-3-
Việc
Sửa Soạn Cuộc Đại Hỷ
17- Trong lịch
sử Giáo Hội, mọi cuộc mừng kỷ niệm được
sửa soạn bởi một sự sắp xếp linh
thiêng. Điều này cũng đúng về cuộc Đại
Hỷ năm 2000 này. Xác tín như thế, chúng ta nh́n vào ngày
hôm nay đây bằng một cảm nhận tri ân và đáp ứng,
về tất cả những ǵ đă diễn ra trong lịch
sử loài người từ khi Chúa Kitô giáng sinh, nhất là
về những biến cố đă xẩy ra giữa
những năm của ngàn năm thứ nhất và ngàn
năm thứ hai. Thế nhưng, một cách đặc
biêt hơn nữa, bằng con mắt đức tin, chúng ta
nh́n vào thế kỷ của chúng ta đây, để t́m
kiếm những ǵ mang lại chứng cớ chẳng
những cho lịch sử loài người mà c̣n cho cả
việc can thiệp của Thiên Chúa nơi những công cuộc
của loài người nữa.
18- Theo quan điểm này, chúng ta có thể xác nhận
rằng Công Đồng Chung Vaticanô II là một biến
cố quan pḥng, nhờ đó, Giáo Hội bắt đầu
sửa soạn trực tiếp hơn cho cuộc mừng
thiên niên thứ ba. Công Đồng này là một công đồng
cũng giống như các công đồng trước kia,
song lại khác hẳn; đó là một công đồng chú trọng
vào mầu nhiệm Chúa Kitô và Giáo Hội của Người,
đồng thời lại vươn ḿnh ra với thế
giới. Thái độ vươn ḿnh ra của Giáo Hội
là một đáp ứng có tính cách phúc âm đối với
những đổi thay trong thế giới này, những đổi
thay bao gồm cả những kinh nghiệm về t́nh
trạng hỗn loạn sâu rộng của thế kỷ
20, một thế kỷ rùng rợn với hai cuộc Đại
Chiến I và II, với kinh nghiệm về những
trại tập trung cùng với những cuộc tàn sát khủng
khiếp. Tất cả những biến cố này đă chứng
tỏ một cách hết sức hùng hồn là thế giới
cần phải được thanh tẩy; nó cần
phải cải thiện lại.
Công Đồng Chung Vaticanô II thường được
coi như bắt đầu một kỷ nguyên mới trong
sinh hoạt của Giáo Hội. Điều này đúng, nhưng
đồng thời nó cũng khó bỏ qua sự kiện là
Công Đồng đă rút tỉa rất nhiều kinh nghiệm
và suy tư của một qúa khứ vừa qua, nhất là từ
di sản tinh thần do Đức Piô XII để lại.
Trong lịch sử của Giáo Hội, cái "cũ" và
cái "mới" luôn luôn đan kết chặt chẽ với
nhau. Cái mới phát xuất từ cái cũ, và cái cũ được
diễn đạt trọn vẹn nơi cái mới. Điều
này đă xẩy ra với Công Đồng Chung Vaticanô II, cũng
như với hoạt động của các vị giáo hoàng
có liên hệ với công đồng, bắt đầu từ
Đức Gioan XXIII, tiếp đến Đức Phaolô VI
và Gioan-Phaolô I, cho đến vị giáo hoàng đương
kim.
Điều mà những vị giáo hoàng này đă hoàn tất
trong thời gian và từ thời gian Công Đồng, qua
giáo huấn của các ngài cũng như qua hoạt động
mục vụ của các ngài, chắc chắn đă đóng
góp một cách đáng kể vào việc sửa soạn cho một
mùa xuân mới của sinh hoạt Kitô giáo, một mùa xuân
sẽ được tỏ hiện nhờ cuộc Đại
Hỷ, nếu các Kitô hữu tỏ ra dễ dậy đối
với tác động của Chúa Thánh Thần.
