"gịng sông chảy nước ban sự sống"
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Phần Hai
"Nước Ban Sự Sống": Đức Tin
18. Mô Phạm Đức Tin: Đức Maria
Nếu Mạc Khải là việc "Thiên Chúa nói với chúng ta qua Con của Ngài" (Heb.1:2) th́ "Lời đă hố thành nhục thể và ở giữa chúng ta" (Jn.1:14) là "tất cả sự thật" (Jn.16:13) Thiên Chúa muốn tỏ ra cho loài người chúng ta biết. Bởi thế, ai có "Người Con duy nhất đến từ Cha, đầy chân lư" (Jn.1:14), "Đấng tỏ Cha ra" (Jn.1:18) này là có "tất cả sự thật", tức có tất cả những ǵ "là phản ảnh vinh quang Cha, là hiện thân đích thực của hữu thể Cha" (Heb.1:3). Mà ai trong cả nhân loại nói riêng và toàn thể tạo vật nói chung, kể cả các thiên thần, có Con Thiên Chúa bằng Đấng được miệng lưỡi đầy Thánh Linh chúc tụng "Người có phúc v́ đă tin những lời của Chúa phán cùng Người sẽ được thực hiện" (Lk.1:45).
Và nếu Mạc Khải là việc Thiên Chúa tỏ ra yêu thương nhân loại chúng ta, qua việc Ngài "yêu thế gian đến nỗi ban Con Một của Ngài để ai tin Con th́ không phải chết song được sự sống đời đời" (Jn.3:16), th́ ai có "Người Con duy nhất đến từ Cha, đầy ân sủng" (Jn.1:14), Đấng là chính "sự sống đời đời hằng ở nơi Cha đă trở nên hữu h́nh cho chúng ta" (1Jn.1:2) này "là có sự sống" (1Jn.5:12), cho bằng vị Trinh Nữ đă được sứ thần Thiên Chúa kính chào "đầy ơn phúc" (Lk.1:28) và báo tin "sẽ thụ thai và hạ sinh... Con Đấng Tối Cao" (Lk.1:31,32).
Như thế, t́nh trạng và mức độ "đầy ơn phúc" của Người Nữ tự nhận và chúc tụng "Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng đă làm những sự trọng đại" (Lk.1:49) cho ḿnh là Mẹ Maria ở đây là t́nh trạng và mức độ đầy "Người Con duy nhất đến từ Cha, đầy ân sủng và chân lư" (Jn.1:14). Căn cứ vào thời điểm của lời sứ thần chào kính, Mẹ Maria thực sự đă đầy "Người Con duy nhất đến từ Cha" trước khi Mẹ được "thụ thai và hạ sinh... Con Đấng Tối Cao".
Tuy nhiên, v́ là một tạo vật thuần túy, t́nh trạng và mức độ "đầy ơn phúc" của Mẹ không giống như và không phải là t́nh trạng và mức độ "đầy ân sủng" theo bản tính của Lời nhập thể, Con Mẹ. Thế nhưng, cũng không phải v́ thế mà t́nh trạng và mức độ "đầy ơn phúc" nơi Mẹ Maria chỉ "đầy" khi Mẹ bắt đầu thụ thai Lời nhập thể, mà là ngay giây phút Mẹ được đầu thai, một t́nh trạng và mức độ "đầy ơn phúc" cũng không phải một khi đă được bắt đầu từ giây phút đầu thai như thế sẽ không c̣n có thể "đầy" hơn được nữa.
Sau đây là phần tŕnh bày về Mẹ Maria: Mô Phạm Đức Tin, một Đức Tin Ân Phúc và là một Đức Tin Cứu Độ. Cũng giống như các phần khác trong cuốn sách này, thể thức tŕnh bày mỗi vấn đề sẽ theo thứ tự như sau:
1- Xác Tín vấn đề (giáo lư).
2- Mạc Khải vấn đề (Lời Chúa).
3- Nhận Thức vấn đề (diễn giải).
XXXVIII- Đức Maria: Đức Tin Ân Phúc
Xác Tín 42
Mẹ Maria là Mô Phạm Đức Tin v́ Mẹ có một Đức Tin Ân Phúc, ở chỗ, Mẹ luôn lắng nghe lời Chúa và giữ lời của Ngài, được gieo vào ḷng Mẹ là một mảnh đất hết sức ph́ nhiêu và mầu mỡ, như một Hạt Giống Thần Linh đă trổ sinh hoa trái gấp trăm.
Mạc Khải
"'Phúc cho ḷng đă cưu mang Ngài và vú đă cho Ngài bú'. Người (Chúa Giêsu) đáp: 'Phúc hơn cho kẻ nghe lời của Thiên Chúa và giữ lấy lời của Ngài'" (Lk.11:28).
Nhận Thức
Đúng thế, như trang 358 đă nhận định, không phải chỉ vào lúc được thụ thai Con Đấng Tối Cao Mẹ Maria mới được "đầy ơn phúc", như lời sứ thần kính chào Mẹ trong ngày truyền tin Lời nhập thể cho Mẹ. Trái lại, Mẹ đă được "đầy ơn phúc" ngay từ giây phút vừa đầu thai trong ḷng mẹ của ḿnh.
