Sứ
Điệp 1999 cho Ngày Giới Trẻ Thế Giới XIV
tại mỗi Giáo Phận
Chúa Cha Yêu Thương Các Con
“Chúa
Cha yêu thương các con”
(John
16:27)
Qúi bạn trẻ thân mến!
T |
rong chiều hướng Mừng Năm Thánh 2000 giờ
đây đang gần đến, th́ năm 1999 có mục đích
nhắm vào việc “mở rộng chân trời cho các tín
hữu để họ thấy được các sự
việc theo quan điểm của Chúa Kitô: quan điểm
về ‘Cha là Đấng ở trên trời’, Đấng sai
Chúa Kitô đến và là Đấng Chúa Kitô đă trở
về với Ngài” (Tông Thư Ngàn Năm Thư Ba Đang Đến,
đoạn 49). Thật vậy, không thể nào cử hành
Chúa Kitô và cuộc mừng kỷ niệm của Người
mà lại không cùng với Người hướng về
Thiên Chúa là Cha của Người cũng là Cha của chúng
ta (x.Jn.20:17). Chúa Thánh Thần cũng đưa chúng ta
về với Chúa Cha và Chúa Giêsu. Nếu Thần Linh dạy
cho chúng ta tuyên xưng “Đức Giêsu là Chúa” (x.1Cor.12:3) th́
cũng là để cho chúng ta có thể thưa cùng Thiên Chúa
“Abba! Cha ơi!” (x.Gal.4:6).
Cha cũng kêu gọi các con, cùng với toàn thể Giáo
Hội, hăy hướng về Thiên Chúa là Cha và, bằng
một tấm ḷng tri ân cảm mến, các con hăy lắng
nghe lời mạc khải lạ lùng của Chúa Giêsu: “Chúa
Cha yêu thương các con” (x.Jn.16:27). Đây là những lời
Cha trao gửi đến các con như là một đề
tài cho Ngày Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 14.
Qúi bạn trẻ thân mến, qúi bạn hăy nhận lấy
t́nh yêu mà Thiên Chúa đă yêu qúi bạn trước (x.1Jn.4:19).
Qúi bạn hăy nắm chắc lấy điều ấy,
một điều duy nhất có thể làm cho đời
sống có ư nghĩa, sức mạnh và niềm vui: t́nh yêu
của Ngài không bao giờ bỏ rơi qúi bạn, giao
ước an b́nh của Ngài không bao giờ xa ĺa qúi bạn
(x.Is.54:10). Ngài đă đóng mộc tên của qúi bạn
trong ḷng bàn tay của Ngài (x.Is.49:16).
2-
Điều này không phải lúc nào cũng có thể cảm
nhận thấy hay rơ ràng sáng tỏ, thế nhưng, trong
cơi ḷng con người vẫn có một khát vọng sâu xa
hướng về Thiên Chúa. Thánh I-Nhă thành Antiôkia đă
diễn tả niềm khát vọng này một cách sống động
như sau: “Trong tôi có một gịng nước sự sống
đang rạo rực chảy: ‘Hăy đến cùng Chúa Cha’” (Ad
Rom., 7). “Lạy Chúa, xin tỏ cho tôi quang vinh của Ngài”
(Ex.33:18), Moisen khi ở trên núi đă nài xin với Thiên Chúa
như thế.
“Chưa có ai đă từng được thấy
Thiên Chúa; Người Con duy nhất, Đấng ở trong
ḷng Cha, là Đấng tỏ Cha ra” (Jn.1:18). Thế nên, không
phải là chỉ cần biết Con là biết được
Cha hay sao? Tông đồ Philiphê không dễ ǵ chấp
nhận như vậy. Thánh nhân đă xin với Thày ḿnh: “xin
tỏ cho chúng con biết Cha”. Việc khẩn khoản
của thánh Philiphê tông đồ đă mang đến cho
chúng ta một câu trả lời vượt trên tất cả
những ǵ chúng ta có thể ước vọng: “Thày đă
chẳng ở với con bấy lâu hay sao, thế mà con
lại không biết Thày ư Philiphê? Ai thấy Thày chính là
thấy Cha” (Jn.14:9).