19- Công Đồng, cho dù không bắt chước tính cách
nghiêm trọng của thánh Gioan Tẩy Giả là vị trên bờ
sông Dược-Đăng đă kêu gọi thống hối
và cải thiện (x.Lk.3:1-7), cũng đă tỏ ra cho
thấy một điều của vị tiên tri xưa, đó
là, bằng một nghị lực mới, Công Đồng đă
chỉ cho con người nam nữ của ngày hôm nay
thấy rằng Chúa Giêsu Kitô là "Chiên Thiên Chúa, Đấng
xóa tội trần gian" (Jn.1:29), Đấng cứu chuộc
nhân loại và là Chúa của lịch sử. Trong Công Đồng,
theo ḷng ước ao thật sự muốn hoàn toàn trung
thành với thày ḿnh, Giáo Hội đă tự vấn về
căn tính riêng của ḿnh, và đă nhận thức lại
mầu nhiệm của ḿnh là thân thể và là hiền thê của
Chúa Kitô. Khiêm tốn lắng nghe lời Thiên Chúa, Giáo Hội
đă tái xác nhận ơn gọi nên thánh phổ quát; đă
phác họa điều khoản về việc canh tân phụng
vụ là nguồn mạch và là thượng đỉnh của
sinh hoạt Giáo Hội; đă thúc đẩy việc canh tân
cho nhiều phương diện trong sinh hoạt của
Giáo Hội, ở cả lănh vực hoàn vũ cũng như
ở các Giáo Hội địa phương; đă cố
gắng khơi dậy những ơn gọi Kitô giáo khác
nhau, từ những ơn gọi của người giáo
dân đến những ơn gọi Tu Tŕ, từ sứ vụ
của các thày sáu đến sứ vụ của các linh mục
và giám mục; và nhất là Giáo Hội đă nhận thức
lại được tính cách tập đoàn của hàng
giáo phẩm, đó là một thể hiện đặc biệt
của việc mục vụ được thi hành bởi
các vị giám mục hiệp thông với vị thừa
kế thánh Phêrô. Trên căn bản của cuộc canh tân sâu
xa này, Công Đồng vươn ḿnh đến các Kitô
hữu của các giáo phái khác, với các môn đệ của
các tôn giáo khác và với tất cả mọi người của
thời đại chúng ta. Không có Công Đồng nào đă từng
nói rơ ràng về cuộc hiệp nhất Kitô giáo, về việc
đối thoại với các tôn giáo không phải là Kitô
giáo, về ư nghĩa đặc biệt của cựu ước
đối với dân Ích Diên, về những truyền
thống văn hóa khác nhau mà trong đó Giáo Hội phải
thực hiện công cuộc truyền giáo của ḿnh, và
về phương tiện truyền thông xă hội.
20- Toàn bộ giáo huấn phong phú lớn lao của Công Đồng,
cùng với cung cách mới mẻ đáng phục để
tŕnh bày nội dung giáo huấn này, đă thật sự làm
nên một tuyên ngôn cho những thời điểm mới.
Các giáo phụ của Công Đồng đă nói bằng ngôn
ngữ của Phúc Âm, ngôn ngữ của Bài Giảng trên Núi
và của các Phúc Đức. Trong sứ điệp của
Công Đồng, Thiên Chúa được tŕnh bày theo chủ
quyền tuyệt đối của Ngài trên tất cả mọi
sự, nhưng cũng là một Đấng bảo đảm
tính cách tự động chính thực của những
thực tại trần thế. Bởi thế, việc
sửa soạn hay nhất cho một tân thiên niên chỉ có
thể được thể hiện bằng một cuộc
dấn thân mới trong việc mang ra áp dụng, một cách
trung thành bao nhiêu có thể, những giáo huấn của Công Đồng
Chung Vaticanô II vào đời sống của mọi người
cũng như vào sinh hoạt của cả Giáo Hội. Theo
nghĩa rộng nhất của từ ngữ, những việc
sửa soạn trực tiếp liên quan đến cuộc Đại
Hỷ năm 2000 thật sự bắt đầu từ Công
Đồng Chung Vaticanô II. Nếu chúng ta t́m một so sánh
theo phụng vụ th́ có thể nói là Mùa Vọng hằng
năm là mùa có ư nghĩa sát với tinh thần của Công Đồng
nhất. V́ Mùa Vọng là mùa sửa soạn cho chúng ta nghênh đón
Đấng đă có, đang có và phải đến
(x.Rev.4:8).