Không phải hay sao, nếu "Thiên Chúa đă ban sự sống đời đời cho chúng ta, và sự sống đời đời này ở nơi Con của Ngài. Ai có Con là có sự sống, ai không có Con Thiên Chúa th́ không có sự sống" (1Jn.5:11-12), th́ ngay từ khi vừa được đầu thai trong ḷng mẹ ḿnh, Mẹ Maria mà không "có" "Đức Kitô, Con Thiên Chúa" (Mt.16:16) tức khắc th́ Mẹ đă bị ở trong sự chết như "tất cả mọi người" (Rm.3:23), nghĩa là Mẹ đă bị ở trong t́nh trạng được sinh bởi "cha ḿnh là ma qủi... tên sát nhân ngay từ ban đầu" (Jn.8:44). Chẳng lẽ Lời nhập thể là Con Thiên Chúa và là chính Thiên Chúa (x.Jn.1:1) lại được thụ thai và hạ sinh bởi một người mẹ là "gịng dơi" (Gen.3:15) của "con cựu xà" (Rev.12:9) th́ làm sao có thể "tỏ ḿnh ra để phá hủy các công việc của ma qủi" (1Jn.3:8) được.
Bởi thế, Mẹ Maria phải được hưởng trước công ơn cứu chuộc của "Người Con duy nhất đến từ Cha, đầy ân sủng và chân lư" (Jn.1:14), khi Mẹ được Thiên Chúa ban cho đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội ngay từ giây phút thoạt đầu thai trong ḷng mẹ ḿnh. Bởi "có" Chúa Kitô ngay từ giây phút vừa đầu thai trong ḷng mẹ ḿnh như thế mà Mẹ Maria đă "có" sự sống đời đời, nghĩa là trở thành một tạo vật đầu tiên đă "được tái sinh bởi trên cao" (Jn.3:3). Và cũng chính v́ là một tạo vật đầu tiên "được tái sinh từ trên cao" khi Lời chưa hố thành nhục thể mà Mẹ phải nhận được "sự sống đời đời" ở một mức độ trọn vẹn nhất và "đầy" nhất, nghĩa là Mẹ phải "có" Con Thiên Chúa hoàn toàn, hay phải "có" "đầy" Chúa Kitô, "quả phúc của ḷng Mẹ" (Lk.1:42).
Nói rằng Mẹ Maria được "đầy" Chúa Kitô, "đầy" sự sống đời đời ngay từ giây phút thoạt đầu thai trong ḷng mẹ của ḿnh, th́ không có nghĩa là "sự sống đời đời" nơi Mẹ từ đó không c̣n "hơn" được nữa, và Chúa Kitô nơi Mẹ không cần lớn lên trong Mẹ nữa. Bởi v́, mức độ và t́nh trạng đầy sự sống đời đời, đầy Chúa Kitô của Mẹ ngay từ giây phút thoạt đầu thai trong ḷng thai mẫu của Mẹ này mới chỉ là mức độ và t́nh trạng "đầy ơn phúc" được hưởng trước của Mẹ mà thôi, nghĩa là đầy tất cả những ǵ Thiên Chúa đă và đang ban cho Mẹ, và về phần Mẹ, mức độ và t́nh trạng "đầy" này cứ tăng lên theo đà Thiên Chúa sẽ tỏ ḿnh cho Mẹ.
Bởi thế, nơi trường hợp của Mẹ Maria, t́nh trạng và mức độ "đầy ơn phúc" của Mẹ được hiểu về phía Thiên Chúa và về phía Mẹ Maria. Về phía Thiên Chúa, Ngài đă ban tất cả bản thân Ngài là chính Con Ngài cho Mẹ, và về phía Mẹ, Mẹ cũng đă "chấp nhận" (Jn.1:12) Ngài như Ngài ban cho, không khi nào và không mất đi một chút nào, đúng như lời mẹ của thai nhi Gioan Tiền Hô đă nói: "Phúc cho chị v́ đă tin rằng những lời Chúa nói cũng chị sẽ được thực hiện" (Lk.1:45).
Mà việc Thiên Chúa ban Con Ngài cho Mẹ đây là ǵ, khi Mẹ chưa chính thức được thụ thai Con Ngài trong cung ḷng toàn trinh của Mẹ, nếu không phải là Ngài đă hoàn toàn tỏ ḿnh ra cho Mẹ, tức đă mạc khải cho một ḿnh Mẹ "tất cả sự thật" (Jn.16:13). Nói như thế không có nghĩa là Mẹ Maria đă hoàn toàn thấu triệt "tất cả sự thật" được Thiên Chúa tỏ ra cho Mẹ ngay từ giây phút đầu thai trong ḷng thai mẫu, v́ sau này, lúc Mẹ t́m thấy Hài Nhi Giêsu trong đền thánh Gia-Liêm qua 3 ngày lạc mất, Mẹ cũng không hiểu lời Con Mẹ nói với Mẹ và thánh Giuse bấy giờ (x.Lk.2:50). Đó là lư do cho thấy rằng t́nh trạng và mức độ "đầy ơn phúc" của Mẹ Maria là một t́nh trạng và mức độ cứ "đầy đặn" và không bao giờ vơi, ở chỗ, về phía Thiên Chúa, Ngài luôn luôn tỏ ḿnh ra cho Mẹ cho đến khi Mẹ có thể biết được "tất cả sự thật", hay cho đến khi Ngài tỏ hết ḿnh ra cho Mẹ, và về phía Mẹ, Mẹ hằng liên lỉ không bao giờ thôi lắng nghe và giữ lời Thiên Chúa từng li từng tí (x.Lk.11:28), bằng cách Mẹ luôn luôn có một thái độ tỉnh thức để suy niệm trong ḷng tất cả những ǵ xẩy ra cho Mẹ hay liên quan đến cuộc đời của Mẹ (x.Lk.2:19,3:51).