Việc Nhập Thể đă làm cho chúng ta có thể
thấy được Thiên Chúa nơi dung mạo con người:
“Hăy tin vào Thày là Thày ở trong Cha và Cha ở trong Thày”
(Jn.14:11). Chúa Giêsu nói lời này không những cho riêng tông đồ
Philiphê mà c̣n cho tất cả những ai sẽ tin vào Người
nữa. Và v́ thế, ai chấp nhận Con của Thiên Chúa
là chấp nhận Đấng đă sai Người
(x.Jn.13:20). Ngược lại, “ai ghét Thày cũng ghét cả
Cha Thày nữa” (Jn.15:23). Thế là một mối liên hệ
mới giữa Đấng Tạo Hóa và các tạo sinh
của Ngài đă được h́nh thành, một mối
liên hệ giữa con cái với Cha của ḿnh. Khi các môn đệ
muốn đi vào các bí nhiệm của Thiên Chúa và xin dạy
cho các vị biết cách cầu nguyện để hỗ
trợ cuộc hành tŕnh của các vị, Chúa Giêsu đă đáp
lại bằng việc dạy cho các vị Kinh Lạy
Cha là “một tổng hợp toàn bộ Phúc Aâm”
(Tertullianô, De Oratione, 1). Kinh Lạy Cha này là một lời
xác nhận về t́nh trạng chúng ta được trở
thành những người con nam nữ của Thiên Chúa
(x.Lk.11:1-4). “Một mặt, qua những lời kinh này,
Người Con duy nhất cống hiến cho chúng ta
những lời Chúa Cha đă ban cho Người: Người
là Tôn Sư dạy cầu nguyện. Mặt khác, là Lời
nhập thể, Người biết trong cơi ḷng nhân
loại của ḿnh các nhu cầu của anh chị em ḿnh và
tỏ cho chúng ta thấy những nhu cầu ấy: Người
là mô phạm cho việc cầu nguyện của chúng ta” (Giáo
Lư Giáo Hội Công Giáo, số 2765).
Khi tŕnh thuật cho chúng ta thấy các dấu chứng
trực tiếp về đời sống của Người
Con Thiên Chúa, Phúc Aâm Thánh Gioan cũng đă chỉ cho chúng ta
thấy một con đường phải theo để
biết được Chúa Cha. Việc kêu cầu cùng “Cha”
là một bí mật, là hơi thở, là sự sống
của Chúa Giêsu. Không phải hay sao, Người là Người
Con duy nhất, là trưởng tử, là Đấng được
Cha yêu, đối tượng mà mọi sự phải qui
về, Người hiện diện nơi Chúa Cha ngay
trước khi có thế gian, cùng thông phần vinh quang
của Cha? (x.Jn.17:5). Từ nơi Cha ḿnh, Chúa Giêsu đă lănh
nhận quyền năng trên tất cả mọi sự
(x.Jn.17:2), lănh nhận sứ điệp cần phải được
loan báo (x.Jn.12:49), lănh nhận công việc cần phải được
hoàn thành (x.Jn.14:31). Chính các môn đệ cũng không phải
là thành phần thuộc về Người: chính Cha là Đấng
đă trao họ cho Người (x.Jn.17:9), khi ủy thác cho
Người việc ǵn giữ họ khỏi gian ác, để
không một ai trong họ phải bị hư đi
(x.Jn.18:9).
Vào giờ Người qua khỏi thế gian mà
về cùng Cha, “lời nguyện tư tế” của Người
đă cho chúng ta thấy tâm trí của Người Con:
“Lạy Cha, xin Cha hăy tôn vinh Con nơi Cha thứ vinh quang mà
Con đă có nơi Cha trước khi thế gian được
tạo thành” (Jn.17:5). Là Tư Tế Tối Cao và Vĩnh
Hằng, Chúa Kitô đă dẫn đầu đoàn lũ đông
đảo thành phần được cứu chuộc. Là
trưởng tử của nhiều anh em, Người đă
dẫn về một đàn chiên duy nhất thành phần
chiên bị phân tán, để chỉ có “một đàn chiên
và một chủ chiên” (Jn.10:16).
