"gịng sông chảy nước ban sự sống"
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Phần Hai
"Nước Ban Sự Sống": Đức Tin
16. Hoa Trái Đức Tin: Phúc Đức
Nếu thực sự sống đời "cầu nguyện là giao tiếp với Thiên Chúa là Thần Linh trong tinh thần và chân lư", nghĩa là sống một cuộc đời ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong họ, "như Cha ở trong Con và như Con ở trong Cha" (Jn.17:21), th́ cuộc đời của người Kitô hữu, như cành nho dính liền với Cây Nho Thần Linh là Đức Kitô, sẽ trổ sinh muôn vàn hoa trái, bằng không, nếu không trổ sinh hoa trái, cuộc sống ấy chưa thực sự là một cuộc sống cầu nguyện của "những kẻ tôn thờ đích thực mà Cha t́m kiếm" (Jn.4:23), cho dù nó có um tùm những lá cây đi nữa, cũng sẽ bị nguyền rủa như cây vả mà chết đi (x.Mk.11:13-14).
Đúng thế, "cây tốt th́ sinh trái tốt, c̣n cây xấu th́ sinh trái xấu. Một cây tốt không thể nào lại sinh trái xấu, cũng như một cây xấu không thể nào lại sinh trái tốt. Mọi cây không sinh trái tốt sẽ bị chặt đi mà quăng vào lửa. Các con có thể coi trái biết cây. Không một kẻ nào kêu 'Lạy Chúa, Lạy Chúa' mà được vào nước của Thiên Chúa, song chỉ có kẻ làm theo ư muốn của Cha Thày trên trời thôi" (Mt.7:17-21).
Cũng chính v́ thế mà dù cầu nguyện có ngây ngất cao siêu đến đâu đi nữa, đến nỗi "dù tôi được ơn thấu suốt hết mọi mầu nhiệm, nếu không có đức yêu thương, tôi cũng chỉ là hư không"" (1Cor.13:2). Phải, "làm theo ư muốn của Cha trên trời" và "có đức yêu thương" mới là những dấu chứng thực đời sống đạo, sống nội tâm, sống cầu nguyện nơi Kitô hữu không giả tạo, và con người họ mới đúng là "những kẻ tôn thờ đích thực mà Cha t́m kiếm".
Tuy nhiên, không phải sau khi lănh nhận Bí Tích Rửa Tội là Kitô hữu tự nhiên đă là "những kẻ tôn thờ đích thực mà Cha t́m kiếm", nghĩa là tự nhiên trở thành những kẻ có một đời sống cầu nguyện siêu đẳng ngay, mà chinh là nhờ việc họ nỗ lực "làm theo ư của Cha trên trời" và tỏ ra "có đức yêu thương", họ mới có thể tiến đến tŕnh độ cầu nguyện sâu xa và thần hiệp, một t́nh trạng "tôn thờ trong Thần Linh và chân lư", một t́nh trạng đầy những "hoa trái của Thần Linh là yêu thương, hoan lạc, an b́nh, nhẫn nhục, nhân từ, bao dung, tin tưởng, dịu hiền và thanh sạch" (Gal.5:22-23). Đức Tin là hạt giống chứa đựng nhân Mạc Khải Thần Linh, một hạt giống đă được gieo vào "tâm linh" của Kitô hữu khi họ lănh nhận phép rửa tội, để nơi mảnh đất tốt của cuộc đời họ, Mạc Khải Thần Linh sẽ đạt đến tầm vóc trọn vẹn của ḿnh nơi Hoa Trái Đức Tin là "cuộc tỏ hiện của con cái Thiên Chúa" (Rm.8:19).
Sau đây là phần về Hoa Trái Đức Tin là Phúc Đức Kitô Giáo. Cũng giống như các phần khác trong cuốn sách này, thể thức tŕnh bày mỗi vấn đề sẽ theo thứ tự như sau:
1- Xác Tín vấn đề (giáo lư).
2- Mạc Khải vấn đề (Lời Chúa).
3- Nhận Thức vấn đề (diễn giải).
XXXV- Các Phúc Đức Kitô Giáo
Xác Tín 39
Các Phúc Đức Kitô giáo là tinh thần sống trong thần trí được Kitô hữu thể hiện qua tư cách làm con Thiên Chúa của họ, xứng với gia phần mà Thiên Chúa là Cha đă dành cho các con cái của Ngài.
Mạc Khải
"Phúc thay cho người nghèo khó trong tinh thần' nước Thiên Chúa là của họ. Phúc cho người sầu thương' họ sẽ được ủi an. Phúc cho kẻ hiền lành' họ sẽ được hưởng đất đai. Phúc cho kẻ đói khát sự thánh thiện' họ sẽ được no thỏa. Phúc cho những ai tỏ ḷng thương xót' họ sẽ được xót thương. Phúc cho kẻ có tâm hồn thanh sạch' họ sẽ được thấy Thiên Chúa. Phúc cho những kẻ kiến tạo ḥa b́nh' họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. Phúc cho những ai chịu bắt bớ v́ sự thánh thiện' nước Thiên Chúa là của họ. Phúc cho các con khi người ta nhục mạ các con và bắt bớ các con, rủa xả các con đủ điều v́ Thày, các con hăy hân hoan sung sướng, v́ phần thưởng của các con th́ lớn lao ở trên trời" (Mt.5:3-11).