Thật ra Thiên Chúa không chỉ tỏ cho một ḿnh Mẹ Maria biết "tất cả sự thật" mà thôi, Ngài c̣n tỏ "tất cả sự thật" là Lời nhập thể và nơi Chúa Giêsu Kitô cho chung loài người biết nữa. Thế nhưng, v́ Mẹ được ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội, tức không bị ngăn trở ǵ trước Mạc Khải Thần Linh là "ánh sáng chiếu trong tăm tối" (Jn.1:5), do đó, chỉ có một ḿnh Mẹ trong cả loài người mới được "đầy ơn phúc", mới "có phúc hơn mọi người nữ" (Lk.42). Mẹ Maria "có phúc hơn mọi người nữ" ở đây có thể hiểu là Mẹ "có phúc hơn" tất cả mọi tạo vật nói chung và loài người nói riêng, v́ "người nữ" ở đây nói lên thân phận đích thực của tạo vật cũng như của loài người được Thiên Chúa dựng nên để Ngài có thể thông ban sự sống của Ngài cho họ là chính mạc khải của Ngài, như người chồng thiết tha yêu thương bạn ḿnh (x.Is.54:5' Hos.2:18). Với đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội được Thiên Chúa ban riêng cho này, Mẹ Maria nhờ đó mới có thể hoàn toàn phản ánh "Thiên Chúa là ánh sáng" (1Jn.1:5).
Đó là lư do cuốn Hận Thù Quyết Thắng ở trang 410 đă nhận định: "Có thể nói Thiên Chúa ban cho Mẹ Maria đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội là để Ngài có thể hoàn toàn tỏ ḿnh Ngài ra cho chung tạo vật qua con người của Mẹ. Bởi đó, nơi Mẹ Maria, đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội là tấm gương thần linh phản ảnh 'Thiên Chúa là Thần Linh' (Jn.4:24), là khả năng siêu nhiên để Mẹ có thể 'nhận biết và chấp nhận' (Jn.1:10,11) mạc khải của Ngài. Thế nên Mẹ Maria tỏ ra 'có phúc v́ đă tin' (Lk.1:45), đến nỗi, cả thân xác của Mẹ được 'thụ thai và hạ sinh' (Lk.1:31) 'Lời đă hố thành nhục thể' (Jn.1:14)".
Như thế phải chăng hai nguyên tổ trước khi sa ngă phạm tội cũng đă được đầy ơn phúc như Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội? Không sai, khi c̣n ở trong t́nh trạng công chính nguyên thủy, hai nguyên tổ cũng được đầy ơn phúc. Tuy nhiên, t́nh trạng và mức độ đầy ơn phúc ngay từ ban đầu nơi nguyên tổ loài người so với t́nh trạng và mức độ "đầy ơn phúc" nơi Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội hoàn toàn khác nhau. Bởi v́ t́nh trạng và mức độ đầy ơn phúc nơi nguyên tổ loài người ngay từ ban đầu là t́nh trạng và mức độ của một thứ ánh sáng phát ra từ một cây đèn c̣n đầy dầu, trong khi t́nh trạng và mức độ "đầy ơn phúc" nơi Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội khi Mẹ vừa đầu thai trong ḷng thai mẫu là t́nh trạng và mức độ của ánh sáng b́nh minh, một thứ "ánh sáng thật chiếu soi cho tất cả mọi người (sẽ) đến trong thế gian" (Jn.1:9), tức là một thứ ánh sáng phát quang từ "Mặt Trời công chính sẽ mọc lên" (Mal.3:20) là Chúa Giêsu Kitô.
Vậy, nếu "Thiên Chúa là ánh sáng" (1Jn.1:5) không thể nào không tỏa sáng, tức không thể nào không tỏ ḿnh ra, không mạc khải chính ḿnh, và một khi đă tỏ ḿnh ra, đă mạc khải chính ḿnh, th́ Thiên Chúa sẽ mạc khải, sẽ tỏ ḿnh ra hết cỡ, chứ không chỉ tỏ một phần ḿnh. Cũng thế, nếu "Thiên Chúa là t́nh yêu" (1Jn.4:8,16) không thể nào không yêu, và một khi đă yêu th́ phải "yêu cho đến cùng" (Jn.13:1), yêu cho đến giọt máu cuối cùng, cho đến khi "máu cùng nước chảy ra" (Jn.19:34), chứ không phải chỉ yêu một chút hay yêu một lúc. Bằng chứng là "Thiên Chúa đă yêu thế gian đến nỗi đă ban Con Một ḿnh" (Jn.3:16), Đấng là tất cả bản thân Ngài (x.Heb.1:3), là tất cả những ǵ Ngài muốn nói với tạo vật (x.Heb.1:2), tức là tất cả mạc khải Ngài muốn tỏ ra cho tạo vật biết nơi nhân tính loài người của Con Ngài.
