngoài. “Cầu nguyện
với Chúa Cha trong âm thầm” là gì, nếu
không phải “giao tiếp” với
Ngài trong bằng an, thanh thoát.
Nếu
“tỉnh thức” là phần việc của con người
trong việc “cầu nguyện là giao tiếp với Thiên
Chúa là Thần Linh trong tinh thần và chân lý”, mà “tinh thần
và chân lý”
hoàn toàn do Thiên Chúa ban cho con
người, thì, đối với con người, “tỉnh
thức” chính là trở nên một trinh nữ khôn ngoan chờ
đón chàng rể (x.Mt 25:1-2).
Người
“tỉnh thức và cầu nguyện”, để có thể gặp
gỡ Thiên Chúa qua chàng rể “Giêsu”, về phương diện
siêu nhiên, thực sự phải là một trinh nữ. Bởi
vì, giác quan, tượng trưng cho thân xác của họ,
hoàn toàn trong sạch, không ham mê hay hiến thân cho thế
gian, và chủ ý, tượng trưng cho lòng trí của họ,
không gắn bó hay ngoại tình với bất cứ một
thụ tạo nào.
Để
rồi, nhờ cả con người, nhất là nhờ “có
lòng thanh sạch, (họ) sẽ được thấy mặt
Thiên
Chúa” (Mt 5:8), nghĩa là
được “giao tiếp” với Thiên Chúa trực diện
hơn và thực nghiệm hơn. Kết qủa của việc
trực diện hơn và thực nghiệm hơn khi “giao tiếp”
với Thiên Chúa như thế , linh hồn cầu nguyện
sẽ “trổ sinh muôn vàn hoa trái” (Gn 15:5) cho Ngài
Nếu
trổ sinh muôn vàn hoa trái là kết qủa của đời
cầu nguyện, là tinh hoa của việc “giao tiếp” với
Thiên Chúa như là một trinh nữ, hoàn toàn thuộc về
Ngài và tận hiến cho Ngài, thì Mẹ Maria chính là
gương mẫu cầu nguyện lý tưởng nhất.
Bởi
vì, Mẹ là một Trinh Nữ trên mọi trinh nữ, một
trinh nữ “Đầy Ơn Phúc, Thiên Chúa ở cùng Người”
(Lc 1:28), một trinh nữ được thực sự
“giao tiếp” với Thiên Chúa khi thụ thai, sinh hạ và phục
vụ Ngôi Lời nhập thể, một trinh nữ trổ
sin h muôn vàn hoa trái là các linh hồn thuộc về nhiệm
thể Chúa Kitô.
Phải,
Đời
Cầu Nguyện của người Kitô hữu được
bắt đầu từ khi họ chịu phép thánh tẩy
tái
sinh,
lúc mà họ được Ơn Nghĩa với Chúa, nghĩa
là được Chúa yêu thương, được “giao
tiếp” với Ngài trong Đấng “tự hiến để
họ được thánh hoá trong chân lý” (Gn 17:19), đó là
Con Một của Ngài cũng là “quả phúc của lòng Mẹ”
(Lc 1:42). Từ đó, Đời Cầu Nguyện của
người Kitô hữu sẽ càng sâu xa, càng chóng trổ sinh
muôn vàn hoa trái, khi Ơn Nghĩa Chúa trong họ, yếu tố
gắn liền họ với Thiên Chúa, cũng là yếu tố
để họ “giao tiếp” với Thiên Chúa, càng lớn
lên.
Thế
nhưng,
Ơn
Nghĩa Chúa trong con người Kitô hữu có thể nào lớn
lên được, nếu con người chủ thể mà
nó là hạt giống được gieo vào không phải là một
mảnh đất tốt, một mảnh đất không
như vệ đường hời hợt của cảm
giác, không sỏi đá nông cạn của lý trí hay gai góc tham
lo của lòng muốn.
Tóm
lại,
Đời Cầu Nguyện
là đời sống trong Ơn Nghĩa Chúa.
Mà, đời sống trong
Ơn Nghĩa Chúa lại là đời sống “trong tinh thần
(nghĩa tử) và chân lý (Cha con)” với Thiên Chúa.
Vậy,
Đời
Cầu Nguyện là một “lời than khôn tả” (Rm 8:26)
“Abba” (Rm
8:15):
“Lạy
Cha chúng con ở trên trời,
Chúng
con nguyện
Danh
Cha cả sáng,
Nước
Cha trị đến,
Ý Cha thể hiện dưới
đất cũng như trên trời.
Xin
Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày,
và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ
có nợ chúng con.
Xin
chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng
cứu chúng con cho khỏi sự dữ.”
Amen.
Kỷ
niệm 42 năm làm Con Thiên Chúa
11/10/1948-1990
Pomona, California, Hoa Kỳ
CAO-TẤN-TĨNH