Nhờ công việc của Người, chính mối
liên hệ yêu thương hiện diện nơi Ba Ngôi đă
được thể hiện nơi mối liên hệ
giữa Chúa Cha và nhân loại được cứu
chuộc: “Chúa Cha yêu thương các con!”. Mầu nhiệm
yêu thương này làm sao có thể hiểu được
nếu không có tác động của Thần Linh là Đấng
Cha tuôn đổ xuống trên các môn đệ nhờ lời
cầu nguyện của Chúa Giêsu (x.Jn.14:16)? Việc Lời
Hằng Hữu Nhập Thể trong thời gian và việc
của tất cả mọi người liên kết
với Người trong Bí Tích Rửa Tội được
sinh vào đời sống vĩnh cửu không thể nào
hiểu nổi nếu không có tác động ban sự sống
của chính vị Thần Linh này.
3-
“Thiên Chúa đă qúa yêu thương thế gian đến ban
Người Con duy nhất của ḿnh, để ai tin vào
Con th́ không phải chết song được sự
sống trường sinh” (Jn.3:16). Thế gian được
Thiên Chúa yêu thương! Và, bất chấp việc thế
gian có thể chối từ mối t́nh yêu này, thế
gian vẫn tiếp tục được Ngài yêu
thương cho đến cùng. “Chúa Cha yêu thương các
con” luôn măi và cho đến muôn đời: đó là một điều
mới mẻ chưa từng có, “một loan báo rất đơn
thành song sâu xa mà Giáo Hội mắc với nhân loại” (x.
Tông Huấn Christifideles Laici, đoạn 34). Cho dù Chúa
Con chỉ cần ban cho chúng ta lời này th́ đă đủ
rồi. “Hăy xem Chúa Cha đă yêu thương chúng ta biết
bao, cho chúng ta được gọi là con cái của Thiên
Chúa; và chúng ta thực sự là như vậy” (1Jn.3:1). Chúng
ta không phải là thành phần mồ côi; chúng ta đă được
thương yêu. V́, như các con biết, chúng ta không thể
nào yêu thương nếu chúng ta không được yêu.
Thế nhưng, chúng ta
phải làm sao để có thể loan báo tin mừng này? Chúa
Giêsu đă chỉ cho chúng ta đường lối phải
theo, đó là hăy lắng nghe Chúa Cha để được
“Thiên Chúa dạy bảo” (Jn.6:45) và giữ các giới răn
của Ngài (x.Jn.14:23). Nhờ đó kiến thức học được
từ Chúa Cha này sẽ lớn lên: “Con đă tỏ Danh Cha
cho họ, Con sẽ c̣n tỏ ra nữa” (Jn.17:26); và việc
tỏ ra này là việc của Chúa Thánh Thần, ở
chỗ Ngài sẽ dẫn chúng ta vào “tất cả sự
thật” (x.Jn.16:13).
Trong thời của chúng ta đây,
hơn bao giờ hết, Giáo Hội và thế giới
cần đến “các nhà truyền giáo” có khả năng
loan báo, bằng lời nói cũng như gương
mẫu, niềm xác tín sâu xa và an ủi ấy. Nhận thức
được như vậy, hỡi thành phần trẻ
của ngày hôm nay, cũng là thành phần người
lớn của ngàn năm mới, các con hăy tự để
cho ḿnh được “rèn luyện” nơi trường học
của Chúa Giêsu. Trong Giáo Hội, cũng như qua các hoàn
cảnh khác nhau của đời sống ḿnh, các con hăy trở
nên các chứng nhân có uy tín cho t́nh yêu của Chúa Cha! Các con hăy
làm cho t́nh yêu này sáng tỏ nơi các quyết định và
thái độ của các con, qua cách các con đối đăi
với tha nhân và qua việc các con dấn thân phục vụ
họ, trong việc các con trung thành tôn trọng ư muốn
của Thiên Chúa cũng như các giới răn của Ngài.
“Chúa Cha yêu thương các
con”. Những lời tuyệt vời này được
thốt lên trong cơi ḷng của tín hữu, thành phần mà,
như người môn đệ được Chúa Giêsu
thương, ngă đầu ḿnh vào ngực Chúa Giêsu để
nghe thấy những ǵ mật thiết: “Ai yêu mến Thày
sẽ được Cha Thày yêu thương, và Thày sẽ
thương yêu họ và tỏ ḿnh ra cho họ” (Jn.14:31), v́
“sự sống đời đời là ở chỗ
họ nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất
và Chúa Giêsu Kitô là Đấng Cha sai” (Jn.17:3).