21- Góp một phần trong việc sửa soạn cho năm
2000 đang đến là một loạt các công nghị
bắt đầu từ sau Công Đồng Vaticanô II:
những công nghị chung cùng với các công nghị theo đại
lục, theo miền, theo quốc gia, theo giáo phận. Chủ
đề chính của tất cả các công nghị này là
vấn đề phúc âm hóa, hay đúng hơn, là vấn đề
làm mới lại việc truyền bá phúc âm, mà những
nền tảng của vấn đề làm mới lại
việc truyền bá phúc âm này được đặt chân
móng nơi tông huấn Evangelii Nuntiandi (về việc
truyền bá phúc âm trong thế giới tân tiến) của Đức
Phaolô VI, được ban hành năm 1975 theo sau khóa họp
chung lần thứ ba của Thượng Hội Đồng
Giám Mục. Các công nghị này tự ḿnh cũng là một
phần trong công cuộc làm mới lại việc truyền
bá phúc âm: Chúng được sinh ra từ viễn ảnh về
Giáo Hội của Công Đồng Chung Vaticanô II. Các công nghị
này mở rộng những lănh vực để cho thành
phần giáo dân tham dự, thành phần mang những trách nhiệm
đặc biệt được các công nghị này xác định.
Các công nghị này là một biểu hiệu cho sức
mạnh mà Chúa Kitô đă ban cho toàn thể dân Thiên Chúa, làm cho
dân này thành một dân tham phần vào sứ mệnh thiên sai của
riêng Người là sứ mệnh làm tiên tri, tư tế và
vương giả. Nói đến điều này phải kể
đến những câu phát biểu rất lưu loát trong
hiến chế tín lư Lumen Gentium (Ánh Sáng Muôn Dân). Việc
sửa soạn cho cuộc mừng năm 2000 như thế
được diễn tiến khắp Giáo Hội, trên
cả b́nh diện hoàn vũ cũng như địa phương,
hiến cho Giáo Hội một nhận thức mới về
sứ mệnh cứu rỗi mà Giáo Hội nhận lănh từ
Chúa Kitô. Nhận thức này được tỏ hiện
rất rơ qua các tông huấn hậu công đồng,
những văn kiện chú trọng đến sứ mệnh
của thành phần giáo dân, đến việc đào luyện
các linh mục, đến các giáo lư viên, đến gia đ́nh,
đến giá trị của việc thống hối và ḥa
giải, trong sinh hoạt của Giáo Hội cũng như của
nhân loại nói chung, và trong công nghị tới đây chú trọng
đến đời sống tận hiến.
22- Những công việc và những trách nhiệm đặc
biệt liên quan đến cuộc Đại Hỷ năm
2000 là sứ vụ của vị giám mục Rôma. Theo một
ư nghĩa nào đó th́ tất cả các vị giáo hoàng trong
những thế kỷ trước cũng đă sửa
soạn cho cuộc mừng này. Với chương tŕnh tái
tạo mọi sự trong Chúa Kitô của ḿnh, Thánh Piô X đă
cố gắng ngăn ngừa những phát triển
thảm haiï, phát xuất từ t́nh h́nh quốc tế
xẩy ra vào đầu thế kỷ này. Giáo Hội đă
nhận thức được nhiệm vụ của ḿnh
phải cương quyết hành động để đề
cao và bảo vệ những giá trị căn bản về
ḥa b́nh và công lư, khi đối diện với những khuynh
hướng đối nghịch của thời đại
chúng ta. Những vị giáo hoàng của thời kỳ trước
Công Đồng Chung, tùy theo cách thế riêng của ḿnh, đă
mạnh mẽ dấn thân hành động: Đức Bênêđictô
XV phải đối diện với tai họa của
Thế Chiến Thứ Nhất; Đức Piô XI phải đương
đầu với những đe dọa của những thể
chế độc tài hay những thể chế không tôn trọng
tự do của con người, ở Đức, ở
Nga, ở Ư, ở Tây Ban Nha, và ở cả Mễ Tây Cơ dù
mới chớm có. Đức Piô XII tiến đến việc
thắng lướt t́nh trạng bất công hết sức
trầm trọng, gây ra bởi một niềm hoàn toàn khinh bỉ
đối với phẩm giá con người, vào thời
kỳ của Đệ Nhị Thế Chiến. Ngài cũng
cung cấp những chỉ dẫn khôn ngoan cho việc
hạ sinh của một trật tự thế giới mới,
sau cuộc sụp đổ của những thể
chế chính trị trước đó.