Như thế t́nh trạng và mức độ "đầy ơn phúc" nơi Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội là t́nh trạng và mức độ của một "sự sống viên măn hơn" (Jn.10:10) t́nh trạng và mức độ đầy ơn phúc nơi nguyên tổ ngay từ ban đầu. Chính v́ t́nh trạng và mức độ chưa trọn đầy ơn phúc nơi nguyên tổ, mà "Thiên Chúa là ánh sáng" đă lợi dụng việc sa ngă của nguyên tổ để "chiếu soi trong tăm tối", bằng việc "Lời hố thành nhục thể và ở giữa chúng ta" (Jn.1:14), mà thông ban Sự Sống Thần Linh của Ngài "cho chiên được sự sống viên măn hơn" (Jn.10:10). Và chỉ khi nào "sự sống viên măn hơn" này được trọn vẹn thông ban, "Thiên Chúa là t́nh yêu" mới hoàn toàn thỏa nguyện, "Thiên Chúa là Thần Linh" (Jn.4:24) mới thấy tương xứng với bản tính của Ngài, và "Thiên Chúa là ánh sáng" mới được tỏ hiện qua dự án của Ngài (x.Eph.1:5,10) nơi "mầu nhiệm Chúa Kitô" (Eph.3:4).
Thế nhưng, không phải v́ được đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội th́ Mẹ Maria "đầy ơn phúc" ngay từ lúc vừa đầu thai trong ḷng thai mẫu sẽ không bao giờ c̣n có thể phạm tội được nữa, nghĩa là không bao giờ c̣n có thể làm giảm đi mức độ "đầy ơn phúc" của ḿnh nữa. Trái lại, càng đầy lại càng dễ tràn và đổ ra ngoài thế nào, th́ t́nh trạng và mức độ đầy ơn phúc của nguyên tổ loài người đă xẩy ra đúng như vậy. Không phải hay sao, ngay từ ban đầu, với bản tính c̣n hết sức tốt lành, hết sức ngây thơ trong trắng, hoàn toàn không biết đến tội lỗi là ǵ, thế mà nguyên tổ loài người, với tự do Thiên Chúa ban cho để có thể nhận biết và yêu mến Ngài là Đấng đă dựng nên họ theo h́nh ảnh và tương tự như Ngài (x.Gn.1:26-27), cũng đă phạm tội được, chỉ v́ họ muốn tự động lên bằng Thiên Chúa (x.Gn.3:5-6), tức đă làm nghiêng lệch trật tự Thiên Chúa đă an bài, nên cũng làm đổ mất t́nh trạng và mức độ đầy ơn phúc của ḿnh ngay từ ban đầu.
Trường hợp của Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội cũng thế. Nhờ đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, về phương diện tích cực, Mẹ đă nhận biết Thiên Chúa ngay từ khi vừa được thụ thai trong ḷng thai mẫu, và về phương diện tiêu cực, Mẹ không có đam mê nhục dục, tức không bị phần hạ lấn át và chi phối phần thượng như nơi tất cả mọi người sinh ra trên thế gian bị quyền lực sự chết thống trị. Tuy nhiên, đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ vẫn không giữ Mẹ khỏi mọi cám dỗ, mà trái lại, đặc ân này càng làm cớ cho Mẹ bị cám dỗ nhiều hơn nữa bởi "Satan là tên cám dỗ cả thế gian" (Rev.12:9), ở chỗ hắn có thể cám dỗ Mẹ kiêu căng đưa ḿnh lên và khinh người khác v́ họ không "có phúc" như Mẹ, "được ơn nghĩa với Thiên Chúa" (Lk.1:30) như Mẹ, được thụ thai và sinh hạ Con Đấng Tối Cao như Mẹ. Với tự do sẵn có, Mẹ cũng có thể "sa chước cám dỗ" (Mt.6:13) trong việc đưa ḿnh lên, như con khổng long hay Evà.
Thế nhưng, trong suốt cuộc đời trần gian của ḿnh, Mẹ Maria đă không bao giờ làm hao hụt đi một chút nào t́nh trạng và mức độ "đầy ơn phúc" của Mẹ. Trái lại, Mẹ đă sống t́nh trạng và mức độ "đầy ơn phúc" của Mẹ và làm cho nó càng ngày càng "viên măn hơn" (Jn.10:10), chẳng khác ǵ như ánh sáng càng lúc càng nóng nẩy hơn, càng rực rỡ hơn, từ lúc b́nh minh cho đến chính ngọ. Bởi thế Mẹ Maria đă được Thánh Kinh Cựu Ước ngỡ ngàng chiêm ngưỡng thấy: "đang tiến lên như rạng đông... rực rỡ như mặt trời" (Sgs.6:10), và trong Thánh Kinh Tân Ước Mẹ "như một điềm lạ vĩ đại xuất hiện trên không trung... mặc áo mặt trời" (Rev.12:1).