T́nh yêu của Chúa Cha được
phản ảnh nơi các h́nh thức khác nhau của vai tṛ
làm cha mà các con gặp thấy trong cuộc đời
của các con. Cha đặc biệt nghĩ đến cha
mẹ của các con, những vị cộng tác với Thiên
Chúa trong việc sinh ra các con cũng như trong việc
chăm sóc cho các con: các con hăy tôn kính các ngài (x.Ex.20:12) và hăy
biết ơn các ngài! Cha nghĩ đến các vị linh
mục và các người tận hiến cho Chúa, thành
phần là bạn hữu của các con, là các nhân chứng
sống và là các thày đời, “giúp các con tiến bộ và
hân hoan trong đức tin” (Phil.1:25). Cha nghĩ đến
các nhà giáo dục chân chính, thành phần đem nhân tính
của ḿnh, sự khôn ngoan và đức tin của ḿnh để
góp phần quan trọng vào việc phát triển của các
con, một việc phát triển về Kitô Giáo cũng làm cho
toàn thể con người các con được phát
triển theo. Các con hăy luôn luôn biết cảm tạ Chúa
về từng người trong thành phần đồng
hành với các con trên con đường cuộc sống
ấy.
4-
“Chúa Cha yêu thương các con”. Việc nhận thức được
t́nh yêu đặc biệt của Thiên Chúa cũng không
thể không làm cho tín hữu phấn khởi trong việc
“chấp nhận, bằng cách bám chặt lấy Chúa Kitô là Đấng
Cứu Chuộc của con người, cuộc hành tŕnh
cải thiện thực sự… Cuộc hành tŕnh cải
thiện này có liên hệ đặc biệt tới việc
tái cảm nhận cũng như việc tham dự
nhiều hơn nữa vào bí tích Thống Hối, theo đúng
với ư nghĩa sâu xa nhất của bí tích này” (Tông Thư Ngàn
Năm Thứ Ba Đang Đến, đoạn 50).
“Tội lỗi là việc
lạm dụng tự do Thiên Chúa đă ban cho con người
tạo vật để họ có thể dùng nó mà yêu
mến Ngài và yêu thương nhau” (Giáo Lư Giáo Hội Công
Giáo, số 387); nó là việc chối từ sống sự
sống của Thiên Chúa mà họ lănh nhận khi chịu phép
Rửa Tội, khước từ việc để ḿnh được
T́nh Yêu chân thực yêu thương: nhân loại thực
sự có một quyền lực khủng khiếp trong
việc làm trở ngại Thiên Chúa muốn ban tặng
tất cả mọi sự tốt lành thiện hảo.
Tội lỗi, phát xuất từ ư muốn tự do
của con người (x.Mk.7:20), là việc vong bại
trước t́nh yêu chân chính; nó đả thương
bản tính con người và gây thương tổn đến
t́nh đoàn kết nhân loại, bằng các thái độ, lời
nói và việc làm hằn sâu tự ái (x. Giáo Lư Giáo Hội
Công Giáo, các số 1849-1850). Chính trong thẳm cung con
người là nơi tự do vươn lên tới t́nh yêu
hay khép ḿnh lại trước t́nh yêu. Đó là một
thảm kịch không ngừng diễn xuất nơi con
người, thành phần thường ưa thích chọn
lấy cho ḿnh cảnh làm nô lệ, ở chỗ bắt con
người nam hay nữ của ḿnh phải chịu đựng
các nỗi niềm sợ hăi, các mơ tưởng nhất
thời, các thái độ sai lệch, khi tạo nên
những ngẫu tượng làm chủ nhân tính con người
nam hay nữ của ḿnh, cũng như tạo nên các ư thức
hệ làm hạ giá nhân tính con người nam hay nữ
của ḿnh. Chúng ta đọc thấy trong Phúc Aâm Thánh Gioan:
“Ai phạm tội là làm nô lệ cho tội” (Jn.8:34).