Nhận Thức
Thật vậy, nếu "cầu nguyện là sống t́nh con cái với Thiên Chúa là Cha của ḿnh" (Đời Cầu Nguyện, Cao-Bùi 1992. trang 15), mà Lời Cầu Nguyện mô phạm và lư tưởng nhất là Lời Kinh Chúa Dạy: "Lạy Cha chúng con ở trên trời...", th́ "cuộc tỏ hiện của con cái Thiên Chúa" (Rm.8:19) chính là hoa trái của Đời Cầu Nguyện, tức của cuộc giao tiếp thường xuyên và liên lỉ với Cha trên trời.
Mà "cuộc tỏ hiện của con cái Thiên Chúa" đây, cuộc tỏ hiện có sức làm cho thế giới tạo vật bị lụy thuộc vào sự hư hoại được "thông phần tự do vinh quang của con cái Thiên Chúa" (Rm.8:21) này là ǵ, nếu không phải là cuộc sống xứng đáng làm con cái của Cha trên trời, như cuộc sống của Chúa Giêsu Kitô đă được "tỏ hiện" ở sông Dược-Đăng và ở trên núi Biến H́nh, những nơi mà Người đă được Cha chứng thực: "Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài ḷng về Con" (Lk.3:22), và công bố: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài ḷng về Người. Hăy lắng nghe lời Người" (Mt.17:5).
Thật vậy, v́ "Thiên Chúa yêu thế gian đến ban Con Một ḿnh để ai tin Con sẽ không phải chết nhưng được sự sống đời đời" (Jn.3:16), nên việc Thiên Chúa mạc khải là việc Ngài tỏ t́nh yêu thương nhân loại, và muốn cho nhân loại được tham dự vào Sự Sống Thần Linh vô cùng viên măn và toàn hảo của Ngài là chính Con Ngài và ở nơi Con Ngài, Đấng là "tất cả sự thật" (Jn.16:13) Thiên Chúa muốn mạc khải, đồng thời cũng là chính mạc khải của Thiên Chúa, Đấng mà "ai chấp nhận Người th́ Người ban cho họ quyền trở nên con cái Thiên Chúa" (Jn.1:12) với Người.
Phần con người tạo vật, nhờ "tin vào tin mừng và lănh nhận phép rửa" (Mk.16:16), nghĩa là đă tỏ ra "chấp nhận Người", họ đă "trở nên con cái Thiên Chúa" với Người. Thế nhưng, không ai đă sống đẹp ḷng Cha bằng Con, v́ "Người Con này là phản ảnh vinh quang của Cha, là hiện thân đích thực của hữu thể Cha" (Heb.1:2), là Đấng "hằng ở nơi Cha, Đấng đă tỏ Cha ra" (Jn.1:18), nên cũng là Đấng mà Cha của Người muốn thành phần được Ngài thừa nhận làm con (x.Rm.5:15' Gal.4:5) "hăy lắng nghe lời Người",
Phải, thành phần "chấp nhận" Chúa Kitô để "trở nên con cái Thiên Chúa" sẽ "không thể nào đến cùng Cha nếu không qua (Người)" (Jn.14:6), nghĩa là nếu không biết "lắng nghe lời Người". Ngược lại, như Chúa Kitô nói với các môn đệ của Người trong Bữa Tiệc Ly: "Ai vâng giữ các mệnh lệnh mà họ lănh nhận từ Thày họ là kẻ yêu mến Thày, mà ai yêu mến Thày th́ sẽ được Cha Thày thương. Thày cũng thương họ và tỏ ḿnh ra cho họ" (Jn.14:21).
Như thế, việc Chúa Kitô "tỏ hiện" Người là Con Thiên Chúa không phải chỉ để làm cho Cha của Người hài ḷng, như Người được Cha chứng thực ở sông Dược-Đăng, hay cho loài người thấy mà rập "theo" khuôn mẫu của Người, như Người đă được Cha công bố trên núi Biến H́nh, mà Người c̣n "tỏ hiện" ra ngay nơi chính Giáo Hội là nhiệm thể của Người nói chung, cũng như nơi từng Kitô hữu là chi thể của Giáo Hội cũng là của Người nói riêng, khi Người "tỏ ḿnh ra cho họ", qua việc họ "vâng giữ các mệnh lệnh mà họ lănh nhận từ (Người)".
Đúng thế, chính v́ "Thiên Chúa đă sai Con Ngài sinh ra bởi một người nữ, sinh ra theo lề luật, để giải cứu khỏi lề luật những ai lụy thuộc lề luật, hầu chúng ta được lănh nhận vị thế làm con thừa tự của ḿnh" (Gal.4:4-5), mà Chúa Kitô, như Người đă tuyên bớ với riêng các môn đệ và với chung dân chúng trên núi Phúc Đức rằng: "Đừng tưởng Thày đến để phá hủy lề luật và lời các tiên tri, Thày đến không phải để phá hủy mà là để làm cho chúng được nên trọn" (Mt.5:17).
Chúa Kitô quả thực chẳng những đă "làm trọn" nơi chính bản thân của Người "mọi sự đă ghi chép về (Người) trong lề luật Moisen, nơi các tiên tri và thánh vịnh" (Lk.24:44), mà c̣n nơi chính giáo huấn của Người, một giáo huấn dạy Kitô hữu phải "thánh thiện hơn các luật sĩ và Pharisiêu" (Mt.5:20) là thành phần chỉ biết giữ lề luật cắt b́ bề ngoài nơi "xác thịt th́ vô bổ" (Jn.6:63), để Kitô hữu có thể "nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành" (Mt.5:48), một múc độ trọn lành của "thần trí ban sự sống" (Jn.6:63).
