-5-
"Một
Chúa Giêsu Kitô: ...Đến Muôn Đời"
(Heb.13:8)
56-Giáo Hội đă
kéo dài 2000 năm. Như hạt cải được nhắc
đến trong Phúc Âm, Giáo Hội đă phát triển và trở
thành một cây to lớn, có thể bao phủ cả nhân loại
bằng các cành lá của ḿnh (x.Mt.13:31-32). Bởi thế,
trong Hiến Chế Tín Lư về Giáo Hội, Công Đồng
Chung Vaticanô II đă đề cập đến vấn đề
làm phần tử trong Giáo Hội và về ơn gọi của
tất cả mọi người thuộc về dân của
Thiên Chúa: "Tất cả mọi người được
kêu gọi để làm thành phần của cuộc hiệp
nhất Công Giáo này trong nhóm dân mới của Thiên Chúa đây...
Nên tín hữu Công Giáo cũng như tất cả những
ai tin vào Chúa Kitô, thật ra là toàn thể nhân loại, nhờ
ơn Thiên Chúa, được kêu gọi tham hưởng ơn
cứu rỗi, đều thuộc về Giáo Hội hay có
liên hệ với Giáo Hội bằng nhiều cách thức
khác nhau" (Lumen Gentium, đoạn 13). Trong thông điệp
Ecclesiam Suam (công
bố ngày 6/8/1964),
Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đă tŕnh bày cách thức mà tất
cả nhân loại được bao gồm trong dự án của
Thiên Chúa và đă nhấn mạnh đến những tiến
tŕnh đối thoại khác nhau về ơn cứu độ.
Tiếp tục theo cách thức này, chúng ta c̣n có thể thấu
hiểu hơn dụ ngôn về men trong Phúc Âm (x.Mt.13:33): Chúa
Kitô, như men thần linh, luôn luôn và càng ngày càng thấm nhập
vào đời sống nhân loại, qua việc loan truyền
công cuộc cứu chuộc được hoàn tất trong
mầu nhiệm vượt qua. C̣n nữa, trong quyền năng
cứu rỗi của Người, Người ôm lấy toàn
thể lịch sử quá khứ của nhân loại, được
bắt đầu từ Adong thứ nhất (Gaudium et Spes, đoạn
2). Tương lai cũng thuộc về Ngưôøi: "Chúa
Giêsu Kitô hôm qua, hôm nay và muôn đời vẫn là một"
(Heb.13:8). Về phần ḿnh, Giáo Hội "không t́m kiếm
ǵ ngoài một mục đích duy nhất: đó là tiếp tục
công cuộc của chính Chúa Kitô, theo như Chúa Thánh Thần
là Đấng An Ủi hướng dẫn. Chúa Kitô nhập
thế để làm chứng cho sự thật, để
cứu vớt chứ không phải để ngồi mà luận
xét, để phục vụ chứ không phải để
được phục vụ" (Gaudium et Spes, đoạn
3).
57- Bởi thế, ngay từ thời các tông đồ, công
cuộc truyền giáo của Giáo Hội đă tiếp tục,
không hề bị ngưng trệ, trong cả gia đ́nh nhân
loại. Công cuộc truyền bá phúc âm trước hết
diễn tiến tại vùng Địa Trung Hải. Trong thời
gian ngàn năm đầu, những nhà truyền giáo từ Rôma
và Contantinôpôli đă đem Kitô giáo đến toàn thể lục
địa Âu Châu. Đồng thời, các ngài cũng tiến
vào tâm điểm của Á Châu, đến tận Ấn Độ
và Trung Hoa. Cuối thế kỷ 15, chẳng những đánh
dấu việc khám phá ra Châu Mỹ, mà c̣n cả việc bắt
đầu truyền bá phúc âm cho lục địa rộng
lớn này, cả Bắc lẫn Nam. Cũng vào lúc ấy,
trong khi những vùng ven biển nằm phía dưới sa mạc
Sahara ở Phi Châu nhận lănh ánh sáng của Chúa Kitô, th́ thánh
Phanxicô Xaviê, quan thày của các nhà truyền giáo, đến
Nhật bản. Vào cuối thế kỷ 18 và đầu thế
kỷ 19, một số bổn đạo đă mang Kitô giáo
đến Đại Hàn. Vào thời kỳ này, việc loan
báo Phúc Âm tiến đến Đông Nam Á cũng như Úc Châu
và những ḥn đảo ở Thái B́nh Dương.
Thế kỷ 19 đă chứng kiến hoạt động
truyền giáo rộng lớn nơi các dân tộc ở Phi
Châu. Tất cả những nỗ lực này đă trổ
sinh hoa trái cho tới ngày hôm nay. Công Đồng Chung Vaticanô
II đă ghi nhận điều này trong sắc lệnh Ad
Gentes về hoạt động truyền giáo. Sau Công Đồng,
vấn đề công việc truyền giáo đă được
thông điệp Redemptoris Missio bàn đến, căn cứ
vào những vấn nạn của các cuộc truyền giáo
trong những năm cuối cùng của thế kỷ chúng
ta. Cả trong tương lai nữa, Giáo Hội phải tiếp
tục là một cuộc truyền giáo: Thật vậy, dấn
thân truyền giáo là một phần của chính bản tính
Giáo Hội. Từ việc sụp đổ của những
thể chế chống Kitô giáo, trước hết là Nazi rồi
đến cộng sản, một lần nữa, việc
mang sứ điệp giải phóng của Phúc Âm đến
cho những con người nam nữ ở Âu Châu là một
nhu cầu khẩn thiết (tuyên ngôn của Hội Nghị
Công Đồng Giám Mục Âu Châu, đoạn 3). Hơn thế
nữa, như thông điệp Redemptoris Missio (x. đoạn
57) xác nhận, thế giới tân tiến ngày nay đang hiện
lên một t́nh trạng như Arepagus ở Nhă Điển, nơi
mà thánh Phaolô đă diễn giảng. Ngày nay có nhiều
areopagi, chúng rất khác nhau: Chúng là những khu vực lớn
lao trong nền văn minh và văn hóa hiện đại,
trong lănh vực chính trị và kinh tế. Tây phương càng
trở nên xa ĺa với những cội gốc Kitô giáo, nó càng
trở nên một địa sở truyền giáo, dưới
h́nh thức của nhiều areopagi khác nhau.
