-1-
"Một
Chúa Giêsu Kitô:
Hôm Qua và
Nay..."
(Heb.13:8)
1- Trong lúc mà Ngàn
Năm Thứ Ba của một tân thiên niên gần đến,
th́ tâm tưởng của chúng ta tự nhiên nghĩ đến
những lời của thánh tông đồ Phaolô: "Khi thời
gian viên trọn, Thiên Chúa đă sai Con Ngài đến, được
hạ sinh bởi một người nữ" (Gal.4:4). Thời
gian viên trọn này trùng hợp với mầu nhiệm
nhập thể của Ngôi Lời, của Con, Đấng
là một với Cha và với mầu nhiệm cứu
chuộc trần gian. Trong đoạn thư này, thánh Phaolô nhấn
mạnh rằng: Con Thiên Chúa được hạ sinh bởi
một người nữ, được hạ sinh theo
lề luật, và đến thế gian để cứu
chuộc tất cả những ai lệ thuộc lề
luật, để họ nhận được ơn làm
nghĩa tử, nghĩa nữ. Rồi thánh nhân thêm: "V́
anh em là những người con, Thiên Chúa đă sai Thần
Linh của Con Ngài vào tâm hồn của chúng ta, kêu lên 'Abba!
Lạy Cha!'" Và lời ngài kết luận thật là an ủi:
"Thế nên, do Thiên Chúa anh em không c̣n là nô lệ mà là con
cái, và nếu là con cái th́ anh em là kẻ thừa tự"
(Gal.4:6-7).
Việc thánh Phaolô tŕnh bày mầu nhiệm Nhập Thể
bao gồm mạc khải về mầu nhiệm Ba Ngôi, và
về công cuộc của Con được tiếp tục
nơi sứ mệnh của Chúa Thánh Thần. Việc
nhập thể của Con Thiên Chúa, việc Người được
thụ thai và hạ sinh, là điều kiện tiên quyết
cho việc Chúa Thánh Thần được sai đến.
Như thế, đoạn văn này của thánh Phaolô đă
làm sáng tỏ sự viên trọn của mầu nhiệm
Nhập Thể cứu rỗi.
2- Trong Phúc Âm của ḿnh, thánh Luca đă truyền lại cho
chúng ta một tŕnh thuật trọn gọn về trường
hợp giáng sinh của Chúa Giêsu: "Vào những ngày ấy,
hoàng đế Cêsa Augustô ban sắc lệnh truyền cho toàn
cơi đế quốc của ḿnh phải khai tên làm sổ...
Nên tất cả mọi người đă đi khai tên làm
sổ tại quê qúan của ḿnh. Giuse cũng từ thành
Nazarét xứ Galilêa xuống Giuđêa, đến thành Đavít
là Bêlem, v́ người là gịng dơi của nhà Đavít, để
khai tên làm sổ với Maria, người bạn đính hôn
đang có thai của ḿnh. Khi các ngài đang ở đó th́
ngày sinh nở của Maria đă đến. Maria đă sinh
con trai đầu ḷng, bọc Người trong khăn và đặt
Người nằm trong máng cỏ, v́ các ngài không có chỗ
nào để trọ" (2:1,3-7).
Như thế là điều Thiên Thần Ga-Biên báo trước
vào lúc truyền tin đă được nên trọn. khi thiên
thần nói cùng Trinh Nữ Nazarét những lời này:
"Kính mừng đầy ơn phúc, Chúa ở cùng trinh
nữ" (Lk.1:28). Maria bối rối khi nghe thấy
những lời này, v́ thế, vị sứ giả thần
linh liền thêm: "Hỡi Maria, đừng sợ, v́ trinh
nữ đă được ơn nghĩa cùng Thiên Chúa. Này đây
trinh nữ sẽ thụ thai và cưu mang một người
con trai, Đấng trinh nữ sẽ gọi tên là Giêsu. Người
sẽ là một Đấng cao cả và sẽ được
gọi là Con Đấng Tối Cao... Chúa Thánh Thần
sẽ đến với trinh nữ và quyền phép Đấng
Tối Cao sẽ bao phủ trinh nữ; bởi thế con
trẻ sinh ra sẽ được gọi là thánh, là Con
Thiên Chúa" (x.Lk.1:30-33,35). Maria đă không ngần ngại đáp
lại lời thiên thần: "Này tôi là nữ t́ của Chúa;
xin hăy thực hiện nơi tôi theo như lời của
ngài" (Lk.1:38). Chưa bao giờ lịch sử loài người,
như lần này, lại tùy thuộc vào việc đồng
ư của một tạo vật đến như vậy
(x.thánh Bênađô).