Chúa Giêsu đă kêu gọi
mọi người: “Hăy hối cải và tin vào Phúc Aâm”
(Mk.1:15). Mọi cuộc cải thiện chân chính đều
được khơi nguồn từ ánh mắt Thiên Chúa đoái
nh́n tội nhân. Đó là một ánh mắt biến thành
một cuộc t́m kiếm đầy những yêu
thương; đó là một cuộc khổ nạn, cho dù
là một cuộc khổ nạn của Thập Giá; đó
là một ư muốn thứ tha khiến cho tội nhân
thấy con người nam hay nữ của họ vẫn
c̣n được tôn trọng và yêu thương, ngược
lại với t́nh trạng bại hoại nhận ch́m
họ xuống, một ư muốn kêu mời họ quyết
tâm sửa lại nếp sống của ḿnh. Đó là
trường hợp của Lêvi (x.Mk.2:13-17), của Giakêu
(x.Lk.19:1-10), của người đàn bà bị bắt
phạm tội ngoại t́nh (x.Jn.8:1-11), của người
trộm lành (x.Lk.23:39-43), của người phụ nữ
Samaritanô (x.Jn.4:1-30): “Con người không thể sống mà
lại không yêu. Họ măi là một hữu thể không
thể hiểu được bản thân ḿnh, cuộc
sống của họ vô nghĩa, nếu t́nh yêu không tỏ
ḿnh ra cho họ, nếu họ không gặp được
t́nh yêu, nếu họ không cảm thấy t́nh yêu và biến
t́nh yêu thành của ḿnh, nếu họ không mật thiết
dự phần vào t́nh yêu” (Thông Điệp Redemptor Hominis,
đoạn 10). Con người có khám phá và cảm nghiệm
được Thiên Chúa của t́nh thương và của
ơn tha thứ mới có thể hoàn toàn sống trong
trạng thái liên tục trở về cùng Thiên Chúa” (x. Thông Điệp
Dies in Misericordia, đoạn 3).
“Chị hăy đi và đừng
tái phạm tội nữa” (Jn.8:11): ơn tha thứ được
ban tặng nhưng không, song con người được
mời gọi để đáp ứng bằng việc
dốc quyết canh tân đời sống ḿnh. Thiên Chúa qúa
biết tạo vật của Ngài! Ngài không phải là không
biết rằng t́nh yêu của Ngài càng bộc lộ cao
cả th́ cuối cùng sẽ làm cho ḷng ghê tởm tội
lỗi nổi dậy trong tội nhân. Bởi thế mà t́nh
yêu của Thiên Chúa được tỏ bày là để
liên tục ban ơn tha thứ.
Hấp dẫn biết bao
dụ ngôn về người con hoang đàng! Từ lúc
người con bỏ nhà ra đi, người cha sống
trong một tâm trạng lo âu: ông chờ đợi, mỏi mong,
mắt cứ trông về chân mây cuối trời. Oâng tôn
trọng tự do của đứa con ḿnh, song ông phải
khổ đau phiền muộn. Thế rồi, khi người
con quyết tâm trở về, người cha thấy đứa
con từ đàng xa liền đến đón gặp nó, gh́
chặt lấy nó trong ṿng tay của ḿnh và hớn hở
bảo: “Hăy xỏ nhẫn – biểu hiệu cho giao
ước - vào ngón tay cậu, mang y phục đẹp
nhất - biểu hiệu cho sự sống mới –
mặc vào cho cậu, xỏ giầy – biểu hiệu cho
phẩm vị được phục hồi – vào chân
cậu, và chúng ta hăy mừng rỡ hân hoan, v́ đứa con này
của ta đă chết nay sống lại; bị thất
lạc nay trở về!” (x.Lk.15:11-32).
5-
Trước khi lên cùng Cha, Chúa Giêsu đă ủy thác cho Giáo
Hội thừa tác vụ ḥa giải (x.Jn.20:23). Bởi
thế, việc thống hối chỉ có ở trong ḷng th́
chưa đủ để được ơn Thiên Chúa
thứ tha. Việc được ḥa giải với Thiên
Chúa là nhờ việc ḥa giải với cộng đồng
giáo hội. Do đó, việc thú nhận tội lỗi
phải được tỏ ra bằng một cử
chỉ bí tích cụ thể: đó là cử chỉ ăn
năn thống hối và xưng thú tội lỗi, với
ư định cải thiện đời sống,
trước mặt vị thừa tác viên của Giáo
Hội.