Bởi v́, theo giáo huấn của vị Thánh Tông Đồ Dân Ngoại gửi cho giáo đoàn Rôma: "Những ai ở trong xác thịt th́ không thể nào làm hài ḷng Thiên Chúa. Song ... anh em ở trong thần trí, v́ Thần Linh Thiên Chúa ở trong anh em... Nếu Thần Linh của Đấng đă làm cho Chúa Giêsu sống lại từ kẻ chết ở trong anh em, th́ nhờ Thần Linh của ḿnh ngự trong anh em, Đấng đă làm cho Chúa Kitô sống lại từ kẻ chết cũng sẽ mang lại sự sống cho thân xác chết chóc của anh em như vậy... Nếu anh em sống theo xác thịt, anh em sẽ chết' c̣n nếu nhờ thần trí anh em tiêu diệt những công việc gian ác nơi thân xác th́ anh em sẽ sống" (Rm.8:8,9,11,13).
Tuy nhiên, muốn "không sống theo xác thịt mà là sống theo thần trí" (Rm.8:4), hay muốn "sống bởi thần trí... theo sự hướng dẫn của thần trí" (Gal.5:25), Kitô hữu phải "lắng nghe lời Người" là Đấng "Thiên Chúa sai đến trong một h́nh tượng xác thịt tội lỗi để làm lễ dâng đền tội hầu lên án tội lỗi nơi xác thịt" (Rm.8:3), họ mới có thể đạt đến tầm mức "tự do vinh hiển của con cái Thiên Chúa" (Rm.8:21), ở chỗ họ sẽ "nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành" (Mt.5:48).
Mà tầm mức "trọn lành" chứng thực Kitô hữu đă hoàn toàn "tỏ hiện" ḿnh thực sự là con cái Thiên Chúa này đă được Chúa Kitô khai sáng ngay trong Bài Giảng Phúc Đức để mở màn cho công cuộc rao giảng Tin Mừng về Nước Thiên Chúa của Người, như Phúc Âm Thánh Mathêu ghi nhận, từ đoạn 5 đến hết đoạn 7, với phần mở đầu là phần liệt kê Các Phúc Đức và phần tiếp theo là phần diễn giải Các Phúc Đức này.
"Đức" hay Nhân Đức của Kitô hữu là tư cách nơi những người con Thiên Chúa, và "Phúc" hay Hạnh Phúc của Kitô hữu là gia phần Thiên Chúa dành cho con cái của Ngài. Tuy nhiên, theo phần liệt kê Các Phúc Đức, như được trích dẫn ở phần "mạc khải" trong chương này, cho thấy "Phúc" nào th́ đi với "Đức" đó. Thế nhưng, tại sao Đức này phải đi với Phúc kia như vậy? Mối liên hệ của từng cặp Phúc Đức này ra sao? Và thứ tự của cặp Phúc Đức này được đặt trước cặp Phúc Đức kia có ư nghĩa ǵ không? Có một điều đáng chú ư là chín hoa trái của Thánh Thần, như Thánh Phaolô liệt kê trong thư gửi giáo đoàn Galata, đoạn 5, câu 22 và 23, hầu như phản ảnh chín cặp Phúc Đức theo Phúc Âm Thánh Mathêu này.
Thứ nhất là Đức khó nghèo trong tinh thần đi với Phúc được nước Thiên Chúa. Tại sao Đức khó nghèo lại là Đức đầu tiên trong các cặp Phúc Đức ở đây, nếu không phải không có Đức khó nghèo căn bản này cũng sẽ không thể nào có các Đức khác. Vậy Đức khó nghèo ở đây là ǵ? Đức khó nghèo ở đây là một Đức khó nghèo "trong tinh thần" chứ không phải chỉ là t́nh trạng khó nghèo bề ngoài hay hoàn cảnh khó nghèo vật chất. Bằng không, tất cả những người lâm vào t́nh trạng khó nghèo hay sống trong hoàn cảnh khó nghèo trên thế gian này đă là thành phần có Đức khó nghèo rồi. Như thế th́ thuyết cộng sản là một lư thuyết đáng theo và đảng cộng sản là thành phần sống hợp với tinh thần khó nghèo của Phúc Âm Chúa Kitô nhất. Và như thế Thần Học Giải Phóng càng trở thành một chủ trương sai lầm v́ muốn làm sao cho con người được giải phóng khỏi t́nh trạng hay hoàn cảnh khó nghèo.
Thật ra, Đức khó nghèo trong Bài Giảng trên núi Phúc Đức của Chúa Giêsu đây cũng cần phải được tỏ ra bề ngoài, bằng một cuộc sống khó nghèo, chẳng hạn như trường hợp điển h́nh nơi các vị tu sĩ khấn giữ Đức khó nghèo. Bảo ḿnh có tinh thần khó nghèo hay Đức khó nghèo mà lại không chịu được thiếu thốn, lúc nào cũng muốn được đầy đủ, tiện nghi, và chỉ thích dùng những đồ sang trọng, thời trang, th́ thử hỏi con người đó có thực sự được Phúc Nước Thiên Chúa là của ḿnh chưa? Bởi v́, "Nước Thiên Chúa không phải là vấn đề ăn uống mà là công chính, an b́nh và hoan lạc được Thánh Linh ban cho" (Rm.14:17).