58- Tương lai của thế giới và của Giáo Hội
thuộc về thế hệ trẻ, về những người
mà sinh vào thế kỷ này sẽ trưỏng thành ở thể
kỷ sau, thế kỷ đầu của một thiên niên
mới. Chúa Kitô mong đợi những điều trọng
đại nơi giới trẻ, như Người đă
trông đợi nơi con người trẻ hỏi Người:
"Tôi phải làm việc lành nào để được
sự sống đời đời?" (Mt.19:16). Tôi đă
bàn giải câu trả lời đáng ghi nhận mà Chúa Giêsu đáp
lại này trong thông điệp Veritatis Splendor (công bố ngày
6-8-1993)
mới đây, cũng như Tôi đă làm trước đây
vào năm 1985, trong bức tông thư gửi cho giới trẻ
thế giới. Trong mọi hoàn cảnh, trong mọi miền
đất trên thế giới, giới trẻ không thôi hỏi
Chúa Kitô những vấn nạn. Họ gặp Ngựi và họ
vẫn t́m kiếm Người để lại hỏi Người.
Nếu tiếp tục theo con đường mà Người
chỉ cho ḿnh, họ sẽ vui mừng trong việc góp sức
để làm Người hiện diện ở thế kỷ
tới cũng như ở những thế kỷ sau đó,
cho đến tận cùng thời gian: "Chúa Giêsu hôm qua, hôm
nay và muôn đời vẫn là một".
59- Để kết luận, cũng nên nhớ lại những
lời của hiến chế mục vụ Gaudium et Spes:
"Giáo Hội tin rằng Chúa Kitô, Đấng đă chết
và đă sống lại v́ tất cả, nhờ Thần
Linh của Người, có thể ban cho loài người ánh
sáng và sức mạnh để đạt đến định
mệnh siêu việt của họ. Không có một danh hiệu
nào dưới gần trời được ban cho con người
để nhờ đó họ xứng đáng được
cứu rỗi. Giáo Hội cũng chủ trương rằng,
ch́a khóa để mở, điểm để tập trung
và mục đích của tất cả lịch sử nhân loại,
chỉ có thể t́m thấy nơi Chúa và nơi vị thầy
rất dịu dàng của Giáo Hội mà thôi. Giáo Hội cũng
vẫn nghĩ rằng bên dưới tất cả những
đổi thay cũng có rất nhiều những thực tại
không thay đổi và là những thực tại đâm rễ
sâu trong Chúa Kitô, Đấng hôm qua, hôm nay và muôn đời vẫn
là một. Bởi thế, trong ánh sáng của Chúa Kitô, h́nh ảnh
của Thiên Chúa vô h́nh, trưởng tử của mọi tạo
vật, Công Đồng muốn nói với tất cả mọi
người để soi sáng mầu nhiệm về con người
và để cộng tác trong việc t́m kiếm giải pháp
cho những vấn nạn đặc biệt trong thời điểm
của chúng ta" (đoạn 10).
Trong khi kêu mời tín hữu dâng lên Chúa những lời cầu
nguyện sốt sắng để lănh nhận ánh sáng và trợ
giúp cần thiết cho việc sửa soạn và cử hành
cuộc mừng kỷ niệm tới đây, Tôi cũng thiết
tha kêu gọi qúi huynh khả kính trong hàng giáo phẩm, cũng
như các cộng đồng hội thánh được ủy
thác cho qúi huynh, hăy mở ḷng ḿnh ra cho Thần Linh đánh động.
Ngài sẽ không thôi làm bùng lên ḷng nhiệt thành và dẫn người
ta đến việc cử hành cuộc mừng kỷ niệm
này, với một đức tin mới mẻ cùng với
việc tham gia rộng răi.
Cha kư thác trách nhiệm của toàn thể Giáo Hội này cho bàn
tay can thiệp hiền mẫu của Mẹ Maria, Mẹ của
Chúa Cứu Thế. Là Mẹ của t́nh yêu tuyệt mỹ, đối
với Kitô hữu đang trên đường tiến đến
cuộc Đại Hỷ của thiên nhiên thứ ba, Mẹ
sẽ là ngôi sao an toàn hướng dẫn bước chân họ
đến cùng Chúa. Chớ ǵ người nữ luôn trẻ
trung thành Nazarét, Đấng mà 2000 năm trước đây
đă hiến cho thế giới Lời nhập thể, dẫn
dắt con người nam nữ của một tân thiên niên đến
với Đấng là "ánh sáng chân thật chiếu soi mọi
người" (Jn.1:9).
Với ḷng cảm mến, Tôi ban phép lành cho tất cả mọi
người.
Tại điện Vatican, ngày 10-11-1994, năm thứ 17 giáo
triều của Cha.
Giáo Hoàng Gioan-Phaolô
II
(Trích dịch
từ The Pope Speaks, Vol.40, No.2, 3-4/1995)