Bất hạnh thay, ngày nay càng có nhiều người
mất ư thức tội lỗi th́ họ lại càng ít
chạy đến kêu cầu ơn Thiên Chúa thứ tha. Đó
là căn nguyên gây ra nhiều rắc rối và trục
trặc cho thời đại của chúng ta đây. Năm
nay Cha mời gọi các con hăy tái khám phá ra nét mỹ lệ
và tính chất phong phú của ân sủng nơi bí tích
Thống Hối, bằng việc đọc lại một
cách kỹ lưỡng hơn dụ ngôn người con
hoang đàng, một dụ ngôn không nhấn mạnh
nhiều đến tội lỗi của con người
cho bằng đến tấm ḷng dịu dàng êm ái của
Thiên Chúa cũng như đến t́nh thương của
Ngài. Lắng nghe Lời Chúa trong tinh thần cầu
nguyện, chiêm niệm, cảm mến và xác tín, các con hăy
thưa với Thiên Chúa: “Con cần Chúa; con nương
tựa vào Chúa để hiện hữu và sống động.
Chúa c̣n mạnh mẽ hơn tội lỗi của con. Con
tin vào quyền lực của Chúa hoạt động trong
cuộc đời của con; con tin rằng Chúa có thể cứu
con như con hiện giờ đây. Xin Chúa hăy đoái
thương đến con. Xin Chúa hăy tha thứ cho con!”
Các con hăy ngắm nh́n bản thân ḿnh từ “bên trong”.
Tội lỗi, trước khi phạm đến lề
luật hay đến tiêu chuẩn luân lư, th́ đă phạm đến
Thiên Chúa (x.Ps.50/51:6), phạm đến anh chị em của
các con cũng như phạm đến chính ḿnh rồi. Các
con hăy đứng trước Chúa Kitô, Con duy nhất
của Chúa Cha và là mô phạm cho tất cả mọi anh
chị em. Chỉ có một ḿnh Người mới tỏ
cho chúng ta thấy những ǵ chúng ta cần phải có trong
mối liên hệ với Chúa Cha, với tha nhân, với xă
hội, để chúng ta được sống an b́nh
với chính bản thân ḿnh. Người tỏ cho chúng ta
thấy những điều này nơi Phúc Aâm, một Phúc
Aâm với Chúa Giêsu Kitô cũng chỉ là một. Trung thành
với Phúc Aâm là mức đo lường ḷng trung thành
với Chúa Kitô, hay ngược lại.
Các con hăy tin tưởng chạy đến với bí
tích Thống Hối: bằng việc xưng thú tội
lỗi ḿnh là các con chứng tỏ các con muốn công
nhận việc bất trung của các con và muốn
chấm dứt việc làm bất trung này; bằng việc
xưng thú tội lỗi, các con cũng nhận rằng các
con cần phải cải thiện và ḥa giải để
t́m lại an b́nh cùng sinh lực của việc làm con cái
Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô; bằng việc xưng thú tội
lỗi, các con c̣n nói lên t́nh đoàn kết với anh chị
em ḿnh là những người cũng đă bị tội
lỗi thử thách (x. Giáo Lư Giáo Hội Công Giáo, số
1445).
Sau hết, các con hăy lấy ḷng biết ơn để
lănh nhận việc linh mục xá tội cho các con. Đó là
lúc Người Cha tuyên bố với tội nhân thống
hối lời ban sự sống này: “Đứa con này
của Ta hồi sinh lại rồi!”. Nguồn Mạch t́nh
yêu tái sinh chúng ta và làm cho chúng ta có khả năng chế
ngự cái tôi của ḿnh cũng như có khả năng yêu
thương trở lại, mạnh mẽ hơn
trước.