Do đó, Đức khó nghèo trong tinh thần mà Chúa Giêsu nói đến trước tiên nơi Bài Giảng trên núi Phúc Đức đây chính là một tinh thần, nếu nói theo ngôn ngữ tu đức học, đó là một tinh thần dửng dưng thánh thiện đối với hết mọi sự trần gian. Không phải hay sao, đó là lư do Chúa Giêsu đă diễn giải ư nghĩa của Đức khó nghèo này cũng ngay trong Bài Giảng trên núi Phúc Đức khi phán: "Đừng lo tích trữ cho ḿnh kho báu trần gian... Thay vào đó, hăy lo thu tích kho báu trên trời, một kho báu mà không mối mọt gặm nhắm hay trộm cắp lấy mất được. Hăy nhớ rằng kho báu của các con ở đâu th́ ḷng của các con cũng ở đó... Không ai có thể làm tôi hai chủ... Các con không thể hiến ḿnh cho cả Thiên Chúa lẫn tiền của được" (Mt.6:19-22,24).
Chính v́ không có tinh thần khó nghèo, mà người thanh niên đạo đức đă giữ trọn các giới răn song vẫn không thể nào "t́m kiếm sự trọn lành" được bởi anh ta không muốn từ bỏ tất cả của cải giầu có của ḿnh (x.Mt.19:21-22). Nói cách khác, chỉ v́ anh chàng giầu có đạo đức này chưa được Phúc có Nước Thiên Chúa ngay nơi bản thân ḿnh là "kho báu trên trời" (Mt.19:21), nên anh ta không thể nào "t́m kiếm sự trọn lành" bằng việc "đến mà theo (Chúa Kitô)" (Mt.19:21), Đấng "không có chỗ dựa đầu" (Lk.9:58).
Thứ hai là Đức sống trong sầu thương đi với Phúc được an ủi. Tại sao Đức sống trong sầu thương lại được Chúa Giêsu cho đứng ngay sau Đức khó nghèo trong tinh thần, nếu không phải v́ Đức sống trong sầu thương này có liên hệ mật thiết và trực tiếp đến Đức khó nghèo. Không phải hay sao, tuy không thể theo Chúa t́m kiếm sự trọn lành được như ḷng mong ước, người thanh niên giầu sang phú qúi song đạo đức, như được đề cập đến trên đây, cũng đă tỏ ra "sầu thương". Nỗi "sầu thương" của chàng thanh niên không phải là v́ anh ta tiếc rẻ hay hối hận sau khi đă thực sự nghe lời Chúa Giêsu "bán hết của cải và thí cho kẻ nghèo" (Mt.19:21), mà là v́ anh ta muốn "t́m kiếm trọn lành" song không được.
Đó là lư do, cũng trong Bài Giảng trên núi Phúc Đức, Chúa Giêsu đă khẳng định: "Hăy qua cửa hẹp mà vào. Cửa dẫn đến diệt vong th́ rộng. Đường đi th́ rộng răi và có nhiều kẻ chọn hành tŕnh theo con đường này. Thế nhưng cửa dẫn đến sự sống th́ hẹp ḥi biết bao, đường đi th́ gồ ghề và có ít người t́m được nó biết bao" (Mt.7:13-14). "Có ít người t́m được nó", nghĩa là t́m được cửa dẫn đến sự sống này là ǵ, nếu không phải, theo Phúc Âm Thánh Luca, "Thày bảo cho các con biết, nhiều người sẽ cố gắng vào mà không được" (Lk.13:24). Người thanh niên đạo đức giầu có trên đây là một trường hợp điển h́nh.
Tuy nhiên, không phải chỉ có kẻ cố gắng mà không vào được cửa hẹp, cửa dẫn đến sự sống, mới "sầu thương" như anh chàng giầu có lại đạo đức kia, mà cả kẻ vào được cửa hẹp đi nữa, v́ là c̣n mang "bản chất th́ yếu nhược" (Mt.26:41) trên thế gian, họ cũng không thể nào hoàn toàn thốt được nỗi "sầu thương", một cách chủ quan nơi cảm xúc của họ, hay một cách khách quan nơi quan điểm thế gian, trong việc bỏ ḿnh mà theo Chúa. như trường hợp chính Chúa Giêsu cũng nhận thấy nơi các người môn đệ dấu yêu của Người là thành phần Tông Đồ chứng nhân cho Người sau này, khi Người thông cảm với các vị: "Thày bảo thật cho các con hay, các con sẽ khóc lóc than van trong khi thế gian hân hoan vui sướng" (Jn.16:20).
Thế nhưng, v́ không bỏ đi như nhiều môn đệ sau khi nghe Chúa Giêsu nói về máu thịt của Người là của ăn của uống (x.Jn.6:60,66), nhất là dù có "sầu thương" khi bị Thày nặng lời quở trách như trường hợp của vị lănh đạo Tông Đồ Đoàn (x.Mt.16:23), thành phần chứng nhân tiên khởi đă có Phúc được ủi an, như lời Chúa Giêsu trấn an các vị như sau: "Các con sẽ chịu sầu thương trong một thời gian, nhưng nỗi sầu thương của các con sẽ trở thành niềm vui" (Jn.16:20).