3- Thánh Gioan, trong phần Mở Đầu Phúc Âm của
ḿnh, chỉ bằng một câu, đă gói trọn tất
cả ư nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Nhập
Thể. Ngài viết: Và Lời đă hóa thành nhục thể
và ở giữa chúng ta, đầy ân sủng và chân lư; chúng
ta đă được thấy vinh hiển của Người,
vinh hiển của Người Con duy nhất đến từ
Cha (1:14). Đối với thánh Gioan, việc nhập
thể của Lời hằng hữu làm một với Cha được
thực hiện nơi cuộc đầu thai và hạ sinh
của Chúa Giêsu. Thánh kư nói về Lời ở nơi Cha ngay
từ ban đầu, và nhờ Người mà mọi
vật hiện hữu được tạo thành; trong Người
là Ngôi Lời có sự sống, một sự sống là ánh
sáng soi con người (x.1:1-4). Về Người Con duy
nhất là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa này, thánh tông đồ
Phaolô viết rằng: Người là "trưởng
tử của mọi tạo vật" (Col.1:15). Bởi
Ngôi Lời, Thiên Chúa đă tạo dựng nên thế gian này.
Ngôi Lời là sự khôn ngoan đời đời; là tư
tưởng và là h́nh ảnh chính yếu của Thiên Chúa;
"Người phản ảnh vinh hiển của Cha và là
hiện thân đích thực của bản tính Cha"
(Heb.1:3) Từ đời đời được Cha sinh
ra và yêu mến, như Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi
ánh sáng, Người là nguyên lư (principle) và là mẫu thức
(archetype) của mọi sự Thiên Chúa dựng nên trong thời
gian.
Sự thật xẩy ra là, vào lúc thời gian viên trọn, Lời
hằng hữu đă nhận lấy thân phận của
một tạo vật, làm cho biến cố xẩy ra ở
Bê-Lem 2000 năm trước đây có một giá trị đặc
biệt theo vũ trụ quan. Nhờ Ngôi Lời mà thế
giới tạo vật hiện lên như một "khu vườn
muôn mầu" (cosmos), một vũ trụ lớp lang (an
ordered universe). Và cũng chính Ngôi Lời, bằng việc
mặc lấy xác thể, đă canh tân lại trật
tự vũ trụ của tạo vật. Bức Thư gửi
cho các tín hữu Êphêsô nói về mục đích mà Thiên Chúa đă
phác họa nơi Chúa Kitô "một dự án cho thời điểm
viên trọn, đó là để hiệp nhất tất
cả trong Người, những sự trên trời cùng
những sự dưới đất" (1:9-10).
4- Chúa Kitô, đấng cứu chuộc thế giới, là
trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người. nên
không có một danh hiệu nào khác ở dưới gầm
trời này có thể cứu được chúng ta (x.Acts
4:12). Như chúng ta đọc thấy trong Thư gửi cho
các tín hữu Êphêsô: "Nơi Đức Kitô, chúng ta nhờ
máu của Người mà được ơn cứu
chuộc, được ơn tha thứ những lỗi
phạm của ḿnh, theo ân sủng dồi dào Thiên Chúa tuôn đổ
xuống trên chúng ta. V́ Thiên Chúa đă tỏ cho chúng ta,
bằng tất cả khôn ngoan và sáng suốt... mục đích
của Ngài đă phác họa nơi Chúa Kitô một dự án
cho thời điểm viên trọn, mục đích đó là
hiệp nhất tất cả trong Người, những
sự trên trời cùng những sự dưới đất"
(1:7-10). V́ thế, Chúa Kitô, Ngôi Con là một với Chúa Cha, là
Đấng mạc khải dự án của Thiên Chúa cho
tất cả mọi tạo vật, đặc biệt là
cho con người. Theo một câu đáng nhớ của Công
Đồng Chung Vaticanô II th́ Chúa Kitô "hoàn toàn tỏ cho
con người biết về chính con người và làm sáng
tỏ ơn gọi cao trọng của họ" (hiến
chế Gaudium et Spes, đoạn 22). Người tỏ cho
chúng ta ơn gọi này bằng việc mạc khải
mầu nhiệm về Cha và về t́nh yêu của Cha.