6-
“Các người phải kính mến Chúa là Thiên Chúa của
các người hết ḷng, hết linh hồn và hết trí
khôn các người. Đó là giới răn trọng và là
giới răn thứ nhất. Giới răn thứ hai
cũng như giới răn thứ nhất: Các người
phải yêu mến tha nhân như chính ḿnh. Tất cả
Lề Luật và các lời Tiên Tri đều hệ tại
hai giới răn này” (Mt.22:37-40). Chúa Giêsu không nói rằng
giới răn thứ hai là một với giới răn thứ
nhất, mà là “như giới răn thứ nhất”.
Vậy hai giới răn này không thể hoán chuyển nhau,
như thể chúng ta có thể tự động làm
thỏa đáng giới răn kính mến Thiên Chúabằng
việc giữ giới răn yêu mến tha nhân, hay ngược
lại. Mỗi giới răn đều có cái nổi
của ḿnh và cả hai đều phải được
tuân giữ. Thế nhưng, Chúa Giêsu đặt hai giới
răn này bên nhau để làm sáng tỏ cho mọi người
thấy rằng, hai giới răn này có liên hệ chặt
chẽ với nhau. Không thể nào thi hành giới răn này
mà lại không giữ giới răn kia. “Việc hiệp
nhất bất khả phân ly của chúng được
Chúa Kitô chứng thực bằng lời Người nói và
bằng chính đời sống của Người: sứ
mệnh của Người đạt tới tuyệt đỉnh
nơi Thập Giá để Cứu Chuộc chúng ta, một
dấu hiệu của t́nh yêu bất phân chia đối
với Chúa Cha và với nhân loại” (Thông Điệp Veritatis
Splendor, đoạn 14).
Để biết chúng ta có thực sự kính mến
Thiên Chúa hay không, chúng ta phải coi xem chúng ta có thiết tha
yêu thương tha nhân hay không. Và nếu chúng ta muốn xem
phẩm chất của t́nh chúng ta yêu thương tha nhân,
chúng ta phải hỏi chính ḿnh xem chúng ta có thực sự
kính mến Thiên Chúa chưa. V́ “ai không yêu mến anh em ḿnh là
thành phần họ thấy được cũng không
thể kính mến Thiên Chúa là Đấng họ không trông
thấy” (1Jn.4:20); và “căn cứ vào điều này mà chúng
ta biết được rằng chúng ta yêu mến con cái
của Thiên Chúa, đó là khi chúng ta kính mến Thiên Chúa và tuân
giữ các giới răn của Ngài” (1Jn.5:2).
Trong Tông Thư Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến,
Cha đă khuyên giục Kitô hữu “hăy chú trọng nhiều
hơn đến giải pháp Giáo Hội ưa chuộng
người nghèo và người lạc loài” (đoạn
51). Đây là một giải pháp “ưa chuộng” chứ
không phải là một giải pháp bó buộc duy nhất.
Chúa Giêsu kêu mời chúng ta yêu mến người nghèo, v́
họ cần phải được đặc biệt
chú trọng chính bởi tính chất dễ bị tổn
thương của họ. Như chúng ta qúa rơ, họ càng
ngày càng nhiều, cho dù các sản vật của thế
giới này là để cho mọi người đi
nữa, thậm chí họ có ngay cả nơi các xứ sở
được gọi là thịnh vượng! Mọi
trường hợp nghèo khổ đều là những thách
đố cho đức bác ái Kitô Giáo của mỗi một
người Kitô hữu. Tuy nhiên, đức bác ái này cũng
cần phải biến thành một việc dấn thân
về xă hội cũng như về chính trị nữa, v́
những trường hợp cụ thể cần phải
được cải tiến trong vấn đề nghèo
khổ trên thế giới tùy thuộc ở những con
người thiện chí nam nữ, thành phần xây dựng
nền văn minh yêu thương. Những trường hợp
cụ thể cần phải được cải
tiến trong vấn đề nghèo khổ trên thế
giới ấy là “các cấu tạo của tội lỗi”,
là những ǵ không thể nào khắc phục được
mà lại thiếu việc mọi người hợp tác
với nhau, ở chỗ họ sẵn sàng “đánh mất
ḿnh đi” cho tha nhân hơn là khai thác tha nhân, ở chỗ
“phục vụ” tha nhân thay v́ đàn áp tha nhân (x.Thông Điệp
Sollicitudo Rei Socialis, đoạn 38).