Tại sao "nỗi sầu thương của các con sẽ trở thành niềm vui" và "nỗi sầu thương của các con sẽ trở thành niềm vui" bằng cách nào? Chúa Giêsu đă cắt nghĩa thêm cho các vị Tông Đồ như sau: "Khi một người đàn bà lâm bồn th́ sầu thương v́ giờ của ḿnh đă đến. Lúc bà sinh được đứa con th́ bà không c̣n nhớ đến đớn đau của ḿnh nữa, bởi hân hoan khi thấy một con người được sinh vào đời. Cũng thế, các con sầu thương trong một thời gian, nhưng Thày sẽ gặp lại các con' bấy giờ ḷng các con sẽ hân hoan bằng một niềm vui không ai có thể cướp đoạt nơi các con được" (Jn.16:21-22). Như thế, Phúc được ủi an nơi thành phần chịu "sầu thương" khi họ nhất định từ bỏ mọi sự theo tinh thần khó nghèo để có thể vào qua cửa dẫn đến sự sống, đó là họ luôn luôn vững tâm trong việc theo Chúa Kitô là cửa hẹp họ phải qua và là Đường dẫn họ đến cùng Cha (x.Jn.14:6).
Thứ ba là Đức hiền lành đi với Phúc được hưởng đất đai. Lư do tại sao Đức hiền lành lại được Chúa Giêsu xếp vào hạng thứ ba trong Bài Giảng trên núi Phúc Đức của Người cũng chính v́ mối liên hệ của Đức này với Đức khó nghèo trong tinh thần và với Đức chịu sầu thương trên đây.
Đúng thế, nếu con người t́m kiếm sự trọn lành và theo Chúa Kitô đi đường hẹp chỉ v́ họ cho thế gian hay khinh thường tất cả những ǵ thuộc về thế gian tự bản chất là xấu, là đáng ghê tởm, th́ họ đă đi ngược đường, chắc chắn, một là họ sẽ bỏ cuộc v́ đi măi cũng không thấy Thiên Chúa là nguyên ủy và là cùng đích của mọi sự (x.Rev.21:6), hai là họ sẽ phải quay đầu lại để chân nhận giá trị đích thực của mỗi vật cũng như mọi vật, theo đúng nguyên tắc Chúa Giêsu dạy trong Bài Giảng trên núi Phúc Đức: có là có, không là không, ngoài ra chỉ là gian xấu (x.Mt.5:37).
Chính v́ thế, v́ công nhận chân giá trị của sự vật hay sự việc trần gian tự chúng không xấu, con người t́m kiếm sự trọn lành qua cửa hẹp mới không đi tới ngơ cụt, trái lại, họ c̣n được Phúc hưởng đất đai nữa. Ở chỗ, chẳng những họ không làm hư hoại nơi bản thân ḿnh tất cả những ǵ họ đă từ bỏ v́ cho chúng là đáng ghê tởm, mà c̣n nhờ tinh thần khó nghèo, tức tinh thần lănh đạm lành thánh của ḿnh, nhất là Đức chịu sầu thương của họ, trong việc bỏ mọi sự mà theo Chúa là Đường dẫn đến cùng Cha, họ trở nên như "muối ướp thế gian" (Mt.5:13) để giữ cho thế gian khỏi bị hư thối bởi sự lạm dụng của người chỉ biết làm tôi tiền của mà không biết trả về cho Thiên Chúa những ǵ thuộc về Ngài (x.Mt.22:21). Như thế không phải thành phần có Đức hiền lành này đă được Phúc huởng đất đai là được gấp trăm ngay ở đời này hay sao (x.Mt.19:29)?
Thứ bốn là Đức đói khát sự thánh thiện đi với Phúc được no thỏa. Đức đói khát sự thánh thiện được đứng hàng thứ bốn trong Bài Giảng trên núi Phúc Đức này, sau Đức khó nghèo trong tinh thần, Đức chịu sầu thương và Đức hiền lành, không phải hay sao, là v́ chỉ sau khi có đủ ba Đức này, người ta mới thực sự tỏ ra là ḿnh khao khát muốn nên trọn lành và mới có khả năng nên trọn lành, nghĩa là có thể theo Chúa Kitô.
Đúng thế, nhờ Đức khó nghèo trong tinh thần họ mới "không lo lắng về cuộc sống phải ăn ǵ uống ǵ" (Mt.6:25), nhờ Đức chịu sầu thương họ mới không chạy theo những sự thế gian như những người không tin tưởng ǵ (x.Mt.6:32), và nhờ Đức hiền lành họ mới không bất nhẫn bởi sự khó ngày nào đủ cho ngày đó (x.Mt.6:34) gây ra. Để rồi, kết quả phát sinh nơi con người có 3 Đức này là ḷng khao khát sự thánh thiện, đến nỗi, họ chỉ biết trước hết t́m kiếm Nước Thiên Chúa (x.Mt.6:33), và họ sẽ được Phúc no thỏa. Ở chỗ: "Cha trên trời của các con biết tất cả những ǵ các con cần" (Mt.6:32), Đấng biết lo cho chim trên trời và hoa đồng nội (x.Mt.6:26-28), sẽ ban cho con cái ḿnh là những kẻ tin tưởng bỏ hết mọi sự theo Con Ngài tất cả những ǵ Ngài thấy cần thiết cho họ, để họ có thể làm tôi phụng thờ Ngài cũng như làm tông đồ cho Con Ngài.