5- Việc "trở nên một người trong chúng
ta" (hiến chế Vui Mừng Và Hy Vọng, đoạn
22) nơi phần của Con Thiên Chúa đă xẩy ra hết
sức khiêm hèn, nên không lạ ǵ các sử gia đời,
chỉ chú trọng vào những biến cố náo động
và những nhân vật danh tiếng, đă lấy Người,
cho dù có quan trọng, cũng chỉ là những viện
dẫn (references) mà thôi. Những viện dẫn về Chúa
Kitô được t́m thấy trong "Các Truyện Cổ
Về Dân Do Thái", một tác phẩm do sử gia Flavius
Josephus tổng hợp ở Rôma vào giữa những năm
93 và 94, và nhất là trong "Annals" của Tacitus, được
viết vào giữa những năm 115 và 120, một tài
liệu mà khi tường thuật lại vụ thành Rôma
bị cháy năm 64, Nêrô đă tưởng lầm là do
những người Kitô giáo làm, nhà viết sử đă
tỏ tường dẫn chứng về Chúa Kitô
"bị hành xử theo lệnh của quan tổng
trấn Phongxiô Philatô trong triều đại Tibêriô".
Cả Suetonius nữa, trong cuốn truyện viết quăng
năm 121 về đời của hoàng đế Claudiô, cho
chúng ta biết rằng, những người Do Thái bị đuổi
khỏi thành Rôma v́ "họ thường gây nên những
cuộc phiến loạn theo xúi giục của một
số Chrestus" (Vita Claudii 25:4). Đoạn văn này thường
được cắt nghĩa như ám chỉ về Chúa
Giêsu Kitô, Đấng đă trở nên căn nguyên tranh căi
trong những cộng đồng Do Thái ở Rôma. Việc
phát triển nhanh chóng của Kitô giáo cũng là một chứng
cớ quan trọng, như đă được Tiểu
Pliny, vị tổng trấn ở Bithynia, tường tŕnh
cho hoàng đế Trajan, vào giữa những năm 111 và 113,
về t́nh h́nh có một số đông dân chúng thường
hay tụ họp nhau "vào một ngày ấn định,
trước hừng đông, để luân phiên hát thánh ca chúc
tụng Đức Kitô như là một vị Thiên Chúa"
(Epist.10:96).
Thế nhưng, biến cố vĩ đại mà những
sử gia ngoài Kitô giáo chỉ đề cập đến
qua loa ấy lại có một tầm vóc hết sức quan
trọng nơi những bản văn của Tân Ước.
Những bản văn này, cho dù có là những văn
kiện về đức tin đi nữa, nếu chúng ta để
ư đến mối iên hệ toàn diện của chúng, th́ chúng
cũng là những chứng cớ lịch sử không
phải không đáng tin. Đức Kitô, Thiên Chúa thật và
là người thật, Chúa của vũ trụ, cũng là
Chúa của lịch sử, một lịch sử mà Người
là "Alpha và Omega" (Rev.1:8;21:6), là "nguyên thủy và là
cùng đích" (Rev.21:6). Nơi Người, Chúa Cha đă
nói lên một lời thực sự về con người
và về lịch sử của họ. Lời này được
diễn tả một cách tóm gọn và hùng hồn qua Bức
Thư gửi cho giáo đoàn Do Thái: "Bằng nhiều
thể nhiều cách, xưa kia Thiên Chúa đă nói với cha
ông chúng ta nhờ các tiên tri; thế nhưng, trong những
ngày sau hết này, Ngài đă nói với chúng ta qua Người
Con" (Heb.1:1-2).