Qúi bạn trẻ thân mến, Cha đặc biệt mời
gọi qúi bạn hăy thực hiện những việc làm
cụ thể đầu tiên của t́nh đoàn kết,
cũng như của việc chia sẻ bên cạnh
những ai nghèo khổ nhất và chia sẻ với
những người nghèo khổ nhất. Qúi bạn hăy
quảng đại tham gia vào một dự án nào đó, để
nhờ thế, trong các xứ sở khác nhau, những
bạn trẻ đương thời khác của qúi
bạn cũng được dự phần vào các nghĩa
cử huynh đệ và t́nh đoàn kết này. Thực
hiện như vậy sẽ là cách qúi bạn “phục
hồi” cho Chúa, nơi những con người nghèo khổ,
tối thiểu một điều ǵ đó trong tất
cả những ǵ Người đă ban cho qúi bạn là thành
phần may mắn hơn họ. Thực hiện như
thế qúi bạn c̣n cho thấy một cách cụ thể
ngay được giải pháp nồng cốt qúi bạn
lựa chọn trong việc hoàn toàn qui hướng cuộc
đời ḿnh về Thiên Chúa và tha nhân.
7-
Mẹ Maria gồm tóm nơi con người Mẹ tất
cả mầu nhiệm về Giáo Hội. Mẹ là “nữ
tử đầy ơn phúc của Chúa Cha” (Tông Thư Ngàn
Năm Thứ Ba Đang Đến, đoạn 54),
người đă tự do chấp nhận và sẵn sàng đáp
lại tặng ân của Thiên Chúa. Là “nữ tử” của
Chúa Cha, Mẹ đă xứng đáng trở nên Mẹ
của Con Ngài: “Xin hăy thực hiện nơi tôi theo như lời
ngài” (Lk.1:37). Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, v́ Mẹ là nữ
tử hoàn hảo của Chúa Cha.
Trong tâm hồn Mẹ không có một ước
muốn nào khác ngoài ước muốn giúp cho các Kitô hữu
dấn thân sống làm con cái Thiên Chúa. Là một người
mẹ dịu dàng nhất, Mẹ liên lỉ dẫn họ đến
với Chúa Giêsu, để theo Người, họ biết
làm phát triển mối liên hệ của họ với Chúa
Cha trên trời. Như ở tại tiệc cưới
Cana, Mẹ kêu gọi họ tuân theo những ǵ Chúa Giêsu
bảo họ làm (x.Jn.2:5), v́ Mẹ biết rằng đó mới
là đường lối tiến tới nhà của “Người
Cha giầu ḷng xót thương” (x.2Cor.1:3).
Ngày Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 14,
một ngày sẽ được cử hành trong năm nay
tại các Giáo Hội địa phương, một Ngày Giới
Trẻ Thế Giới cuối cùng trước ngày hẹn
trọng đại cho Cuộc Mừng Kỷ Niệm. Bởi
thế, nó có một tầm quan trọng đặc biệt
trong việc sửa soạn cho Năm Thánh 2000. Cha cầu
nguyện cho mỗi một người trong các con để
Ngày Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 14 này được
trở thành một cơ hội cho việc gặp gỡ mới
mẻ giữa các con với Chúa sự sống cũng
như với Giáo Hội của Người.
Cha kư thác cuộc hành tŕnh của các con cho Mẹ Maria,
và Cha xin Mẹ làm cho ḷng các con được biết
sẵn sàng lănh nhận ân sủng của Chúa Cha, để
các con có thể trở nên các chứng nhân cho t́nh yêu của
Ngài.
Với ḷng qúi mến ấy, nguyện chúc các con
một năm dồi dào trong đức tin và trong việc
dấn thân truyền bá phúc âm, Cha ban phép lành cho tất
cả các con bằng tấm ḷng của Cha.
Tại diện Vatican ngày 6 tháng 1 năm 1999,
Lễ Chúa Hiển Linh.
Gioan Phaolô II.
(Tuần san L’Osservatore Romano,
ấn bản Anh ngữ, số 3, ngày 20-1-1999, trang 3
và 9)