23- Từ lúc ban hành văn kiện tiên khởi cho giáo triều
của Tôi, Tôi đă nói rơ ràng về Cuộc Đại
Hỷ năm 2000, phác họa cho thời gian đưa đến
cuộc mừng này là thời gian phải được
sống như là "một Mùa Vọng mới" (thông điệp
Redemptor Hominis, đoạn 1). Đề tài này từ đó đă
được tái hiện nhiều lần, và được
bàn đến sâu rộng trong thông điệp Dominum et
Vivificantem (đoạn 49). Thật vậy, việc sửa
soạn cho năm 2000 đă thực sự là một
chiếc ch́a khóa diễn giải (a hermeneutical key) cho cả
giáo triều của Tôi. Nó chắc chắn không phải là một
vấn đề t́m vui thỏa trong một tân thiên niên, như
đă xẩy ra trong một số thập niên ở vào
cuối đệ nhất thiên niên; trái lại, nó nhắm đến
việc làm tăng thêm cảm quan cho tất cả mọi
người đối với Thần Linh là Đấng đang
nói với Giáo Hội cũng như với các Giáo Hội
(x.Rev.2:7ff), với cả các cá nhân dùng những đặc sủng
để phục vụ toàn thể cộng đồng (dân Chúa). Mục đích
là nhấn mạnh đến điều mà Thần Linh đang
gợi lên cho các cộng đồng khác nhau, từ các cộng
đồng nhỏ nhất, như gia đ́nh, cho đến
những cộng đồng lớn nhất, như các
quốc gia và các tổ chức quốc tế, liên quan đến
những nền văn hóa, đen tổ chức dân sự
và đến truyền thống lành mạnh. Bất
chấp những hiện tượng bề ngoài, như một
người mẹ lâm bồn, nhân loại tiếp tục
trông đợi việc tỏ hiện của con cái Thiên Chúa
và sống nhờ niềm hy vọng này, một h́nh ảnh
rất hùng hồn được thánh Phaolô sử dụng
trong Thư gửi cho các tín hữu Rôma (x.8:19-22).
24- Những cuộc tông du đă trở nên một yếu
tố quan trọng trong việc làm cho Công Đồng Vaticanô
II sinh hoa kết trái. Bắt đầu là cuộc hành hương
đến Loreto và Assisi (1962) của Đức Gioan XXIII vào
lúc sắp sửa họp Công Đồng, rồi tăng vọt
lên dưới thời Đức Phaolô VI, sau cuộc
viếng thăm đầu tiên của ngài ở Thánh Địa,
c̣n có chín cuộc tông du lớn khác đă giúp ngài trực
tiếp gặp gỡ dân chúng ở các đại lục.
Giáo triều đương kim đă mở rộng chương
tŕnh du hành này xa hơn nữa, bắt đầu là Mễ
Tây Cơ, vào dịp Hội Nghị Chung Lần Thứ Ba của
Hàng Giáo Phẩm Mỹ Châu Latinh, nhóm họp ở Puebla
năm 1979. Cũng trong năm 1979 này, c̣n phải kể đến
cuộc hành tŕnh trở về Balan để mừng
kỷ niệm 900 năm của thánh Stanislau, giám mục tử
đạo.