6- Chúa Giêsu được sinh ra từ dân tuyển chọn để
hoàn tất lời hứa mà Abraham đă lănh nhận và các
tiên tri liên tục nhắc nhớ. Các tiên tri nhân danh Thiên Chúa
và thay cho Ngài mà nói. Thật vậy, công cuộc của
Cựu Ước được sắp xếp chính là để
sửa soạn và loan truyền cho việc Đức Kitô đến,
Đấng cứu chuộc hoàn vũ, cũng như cho vương
quốc mà Người thiết lập. Bởi thế,
những cuốn sách của Cựu Ưùớc măi măi là
một chứng cớ cho một giáo thuyết thần linh
xác thực (x. hiến chế Mạc Khải đoạn
15). Giáo thuyết này đă đạt mục tiêu của nó
nơi Đức Kitô: đúng thếø Chúa Giêsu không chỉ
"nhân danh Chúa" mà nói như các vị tiên tri, mà Người
chính là Thiên Chúa nói bằng Lời hằng sống nhập
thể của ḿnh. Ở đây chúng ta chạm đến
một điểm chính yếu làm cho Kitô giáo khác với
tất cả mọi tôn giáo khác, những tôn giáo diễn
tả việc con người t́m kiếm Thiên Chúa từ
những thời cổ xưa nhất. Khởi điểm
của Kitô giáo bắt nguồn từ việc Lời
nhập thể. Như thế, không phải là con người
t́m kiếm Thiên Chúa, mà là Thiên Chúa đích thân đến nói với
chính con người, và chỉ cho con người đường
nẻo để con người có thể đến với
Ngài. Đó là điều đă được công bố
trong Phần Nhập Đề của Phúc Âm thánh Gioan:
"Chưa có ai đă từng thấy được Thiên
Chúa; Người Con duy nhất, Đấng ở trong ḷng
Cha, Người đă tỏ Cha ra" (Jn.1:18). Như
thế, Lời nhập thể làm thỏa nguyện ước
vọng nơi tất cả các đạo giáo của nhân
loại. Chính Thiên Chúa đă làm cho con người được
thỏa nguyện, ngoài mọi ước mong của con người.
Đó là một mầu nhiệm của ân sủng.
Nơi Chúa Kitô, tôn giáo không c̣n là một "cuộc kiếm
t́m Thiên Chúa một cách mù quáng" (Acts 17:27) nữa, mà là
một đáp ứng của đức tin vào Thiên Chúa là Đấng
tỏ ḿnh ra. Nó là một đáp ứng mà con người
nói với Thiên Chúa như với Hóa Công, với một Người
Cha, một đáp ứng đă thành hiện thực nhờ
một con người cũng chính là Ngôi Lời, mà nơi
Người, Thiên Chúa đă nói với từng người,
và nhờ Người mỗi người có thể đáp
lại Thiên Chúa. C̣n nữa, cũng ở nơi con người
này mà mọi tạo vật đáp lại Thiên Chúa. Chúa Giêsu
Kitô là một khởi sự mới cho tất cả
mọi sự. Nơi Người, tất cả mọi
sự có; chúng được thăng hóa rồi được
trả về cho Hóa Công là Đấng dựng nên chúng. Như
thế, Đức Kitô là măn nguyện của ước
vọng cho mọi tôn giáo trên thế giới, nên Người
làø tầm mức viên trọn đích thực duy nhất của
họ. Thiên Chúa nói thẳng với con người nơi Đức
Kitô thế nào, tất cả loài người và toàn thể
tạo vật cũng tự ḿnh nói với Thiên Chúa trong Đức
Kitô như vậy, thực sự đó là việc tự
hiến ḿnh cho Thiên Chúa. Mọi vật trở về với
cội nguồn của ḿnh là vậy. Chúa Giêsu Kitô làm cho
mọi sự tái tạo (x.Eph.1:10), đồng thời làm hoàn
tất mọi sự trong Thiên Chúa: một hoàn tất làm
vinh danh Thiên Chúa. Tôn giáo có nền tảng nơi Đức
Kitô là một tôn giáo vinh quang; nó là một tầm vóc mới
mẻ của sự sống để chúc tụng vinh quang
Thiên Chúa (x.Eph.1:12). Tất cả mọi tạo vật
thực sự là một biểu hiện của vinh quang Người.