Và Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội đă sống t́nh trạng và mức độ "đầy ơn phúc" của Mẹ cho đến tuyệt đỉnh của cấp trật ân sủng, đến được tận biên giới của Thần Tính Thiên Chúa như thế nào, nếu không phải Mẹ đă sống bằng một tinh thần đức tin của một tôi tớ xin vâng (x.Lk.1:38), một tinh thần được Mẹ diễn tả trong ca vịnh "Ngợi Khen" tuyệt vời của Mẹ, đó là tinh thần kính sợ Thiên Chúa (x.Lk.1:50) trong nỗi hèn mọn của ḿnh (x.Lk.1:52) và không khao khát ǵ hơn là Đấng cứu chuộc của ḿnh (x.Lk.1:53,47).
Với tinh thần đức tin là tôi tớ xin vâng này, Mẹ Maria chẳng những đă bù đắp lại "những ư nghĩ kiêu căng" (Lk.1:51) và ham hố lăng loàn (x.Lk.1:52-53) của Evà cũng như Satan đă tỏ ra ngay từ ban đầu, Mẹ c̣n thực hiện được cả giấc mộng lên bằng Thiên Chúa của Evà nữa, khi Mẹ trở thành con đường thông thương để Thiên Chúa từ Mẹ đến với loài người cũng như với "tất cả mọi tạo vật" (Mk.16:16). Như thế, tinh trạng và mức độ "đầy ơn phúc" của Mẹ là t́nh trạng và mức độ "đầy ơn phúc" cho "tất cả mọi tạo vật" nữa vậy.
XXXIX- Đức Maria: Đức Tin Cứu Độ
Xác Tín 43
Mẹ Maria là Mô Phạm Đức Tin v́ Mẹ chẳng những có Đức Tin Ân Phúc, Mẹ c̣n có cả một Đức Tin Cứu Độ nữa, ở chỗ, Lời nhập thể là Đức Kitô, Con Mẹ, chẳng những được Mẹ cưu mang và hạ sinh vào thế gian về thể lư mà c̣n được Mẹ cưu mang và hạ sinh cho loài người một cách thần linh nữa.
Mạc Khải
"Ai làm theo ư Cha trên trời của Tôi là anh chị em và là Mẹ đối với Tôi" (Mt.12:50)
"Thấy mẹ ḿnh đứng đó (kề bên thập giá) cùng với người môn đệ Người thương, Chúa Giêsu nói với Mẹ Người rằng: 'Này bà, đấy là đứa con của bà'. Đoạn nói cùng người môn đệ rằng: 'Người Mẹ của con đó'" (Jn.19:26-27).
Nhận Thức
Nếu t́nh trạng và mức độ "đầy ơn phúc" nơi Mẹ Maria hoàn toàn phản ánh trung thực "Thiên Chúa là ánh sáng" (1Jn.1:5), "là t́nh yêu" (1Jn.4:8,16), "là Thần Linh" (Jn.4:24), Đấng muốn tỏ ḿnh cho "tất cả mọi tạo vật" nói chung và cho con người nói riêng, th́ đức tin của Mẹ phải là một đức tin chân thực nhất, tuyệt đối nhất, và tinh tuyền nhất. Bởi thế, Mẹ Maria "đầy ơn phúc" chẳng những là một trinh nữ hoàn toàn trong trắng về thể lư trước con mắt thế gian, Mẹ c̣n là một trinh nữ hoàn toàn tinh tuyền về tu đức trước Thánh Nhan Thiên Chúa nữa. Mẹ Maria đă chứng thực vai tṛ trinh nữ lưỡng diện này của Mẹ khi Mẹ tŕnh bày cùng sứ thần Ga-Biên đến truyền tin Lời nhập thể cho Mẹ rằng: "Tôi không hề biết đến nam nhân" (Lk.1:34).
Phải, Mẹ Maria "không hề biết đến nam nhân" tức là, về thể lư, Mẹ vốn giữ ḿnh đồng trinh, dù Mẹ đă đính hôn với thánh Giuse (x.Lk.1:27), và về tu đức, Mẹ chỉ biết đến Thiên Chúa qua việc Mẹ gắn bó tuân giữ tất cả những ǵ Ngài truyền dạy, điển h́nh nhất là qua "lời sứ thần truyền" (Lk.1:38). Việc Mẹ Maria liên lỉ trung thành tuân giữ tất cả những ǵ Thiên Chúa truyền dạy đây chẳng những nói lên ḷng yêu mến của Mẹ đối với "Thiên Chúa là Đấng toàn năng đă làm cho (Mẹ) những sự trọng đại" (Lk.1:49), mà c̣n nói lên đức tin của Mẹ luôn sẵn sàng đáp ứng một cách hết sức tương xứng tất cả những tác động Thần Linh, tức tất cả những ǵ Thiên Chúa muốn tỏ ra cho Mẹ và nơi Mẹ.