Các chặng đường tiếp nối nhau của các
cuộc du hành này đă qúa rơ ràng. Những cuộc tông du đă
trở thành một diễn tiến thường xuyên,
nhắm đến các Giáo Hội riêng biệt ở mọi
lục địa và cũng để tỏ ra quan tâm đến
việc phát triển những mối liên hệ đại
kết với các Kitô hữu của các giáo phái khác nhau. Về
điều này, những cuộc thăm viếng quan trọng
đặc biệt phải kể đến là Thổ Nhĩ
Kỳ (1979), Đức (1980), Anh, Tô Cách Lan và Wales (1984), Thụy
Sĩ (1984) các nước Bắc Âu (1989) và gần đây
nhất là các nước vùng Baltic (1993). Hiện nay, Tôi tha
thiết mong đến thăm Sarajevo ở Bosnia-Herzegovina,
cũng như thăm Trung Đông: Lebanon, Jerusalem and Thánh Địa.
Cũng rất cần để làm sao vào năm 2000 thăm
được những nơi dân Chúa trong Cựu Ước
đă trải qua, từ những nơi có liên hệ đến
Abraham và Moisen, đến Ai Cập và núi Sinai, đến măi
tận Đamascô là thành phố chứng kiến cuộc trở
lại của thánh Phaolô.
25- Trong việc sửa soạn cho năm 2000, các Giáo Hội
riêng biệt cũng có việc để làm, chẳng
hạn như cử hành những cuộc mừng cho
những giai đoạn quan trọng trong lịch sử cứu
rỗi của các dân nước khác nhau. Trong số các cuộc
mừng kỷ niệm theo miền hay địa phương,
có những biến cố rất quan trọng phải kể
đến, gồm có: kỷ niệm 1000 năm Rus gia
nhập Kitô giáo, vào năm 1988, cũng như kỷ niệm
500 năm bắt đầu việc truyền bá phúc âm ở
Mỹ Châu (1492). Ngoài những biến cố có một
ảnh hưởng rộng lớn như thế, chúng ta c̣n
có thể kể đến những biến cố khác,
mặc dù không có tính cách hoàn vũ, cũng không kém phần
quan trọng: Chẳng hạn như, kỷ niệm 1000
năm Balan gia nhập Kitô giáo, vào năm 1966, cũng như ở
Hung Gia Lợi, vào năm 1968, cùng với 600 năm Luthuania
gia nhập Kitô giáo, vào năm 1987. Cũng sắp sửa
cử hành mừng kỷ niệm 1500 năm Clovis (496), vua của
dân Franks (Pháp), lănh nhận bí tích rửa tội, và kỷ niệm
1400 năm thánh Augustinô thành Canterbury (597) đến đây để
đánh dấu việc khởi sự truyền bá phúc âm cho
thế giới của sắc dân Anglo-Saxon.
Nếu kể đến Á Châu, cuộc kỷ niệm mừng
sẽ nhắc cho chúng ta nhớ lại việc thánh tông đồ
Tôma là vị, theo truyền khẩu, vào ngay đầu
kỷ nguyên Kitô giáo, đă thực hiện việc loan báo Phúc
Âm ở Ấn Độ, nơi mà các nhà truyền giáo từ
Bồ Đào Nha măi đến độ năm 1500 mới đặt
chân đến. Năm nay cũng đánh dấu 700 năm
truyền bá phúc âm ở Trung Hoa (1294), và chúng ta đang
sửa soạn tưởng niệm công cuộc truyền
giáo trải rộng ở Phi Luật Tân, một công cuộc
truyên giáo trải rộng được thể hiện qua
việc xây dựng một giáo tỉnh ở Manilla (1595). Chúng
ta cũng đang hướng đến ngày kỷ niệm
400 năm các vị tử đạo đầu tiên ở
Nhật Bản (1597).