Đặc biệt con người (vivens homo) là sự
hiển linh của vinh quang Thiên Chúa, một loài được
kêu gọi để sống bằng sự sống viên
trọn trong Thiên Chúa.
7- Nơi Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa chẳng những nói với
loài người mà c̣n t́m kiếm họ nữa. Việc Con
Thiên Chúa nhập thể chứng tỏ là Thiên Chúa đi t́m
kiếm con người. Chúa Giêsu nói về việc t́m
kiếm này như t́m kiếm một con chiên lạc đàn
(x.Lk.15:1-7). Đó là một cuộc t́m kiếm mà khởi điểm
bắt đầu từ cơi ḷng của Thiên Chúa và đích điểm
ở nơi việc nhập thể của Ngôi Lời.
Nếu Thiên Chúa đi t́m con người, loài được
dựng nên theo h́nh ảnh Ngài và giống như Ngài, là v́ đời
đời Ngài yêu thương họ nơi Ngôi Lời, và
trong Đức Kitô Ngài muốn nâng họ lên danh phận làm
một người con được thừa nhận.
Thế nên, Thiên Chúa đi t́m kiếm con người là sở
hữu đặc biệt của Ngài bằng một đường
lối không giống như các tạo vật khác. Con người
là sở hữu của Thiên Chúa bởi việc yêu thương
chọn lựa: Thiên Chúa t́m kiếm con người theo
tấm ḷng hiền phụ rung cảm của ḿnh.
Tại sao Thiên Chúa lại t́m kiếm con người? Là v́
con người đă bỏ Ngài mà đi, ẩn ḿnh đi như
Adong đă làm trong Vườn Địa Đàng (x.Gn.3:8-10).
Con người đă để cho ḿnh bị kẻ thù của
Thiên Chúa (x.Gn.3:13) làm lạc hướng. Satan đă đánh
lừa con người, làm cho con người tin rằng
họ cũng là một thần linh, như Thiên Chúa, họ
có khả năng biết lành biết dữ, cai trị
thế giới theo ư ḿnh mà không cần phải căn cứ
vào ư muốn thần linh (x.Gn.3:5). Đi t́m kiếm con người
qua Con của ḿnh như thế là Thiên Chúa muốn chinh phục
con người, để họ rời bỏ những đường
nẻo gian ác đă dẫn họ càng ngày càng đi sai
lạc. "Làm cho họ rời bỏ" những đường
nẻo này nghĩa là làm cho họ hiểu được
rằng họ đang đi sai đường lạc hướng;
nghĩa là chế ngự sự dữ ở bất cứ
giai đoạn nào trong lịch sử loài người.
Chế ngự sự dữ: đó là ư nghĩa của
việc cứu chuộc. Điều này đă được
thực hiện nơi việc hy sinh của Đức
Kitô, nhờ đó loài người được cứu
cho khỏi nợ nần tội lỗi và được
ḥa giải cùng Thiên Chúa. Con Thiên Chúa đă làm người,
nhận lấy một thân xác và một linh hồn trong cung
ḷng một Trinh Nữ, chính v́: để trở nên một
hy tế cứu độ hoàn hảo. Tôn giáo của
mầu nhiệm Nhập Thể là một tôn giáo của
ơn cứu thế, nhờ hiến tế của Đức
Kitô, một hiến tế chiến thắng sự dữ,
tội lỗi và chính sự chết. Chấp nhận cái
chết trên thập giá là Đức Kitô cùng một lúc vừa
tỏ bày sự sống vừa thông ban sự sống, v́ Người
đă sống lại và sự chết không c̣n làm ǵ được
Người nữa.