Thứ năm là Đức tỏ ḷng thương xót đi với Phúc được xót thương. Sở dĩ Đức thứ năm trong Bài Giảng trên núi Phúc Đức này được Chúa Giêsu gọi tên ngay sau Đức khao khát sự thánh thiện, là v́, con người đi đàng nhân đức, theo tâm lư tự nhiên, hay mắc phải cái tội thấy ḿnh sốt sắng đạo đức tốt lành th́ đâm ra kiêu căng ở chỗ khinh người khác, nhất là những người khô khan nguội lạnh hơn ḿnh. Không phải hay sao, đó là trường hợp mà Chúa Giêsu đă ví dụ về hai người lên đền thờ cầu nguyện, một người Pharisiêu công chính trong việc giữ tỉ mỉ lề luật, song lại tỏ ra khinh người thu thuế tội lỗi là người chỉ biết xấu hổ song ăn năn nhận lỗi của ḿnh trước mặt Chúa (x.Lk.18:9-14), và kết quả là, như Chúa nói: "Người này (thu thuế) từ đền thờ ra về được công chính, c̣n người kia (Pharisiêu) th́ không" (Lk.18:14).
Như thế, người thu thuế nhận Phúc được xót thương bởi Thiên Chúa, trong khi người Pharisiêu th́ không. Thật ra, không phải chỉ kẻ nào cảm thấy ḿnh công chính, đạo đức tốt lành mới dễ khinh người, c̣n kẻ có tội th́ không kiêu căng khinh người bao giờ. Nói như thế có nghĩa là người nghèo không bao giờ ham tiền thích của. Trái lại, càng nghèo lại càng mơ được giầu sang, được trúng số thế nào th́ người tội lỗi cũng vẫn có thể kiêu căng khinh người như vậy. Ở chỗ, họ không nhận ḿnh có tội, và như thế, đối với họ, kẻ tốt lành có thể là kẻ giả h́nh. Người thu thuế trong dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện, nếu không biết nhận lỗi của ḿnh, cũng không sai lầm khi coi thường bộ điệu và cuộc sống công chính của người Pharisiêu, cho người này chỉ là đồ giả h́nh (x.Mt.23:1-39).
Dù nhận xét của người thu thuế về người Pharisiêu có chính xác đi nữa, người thu thuế sẽ không c̣n nhận Phúc được xót thương như thái độ đấm ngực ăn năn lỗi lầm của ḿnh nữa, cũng là thái độ tỏ ra khao khát sự thánh thiện. Chính v́ thế, trong Bài Giảng trên núi Phúc Đức, Chúa Giêsu c̣n dạy các môn đệ của Người là "Nếu các con muốn khỏi bị đốn xét th́ đừng xét đốn. Các con kết án kẻ khác thế nào các con cũng sẽ bị kết án như vậy." (Mt.7:1).
Như thế, Phúc được xót thương của người biết thương xót là ở chỗ họ không bị xét đốn. Tuy nhiên, kinh nghiệm tu đức thường cho thấy, để có thể thương xót những kẻ khác, nhất là biết thông cảm với những lỡ lầm yếu đuối của tha nhân, Thiên Chúa hay để cho những người càng khao khát nhân đức trọn lành lại càng hầu như không thể đạt được kết quả như ḷng mong ước, trái lại, họ cảm thấy ḿnh yếu đuối lạ lùng, cứ sa đi ngă lại cùng một lầm lỗi, thường là lỗi nhẹ, đôi khi lỗi nặng.
Cho đến khi con người khao khát nhân đức trọn lành biết thương cảm tha nhân, không dám khinh thường một ai, dù người đó có xấu xa tội lỗi đến thế nào đi nữa, th́ bấy giờ họ mới bắt đầu biết thương xót, một Đức thương xót phát xuất từ Phúc họ được xót thương như họ thực sự cảm nhận thấy nơi Thiên Chúa là Đấng đă thương xót họ, tha cho họ món nợ họ không thể trả (x.Lk.7:42), Đấng cũng đă dậy họ phải "xin tha cho chúng con điều sai trái chúng con đă làm, như chúng con cũng tha cho những ai phạm đến chúng con" (Mt.6:12).
Thứ sáu là Đức có tâm hồn thanh sạch đi với Phúc được thấy Thiên Chúa. Đức có tâm hồn thanh sạch này là Đức được Chúa Giêsu kể đến sau Đức thương xót và Đức khao khát sự thánh thiện, tức là nó phải có một liên hệ mật thiết với hai Đức này. Bởi v́, chỉ sau khi con người khao khát nhân đức trọn lành thật không dám khinh thường thành phần tội nhân, trái lại c̣n biết thương cảm thành phần này, th́, kinh nghiệm tu đức cho thấy, từ bấy giờ họ mới bắt đầu có tâm hồn thanh sạch. Ở chỗ, tất cả mọi và từng việc đạo đức họ làm, như làm phúc bố thí, đọc kinh cầu nguyện, hy sinh hăm ḿnh, họ chỉ thi hành hoàn toàn v́ và cho "Đấng thấy nơi kín đáo" (Mt.6:4), "Đấng thấy những ǵ con người không thấy" (Mt.6:6), "Đấng ở nơi kín ẩn" (Mt.6:18) mà thôi, không c̣n một ư hướng phụ thuộc hay pha phôi nào khác.
Chưa hết, ngoài ư hướng ngay lành trong khi làm việc lành phúc đức này ra, bằng Đức hiền lành đối với giá trị khách quan của các tạo vật, và bằng Đức thương xót đối với giá trị luân lư nơi đồng loại, con người khao khát nhân đức trọn lành sẽ chỉ nh́n tạo vật với một con mắt lành thánh, dưới ánh sáng Đức Tin trong Thiên Chúa. Do đó, họ hết sức tôn trọng mọi sự, chứ không c̣n đôi mắt thèm thuồng chỉ biết t́m kiếm tạo vật theo đam mê nhục dục của ḿnh nữa, nhất là đối với nhân vật khác phát tính với ḿnh, như kiểu diễn tả của Chúa Giêsu trong Bài Giảng trên núi Phúc Đức về con người dâm dục nh́n người nữ (x.Mt.5:28).