Ở Phi Châu, nơi mà công cuộc truyền bá Phúc Âm đầu
tiên cũng được tính từ thời các thánh tông đồ,
những quốc gia như Cameroon, Ivory Coast, Cộng Ḥa Trung
Phi, Burundi và Burkina Faso đang cử hành 100 năm kỷ niệm
các nhà truyền giáo đến những miền đất
riêng của họ, những cuộc kỷ niệm này trùng
với 1650 năm thánh Frumentiô (c.340) được cất
nhắc lên hàng giáo phẩm, vị giám mục tiên khởi của
dân Ethiôpia, đồng thời cũng trùng với cuộc
kỷ niệm 500 năm bắt đầu truyền bá phúc
âm ở Angola thuộc cựu vương quốc Congo (1491).
Những quốc gia Phi Châu khác mới đây cũng đă
cử hành những kỷ niệm bách chu niên như vậy.
Chúng ta làm sao lại không đề cập đến các
Giáo Hội Đông Phương, nơi mà các vị thượng
phụ cổ kính của họ gắn bó rất chặt
chẽ với di sản tông đồ, và cũng là nơi
mà các truyền thống thần học, phụng vụ và
tu đức tạo nên một kho tàng vĩ đại làm
di sản chung cho toàn thể Kitô giáo? Nhiều cuộc
cử hành mừng kỷ niệm nơi những Giáo Hội
này, và nơi các cộng đồng công nhận ḿnh bắt
nguồn từ truyền thống tông đồ riêng của
họ, cũng đang tưởng nhớ lại cuộc
hành tŕnh của Đức Kitô qua các thế kỷ, cuộc
hành tŕnh dẫn đến cuộc Đại Hỷ ở
vào cuối thiên niên thứ hai này.
Nh́n theo luồng ánh sáng này th́ toàn thể lịch sử Kitô
giáo hiện lên cho chúng ta thấy như là một gịng sông
duy nhất có nhiều chi nhánh đổ nước vào nó.
Năm 2000 kêu mời chúng ta hợp lại với nhau,
bằng một ḷng trung thành mới mẻ và bằng một
niềm hiệp thông sâu xa hơn theo bờ của gịng sông
lớn lao này: gịng sông của mạc khải, của Kitô
giáo và của Giáo Hội, một gịng sông chảy qua lịch
sử loài người, bắt đầu từ biến
cố xẩy ra ở Nazarét, rồi đến Bêlem 2000
năm trước đây. Đó thực sự là một
"gịng sông", cùng với các "mạch suối" của
ḿnh, như lời thánh vịnh diễn tả, "làm hân
hoan thành đô của Thiên Chúa" (46:4).
26- Những năm thánh được cử hành vào hậu
bán thế kỷ này cũng góp vào việc sửa soạn
cho năm 2000. Năm thánh được Đức Phaolô VI
công bố hồi 1975 vẫn c̣n nguyên trong kư ức của
chúng ta. Theo đà ấy là cuộc cử hành năm 1983 như
là một Năm Cứu Chuộc. Có tiếng vang nhất
phải kể đến Năm Thánh Mẫu 1986/87; năm
này đă được nóng ḷng chờ đợi và sâu xa
cảm nghiệm nơi từng Giáo Hội địa phương,
nhất là nơi các đền Thánh Mẫu khắp thế
giới. Thông điệp Redemptoris Mater được
ban hành vào dịp này đă chú trọng đến giáo
huấn của Công Đồng về việc hiện hiện
của Mẹ Thiên Chúa trong mầu nhiệm của Chúa Kitô
và Giáo Hội: 2000 năm trước, Con Thiên Chúa đă làm
người bởi quyền phép Chúa Thánh Thần và được
sinh ra bởi Mẹ Maria Đồng Trinh vô nhiễm. Năm
Thánh Mẫu thực sự là một ngưỡng vọng về
cuộc kỷ niệm (Đại Hỷ) này, nó cũng chất chứa nhiều
điều sẽ được thể hiện hoàn toàn hơn
vào năm 2000.