Chính v́ đức tin tuyệt đối vào "những ǵ Thiên Chúa phán sẽ được thực hiện" (Lk.1:45) này mà Mẹ Maria đă cưu mang Con Thiên Chúa, "Đấng tỏ Cha ra" (Jn.1:18) đồng thời cũng là chính mạc khải của Cha, trong linh hồn Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ, ngay từ khi Mẹ vừa đầu thai làm người, tức ngay cả trước khi Mẹ chính thức được thụ thai Người trong cung dạ trinh nguyên của Mẹ. Phải, nhờ đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ Maria đă được Thiên Chúa là chủ ruộng gieo vào linh hồn Mẹ Lời của Ngài như một Hạt Giống Thần Linh cần phải được nẩy mầm và mọc lên để sinh muôn vàn hoa trái gấp trăm. Và Hạt Giống Thần Linh là Lời "hằng ở nơi Cha" (Jn.1:18) "được gieo vào mảnh đất tốt" (Mt.13:8) là Maria "đầy ơn phúc" này đă thực sự phát triển và nẩy sinh được "quả phúc của ḷng (Mẹ)" (Lk.1:45) "là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đă đến trong thế gian" (Jn.11:27).
Tuy nhiên, không phải v́ đă thực sự "được thụ thai và sinh hạ... Con Đấng Tối Cao" (Lk.1:31-32), hay là khi "sự sống hằng ở nơi Cha đă trở nên hữu h́nh" (1Jn.1:2) như thế với Mẹ để làm con của ḿnh mà Mẹ Maria không c̣n cần đức tin nữa, tức không c̣n phải sống đức tin nữa. Trái lại, để được thụ thai và hạ sinh Con Đấng Tối Cao Mẹ Maria phải có một đức tin tinh tuyền thế nào th́ để sống với Người, Mẹ càng phải có một đức tin tuyệt đối như vậy. Bằng không, vào một lúc nào đó, Mẹ cũng có thể hồ nghi không biết con ḿnh sinh ra có phải là Con Thiên Chúa thực sự hay không? Chẳng hạn như trường hợp Mẹ thấy Con Thiên Chúa, cũng là Con của Mẹ, khi lên 12 tuổi đă tỏ ra thái độ khác thường, ở chỗ, cố ư ở lại đền thờ 3 ngày mà không xin phép trước hay ít là báo cho cha mẹ biết ngay bằng cách nào đó, để "cha mẹ buồn khổ t́m con" (Lk.2:48).
Đức tin của Mẹ Maria c̣n bị thử thách hơn nữa khi Con của Mẹ tỏ ra hoàn toàn bất lực hơn bao giờ hết và hơn ai hết trong việc không thể "xuống khỏi thập giá" (Mk.15:30), "cứu được những người khác mà không thể cứu được ḿnh" (Mk.15:31), như Người bị nhóm dân chúng và các thượng tế thách thức và chế nhạo. Thế nhưng, v́ t́nh trạng và mức độ "đầy ơn phúc" của Mẹ không bao giờ bị hao hụt một chút nào, tức là Mẹ đă trung thành với Thiên Chúa trong hết mọi sự và trong tất cả mọi lúc, do đó, không như "tất cả (các môn đệ) đă bỏ Người mà tẩu thốt" (Mk.14:50), Mẹ vẫn theo sát và gắn bó với Con Mẹ cho đến khi "đừng kề bên thập giá" (Jn.19:25) của Người, nơi mà Mẹ đă chính thức được Con Mẹ trao quyền làm mẹ thiêng liêng của Gioan (x.Jn.19:26), người môn đệ Người yêu, biểu hiệu cho Giáo Hội nhiệm thể của Người.
Nếu trước khi tắt thở, Chúa Giêsu trao môn đệ Người yêu là tông đồ Gioan, vị tông đồ là biểu hiệu và là đại diện cho Giáo Hội hiền thê của Người bấy giờ, th́ không phải hay sao, Người muốn cho riêng Gioan cũng như cho chung Giáo Hội của Người biết rằng Mẹ Maria đă sinh ra họ dưới cây thập giá của Người, bằng đức tin "đầy ơn phúc" của Mẹ.
Thật ra, Giáo Hội đă được cứu chuộc bởi Chúa Kitô chứ không phải bởi Mẹ Maria, nghĩa là Giáo Hội "được sự sống và được sự sống viên măn hơn" (Jn.10:10) chính thức và trực tiếp từ Vị Mục Tử Tối Cao nhân lành của ḿnh là Chúa Kitô, Đấng "tự hiến cho họ được thánh hố trong chân lư" (Jn.17:19), chứ không phải từ Mẹ Maria, một con người cũng được thừa hưởng ơn cứu chuộc của Chúa Kitô, dù được thừa hưởng trước Giáo Hội. Thế nhưng, Đấng Cứu Thế của Giáo Hội này lại là người con thực sự của Mẹ Maria, và giá máu để Người có thể tự hiến cho Giáo Hội là do từ đức tin tinh tuyền của Mẹ Maria đáp ứng lời Chúa mà có. Bởi thế, theo đường lối vô cùng khôn ngoan trọn lành của Thiên Chúa, công cuộc cứu chuộc của Chúa Kitô không phải chỉ có một ḿnh Người thực hiện, mà là có cả sự cộng tác của Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội nữa.