Chính v́ thành phần khao khát nhân đức trọn lành có một tâm hồn thanh sạch như vậy, không có ước muốn xấu xa tội lỗi, nhất là không có những ư hướng bất chính trần tục trong việc lành phúc đức, trái lại, chỉ biết t́m Chúa trong mọi sự, mà họ được Phúc thấy Thiên Chúa, Đấng mà trong Ngài họ nh́n thấy mọi sự và ôm ấp tất cả mọi sự. Và cũng nhờ được thấy Thiên Chúa trong mọi sự bằng Đức Tin chiếu sáng của ḿnh mà các việc họ làm lại càng được nên thanh sạch và càng đẹp ḷng Ngài.
Thứ bảy là Đức kiến tạo ḥa b́nh đi với Phúc được gọi là con Thiên Chúa. Đức kiến tạo ḥa b́nh này không thể nào có nơi con người trần gian nếu họ không được Phúc thấy Thiên Chúa, "Đấng muốn mọi người được cứu rỗi và nhận biết chân lư" (1Tim.2:5). Chính v́ thế, với Đức có ḷng thanh sạch chỉ t́m Chúa trọng mọi sự và nh́n mọi sự trong Chúa, nghĩa là khi họ được hoàn toàn kết hợp với Chúa, Chúa sống trong họ và họ sống trong Chúa, họ sẽ sống trong b́nh an và sẽ làm cho những người khác được an b́nh nữa, nhất là đối với những ai đụng phạm đến họ hay giao tiếp với họ.
Thực tế không cho thấy hay sao, các thánh nhân là những vị một khi đă đạt đến tŕnh độ kết hợp với Chúa sâu xa th́ không ǵ có thể tách các ngài ra khỏi t́nh yêu Thiên Chúa được nữa, như trường hợp của Thánh Phaolô Tông Đồ Dân Ngoại (x.Rm.8:35-39). Trái lại, sự sống viên măn nơi các ngài sẽ làm cho mọi sự xẩy ra trong cuộc đời các ngài được thông phần với sự sống của các ngài mà nên trọn như Thánh Ư Chúa muốn. Điển h́nh nhất là đối với những ai có làm điều ǵ phạm đến các ngài, không cần họ phải đến xin lỗi, các ngài cũng đă tha thứ cho họ rồi (x.Mt.5:23-24), như các ngài chưa hề bị xúc phạm đến, v́ cuộc đời của các ngài lúc nào cũng là một cuộc cử hành Mầu Nhiệm Thánh, Mầu Nhiệm Yêu Thương.
Phải, chính v́ thành phần được Phúc thấy Thiên Chúa biết "cho vay mượn mà không cần đền trả" (Lk.6:35) này, tức thành phần "không chối từ kẻ vay mượn ḿnh" (Mt.5:42) món nợ bác ái (x.Rm.13:8), mà họ mới "đáng gọi là con Đấng Tối Cao, v́ chính Ngài đối xử tốt lành với cả người vô ơn lẫn kẻ gian ác" (Lk.6:35). Đức bác ái trọn lành trong việc kiến tạo ḥa b́nh nơi tha nhân như thế thực sự đă chứng tỏ họ là con cái Thiên Chúa, thành phần phản ảnh sống động "Người Con duy nhất đến từ Cha" (Jn.1:14), Đấng mà "Thiên Chúa giải ḥa nơi bản thân Người tất cả mọi sự dưới đất cũng như trên trời" (Col.1:20).
Thứ tám là Đức chịu bắt bớ v́ sự thánh thiện đi với Phúc chiếm được nước Thiên Chúa. Trong Bài Giảng trên núi Phúc Đức, Phúc chiếm được Nước Thiên Chúa ở Đức thứ tám này, tuy cũng là Phúc của Đức thứ nhất là Đức khó nghèo trong tinh thần, nhưng chúng khác nhau về mức độ. Nếu Phúc chiếm được Nước Thiên Chúa ở Đức khó nghèo trong tinh thần, như đă nói, là t́nh trạng hạt giống Đức Tin chất chứa tất cả Mạc Khải của Thiên Chúa bắt đầu đâm rễ và phát triển nơi Kitô hữu thế nào, th́ Phúc chiếm được Nước Thiên Chúa ở Đức chịu bắt bớ v́ sự thánh thiện này là Phúc chiếm được "tất cả sự thật" (Jn.16:13), một tầm vóc hoàn toàn nhất của Đức Tin, phản ảnh trung thực tất cả những ǵ Thiên Chúa muốn Mạc Khải cho con người.
Tuy nhiên, trên thực hành, nếu không có Đức kiến tạo ḥa b́nh cũng sẽ không có Đức chịu bắt bớ v́ sự thánh thiện được, và do đó cũng không có Phúc chiếm được Nước Thiên Chúa ở tầm mức hoàn toàn nhất của nó nơi thụ tạo sống Đức Tin. Thực hành c̣n cho thấy, cũng chính v́ ánh sáng đức ái tỏa ra từ thành phần khao khát nhân đức trọn lành được gọi là con cái Thiên Chúa trong việc họ kiến tạo ḥa b́nh, mà họ đă bị thế gian "yêu tối tăm hơn ánh sáng" (Jn.3:19) chống đối, khủng bố và bắt bớ họ (x.Wís.2:12-20).