27- Thật khó ḷng mà quên được Năm Thánh Mẫu
diễn ra không bao lâu trước những biến cố
năm 1989. Những biến cố này vẫn c̣n làm cho người
ta ngỡ ngàng về sự việc xẩy ra có tính cách rộng
lớn, nhất là có tính cách tốc độ của nó.
Thập niên 1980 là những năm được đánh
dấu bằng mức độ tăng phát tai biến bởi
một cuộc Chiến Tranh Lạnh. Năm 1989 đă
dẫn đến một giải quyết nhẹ nhàng,
bằng h́nh thức lan tràn một cách thứ tự lớp
lang, đúng như nó đă xẩy ra. Căn cứ vào
sự kiện này, chúng ta nhận thức được
tầm quan trọng có tính cách tiên tri thực sự trong thông
điệp Rerum Novarum: Mọi điều Đức
Lêô XIII đă viết trong bức thông điệp này về
cộng sản đă được ứng nghiệm nơi
những biến cố ấy, như Tôi đă nhấn
mạnh trong thông điệp Centesimus Annus (ngày 1-5-1991, đoạn
12). Những biến cố này đă hé mở ra cho người
ta có thể nhận thức được rằng có một
bàn tay quan pḥng vô h́nh đă nhúng vào bằng một tấm ḷng
chăm sóc của một hiền mẫu: "Có thể nào
một người nữ quên được đứa
con nhỏ của ḿnh chăng?" (Is.49:15).
Tuy nhiên, sau năm 1989, lại nổi lên những hiểm
nguy và những đe dọa mới. Nơi những nước
thuộc khối Đông Âu trước kia, sau khi cộng
sản sụp đổ, đă xẩy ra một thứ đe
dọa trầm trọng là tinh thần quốc gia qúa khích, được
chứng thực qua những biến cố xẩy ra ở
Balkans, cũng như ở các vùng lân cận. Điều này
buộc các dân tộc Âu Châu phải thực hiện một
cuộc khảo sát gắt gao lương tâm ḿnh, và công
nhận những lỗi lầm cùng với các sai lạc của
ḿnh, cả về kinh tế lẫn chính trị, là hậu qủa
gây ra bởi những chính sách thực dân đế quốc
được thực hiện trong những thế kỷ
trước đây, cũng như thế kỷ hiện
tại, nơi những đất nước mà quyền lợi
của họ bị vi phạm một cách có phương
pháp.
28- Theo sau Năm Thánh Mẫu là Năm Gia Đ́nh mà chúng ta đang
cử hành đây, một cử hành có liên hệ gần gũi
với mầu nhiệm Nhập Thể và với chính lịch
sử loài người. Như thế chúng ta có lư do chính đáng
để hy vọng rằng Năm Gia Đ́nh, được
khai mạc ở Nazarét, cũng sẽ giống như
Năm Thánh Mẫu, trở nên một giai đoạn quan trọng
khác cho việc sửa soạn mừng cuộc Đại
Hỷ.
Theo chiều hướng này, Cha đă viết một "Bức
Thư gửi Các Gia Đ́nh", mục đích là để
tái xác nhận bản chất của giáo huấn Giáo Hội
về gia đ́nh, cũng như để, có thể nói,
mang giáo huấn này vào mọi gia đ́nh. Tại Công Đồng
Vaticanô II, Giáo Hội nhận thấy phận sự của
ḿnh là phải đề cao phẩm giá của hôn nhân và gia đ́nh
(hiến chế Gaudium et Spes, đoạn 47-52). Năm Gia Đ́nh
nghĩa là năm giúp cho giáo huấn của Công Đồng
về phương diện này thành hiện thực. Mỗi
một gia đ́nh, một cách nào đó, phải dự phần
vào việc sửa soạn cho cuộc Đại Hỷ. Không
phải hay sao, qua gia đ́nh, gia đ́nh Nazarét, mà Con Thiên Chúa
đă chọn để đi vào lịch sử loài người?