Nếu mầu nhiệm Nhập Thể và Vượt Qua của Chúa Kitô là mô thể chính yếu làm nên Ơn Cứu Độ, th́ đức tin tuyệt đối của Mẹ Maria trong ngày truyền tin cho đến khi đứng dưới chân thập giá Chúa Giêsu chính là chất thể thiết yếu để Người thực hiện Ơn Cứu Độ. Và nếu Chúa Kitô là "sự sống" (Jn.11:25,14:6' 1Jn.1:2) được Thiên Chúa ban cho nhân loại nói riêng và cho "tất cả mọi tạo vật" (Mk.16:15) nói chung, th́ linh hồn Vô Nhiễm Nguyên Tội và cung dạ Trinh Nguyên của Mẹ Maria chính là thửa ruộng được Thiên Chúa chôn giấu kho tàng (x.Mt.13:44) sự sống vô cùng qúi giá này của Ngài.
Thật vậy, Mẹ Maria đă thụ thai và hạ sinh Con Đấng Tối Cao về thể lư thế nào, Mẹ cũng thụ thai và hạ sinh Người cách thiêng liêng như vậy. Bởi v́, nếu ai làm theo ư Cha trên trời là mẹ cưu mang và hạ sinh Chúa Kitô cách thiêng liêng (x.Mt.12:50), th́ c̣n ai xứng đáng cưu mang và hạ sinh Chúa Kitô cách thiêng liêng bằng Mẹ Maria, Đấng đă hằng liên lỉ lắng nghe và giữ lời Thiên Chúa (x.Lk.11:28), Đấng có phúc v́ đă tin vào lời Thiên Chúa sẽ được thực hiện (x.Lk.1:45), cho đến khi đứng bên thập giá Chúa Giêsu, Con Mẹ.
Như thế, việc Mẹ Maria cưu mang và hạ sinh Chúa Kitô cách thiêng liêng cho riêng Giáo Hội cũng như cho chung nhân loại dưới chân thập giá Chúa Giêsu là do đức tin của Mẹ tuyệt đối gắn bó với Người cho đến cùng, hơn là do quyền linh thánh hố như ở nơi Giáo Hội, một quyền linh được Chúa Kitô ban cho các thánh Tông Đồ (x.Jn.20:22-23' Mt.28:18-20), cũng như cho các vị được các ngài đặt tay truyền chức thánh, để các đấng có thể nhân danh Chúa Kitô và đóng vai Chúa Kitô mà rao giảng tin mừng và ban các phép Bí Tích, nhất là phép rửa tái sinh cho những ai tiếp nhận tin mừng của Người do các đấng rao giảng để được cứu rỗi (x.Mk.16:15-16).
Mang thân phận người nữ, Mẹ Maria không có chức thánh để làm thừa tác viên ơn cứu chuộc như các Thánh Tông Đồ và các vị linh mục, nhờ đó, như các ngài, Mẹ có thể tái sinh Chúa Kitô nơi các linh hồn bằng việc rao giảng tin mừng, cũng như có thể hạ sinh các linh hồn trong Chúa Kitô bằng việc ban phép rửa cho họ. Tuy nhiên, ơn cứu chuộc mà các Thánh Tông Đồ cùng các vị tư tế thừa tác ban phát qua các bí tích có được là do Mẹ Maria đă đồng công cứu chuộc với Chúa Kitô bằng đức tin tuyệt đối xin vâng của Mẹ.
Bởi thế, con cái được Giáo Hội sinh ra trong Chúa Kitô bằng quyền linh thánh hố của Giáo Hội cũng là con cái của Mẹ Maria, Đấng đă cưu mang Chúa Kitô trong linh hồn Vô Nhiễm Nguyên Tội của ḿnh trước khi chính thức thụ thai và hạ sinh Người theo thể lư thế nào, cũng là Đấng, trước khi họ được chính thức tái sinh nhờ Bí Tích Rửa Tội, đă cưu mang họ trong Chúa Kitô như vậy, ngay từ lúc Mẹ được đầu thai làm người cho đến khi Mẹ đứng kề bên thập giá Chúa Kitô. Trong ư định của Đấng tiền định cho những ai được làm nghĩa tử của Ngài trong Đức Kitô (x.Eph.1:5) th́ Mẹ Maria đă là Mẹ của họ bằng đức tin cứu độ của Mẹ.