Thế nhưng, bóng tối không thể lấn át ánh sáng thế nào, ánh sáng đức ái trọn lành tỏa ra từ thành phần có Đức kiến tạo ḥa b́nh qua Đức chịu bắt bớ v́ sự thánh thiện cũng sẽ làm tan biến đi dần dần bóng tối sự chết trên thế gian như vậy, để ánh sáng thế gian là Chúa Kitô (x.Jn.8:12), Mạc Khải của Thiên Chúa, được thế gian nhận biết. Nếu việc Thiên Chúa Mạc Khải là việc Thiên Chúa yêu thương th́ thành phần được Phúc gọi là con cái Thiên Chúa, khi chỉ biết "yêu thương kẻ thù ḿnh và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ ḿnh" (Mt.5:44), "chứng tỏ ḿnh là con cái của Cha trên trời" (Mt.5:45), th́ họ đă hoàn thành "cuộc tỏ hiện của con cái Thiên Chúa" (Rm.8:19) nơi thế giới tạo vật, nhờ đó họ cũng đồng thời làm cho "Nước Cha trị đến" (Mt.6:10).
Thứ chín là Đức chịu nhục mạ, bắt bớ và rủa xả v́ Thày đi với Phúc được phần thưởng lớn lao ở trên trời. Theo cấp trật về Phúc trong Bài Giảng trên núi Phúc Đức của Chúa Giêsu, Phúc được phần thưởng lớn lao ở trên trời đây là Phúc cuối cùng, được kể đến tên ngay sau Phúc chiếm được Nước Thiên Chúa. Như thế, Phúc chiếm được Nước Thiên Chúa và Phúc được phần thưởng lớn lao ở trên trời là hai Phúc hoàn toàn khác biệt, chứ không phải chỉ là một Phúc, như Phúc tử đạo chẳng hạn, v́ nơi hai Đức liên quan đến hai Phúc này đều nói đến việc chịu "bắt bớ". Tuy nhiên, cả về Đức cũng thế, chúng cũng khác biệt nhau, ở chỗ, một Đức chịu bắt bớ v́ sự thánh thiện, c̣n một Đức chịu bắt bớ v́ Thày.
Nếu "chịu bắt bớ v́ sự thánh thiện" là chịu bắt bớ v́ cuộc sống trong Chúa Kitô, một cuộc sống yêu mến Thày th́ tuân giữ những lời Thày truyền (x.Jn.14:23), th́ "chịu bắt bớ v́ Thày" tức là chịu bắt bớ v́ Chúa Kitô sống trong kẻ bị bắt bớ, kẻ được Người thương và tỏ ḿnh ra cho họ (x.Jn.14:21). Như thế, Đức chịu bắt bớ v́ Thày chứng tỏ con người chịu bắt bớ v́ Thày này đă thực sự nên một với Chúa Kitô, nên ánh sáng thế gian (x.Mt.5:14) như Người là ánh sáng thế gian (x.Jn.8:12). Điển h́nh là trường hợp của Thánh Stephanô, vị tử đạo tiên khởi, đối đáp khôn ngoan vô địch (x.Acts 6:10), mặt mũi sáng láng như thiên thần (x.Acts 6:15), được thấy trời mở ra và thấy Con Người ngự bên hữu Thiên Chúa (x.Acts 7:55). Hay Maximilianô Kolbe yêu như Thày đến chết thay cho tha nhân ở thế chiến II.
Cũng có thể phân tách hai Đức chịu bắt bớ này như sau. Đức chịu bắt bớ v́ sự thánh thiện có thể xẩy ra cho tất cả mọi Kitô hữu chân chính sống ngược lại với chiều hướng của thế gian, khiến cho những người sống theo thế gian, kể cả bạn bè hay gia đ́nh, cảm thấy khó chịu, xa lánh, làm khó dễ, c̣n Đức chịu bắt bớ v́ Thày thường xẩy ra cho những nhà truyền giáo, hay những vị có thẩm quyền tháo gỡ trong Giáo Hội, gây ra bởi quyền lực thế gian, hay bởi chính áp lực nội bộ, có thể làm thương tổn đến cả mạng sống của nhà truyền giáo hay của vị có thẩm quyền.
Bởi vậy, xét khách quan về tính cách cũng như h́nh thức của sự việc th́ Đức chịu bắt bớ v́ Thày có giá hơn Đức chịu bắt bớ v́ sự thánh thiện. Do đó, Phúc được phần thưởng lớn lao trên trời, xét về giá trị công nghiệp, vẫn đáng ước mong hơn, v́ đó chính là Phúc được Tử Đạo, Phúc được hưởng Thánh Nhan Thiên Chúa ngay sau khi chết, mà không cần qua lửa luyện tội. Trong khi đó, một vị thánh sống đến đâu đi nữa, sau khi chết, chưa chắn đă được về thẳng Thiên Đàng, hay là c̣n phải chờ đền tội một thời gian, cho dù rất ngắn đi nữa.
Tuy nhiên, việc được về hưởng kiến Thánh Nhan Thiên Chúa ngay cũng chưa phải là Phúc được phần thưởng lớn lao trên trời của thành phần có Đức chịu bắt bớ v́ Thày. Phúc được phần thưởng lớn lao trên trời của họ cũng không phải ở chỗ họ sẽ cùng với Thày ngồi trên ṭa mà phán xét 12 chi tộc Yến Duyên (x.Mt.19:28), cho bằng Người ở đâu họ cũng ở đó để chiêm ngắm vinh hiển Người (x.Jn.17:24)