Mẹ Maria chẳng những là Mẹ của Kitô hữu mà c̣n là Mẹ của cả Giáo Hội Chúa Kitô nữa. Đức Thánh Cha Phaolô VI đă tuyên nhận Mẹ Maria là Mẹ Giáo Hội trong Công Đồng Chung Vaticanô II ngày 21-11-1964 như sau: "Maria Mẹ của Giáo Hội, nghĩa là Mẹ của toàn Dân Chúa, của cả giáo dân cũng như các Vị Mục Tử. Bởi thế Đức Trinh Nữ phải được tất cả dân Kitô giáo tôn kính và kêu cầu bằng tước hiệu này". Theo Công Đồng Chung Vaticanô II, trong Hiến Chế Tín Lư về Giáo Hội Lumen Gentium, một hiến chế được công bố ngày 21-11-1964, ở chương 8, đoạn 53, Mẹ Maria cũng chỉ là một trong những chi thể của Giáo Hội. Tuy nhiên, Công Đồng đă công nhận Mẹ là một "phần thể siêu đẳng" trong Giáo Hội, và "Giáo Hội Công Giáo được Chúa Thánh Linh dạy tôn kính Người bằng t́nh con thảo sùng mộ như là một người mẹ yêu dấu nhất của ḿnh".
Thật vậy, Mẹ Maria cũng chỉ là một phần thể trong Giáo Hội, v́ Mẹ cũng nhận lănh ơn cứu chuộc từ cùng một Đầu của Giáo Hội là Chúa Kitô. Thế nhưng, Mẹ lại là một "phần thể siêu đẳng" của Giáo Hội, v́ Mẹ đă được hưởng trước ơn cứu độ này một cách trọn đầy nhất và đă là một phần thể gương mẫu cho riêng Kitô hữu cũng như cho chung Giáo Hội về vai tṛ trinh nữ và làm mẹ. Nếu Mẹ Maria có thể vừa là con của Thiên Chúa và là Mẹ Thiên Chúa thế nào, th́ Người cũng có thể vừa là phần thể của Giáo Hội vừa là Mẹ của Giáo Hội như vậy.
Tuy nhiên, Mẹ là Mẹ của Giáo Hội không phải v́ Mẹ chỉ là gương mẫu cho Giáo Hội về đức tin, mà chính nhờ đức tin "đầy ơn phúc" của ḿnh, một đức tin đă hoàn toàn phản ảnh tất cả những ǵ Thiên Chúa muốn mạc khải cho chung nhân loại cũng như riêng Giáo Hội, một mạc khải đă "viên trọn" (Jn.19:30) trong cuộc tử nạn của Chúa Kitô trên thập giá, nơi Mẹ đứng kề bên, Mẹ c̣n thực sự thụ thai, cưu mang và hạ sinh Giáo Hội một cách thiêng liêng nữa, như Mẹ đă thực sự thụ thai và hạ sinh Con Đấng Tối Cao là Chúa Giêsu Kitô về thể lư vậy. Trong loạt bài Giáo Lư về Mẹ Maria, bài 63, vào các ngày thứ tư hằng tuần, ngày 17-9-1997, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đă diễn giải mối liên hệ Mẹ Maria là Mẹ Giáo Hội theo Tân Ước như sau:
"Từ Ngày Truyền Tin, Mẹ Maria đă được kêu gọi để đồng ư với việc thiết lập vương quốc thiên sai là vương quốc sẽ hiện thực bằng cuộc h́nh thành của Giáo Hội. Ở Cana, khi Mẹ Maria xin Con thực thi quyền năng thiên sai của Ngài, Mẹ đă thực hiện một đóng góp cần thiết trong việc gieo mầm đức tin vào cộng đồng tiên khởi các môn đệ, và Mẹ đă cộng tác trong việc xướng suất nên vương quốc của Thiên Chúa, một vương quốc có 'mầm mống' và 'khởi sự' nơi Giáo Hội (x.Lumen Gentium, 5). Trên Canvê, Mẹ Maria đă hiệp nhất chính ḿnh với hy sinh của Con Mẹ và đă thực hiện một đóng góp từ mẫu của ḿnh vào công cuộc cứu độ, một công cuộc mặc h́nh thức tập hợp tất cả những ai tản mác các nơi lại thành con cái của Thiên Chúa (x.Jn.11:52), chứng tỏ việc sinh ra của Giáo Hội như hoa trái của hy sinh cứu độ mà Mẹ Maria đă hợp tác với tính cách là một người mẹ. Thánh Kư Luca đề cập đến việc hiện diện của Mẹ Chúa Giêsu trong cộng đoàn đầu tiên ở Gia-Liêm (x.Acts 1:14). Như thế, mặc dầu không có rơ ràng về mặt chữ nghĩa, thánh kư cũng muốn nhấn mạnh đến tính cách làm mẹ của Mẹ Maria trong công cuộc của Chúa Kitô và v́ thế trong cả công cuộc của Giáo Hội nữa. Theo thánh Irênêô, Mẹ Maria 'đă trở nên nguồn mạch cứu độ cho toàn thể gịng giống loài người'... Điều này được vang vọng nơi lời thánh Ambrôsiô: 'Một Trinh Nữ đă sinh hạ ơn cứu độ cho thế giới, một Trinh Nữ đă ban sự sống cho tất cả mọi sự', và các vị Giáo Phụ khác gọi Mẹ Maria là 'Mẹ ơn cứu rỗi'". (L'Ósevatore Romano, bản Anh Ngữ, số 39, 24-9-1997).