Chương Hai 

HIỆN THỂ CON NGƯỜI

 

Phải, 

Linh hồn và thân xác là hai yếu tố làm nên hữu thể của con người, làm cho con người có, hay, làm cho có con người.

 

Thế nhưng, 

Linh hồn và thân xác đó là của ai?

 

Bởi v́, 

Tuy bản chất của chúng giống nhau, song h́nh thức và cách thức của chúng, không nhiều th́ ít, khác nhau, nên chúng phải thuộc về một cá nhân nào đó, anh, tôi hay họ.

 

Vâng, 

Anh, Tôi hay Họ đều là những chủ thể có quyền trên hữu thể của ḿnh, và có trách nhiệm về mọi hành động gây ra bởi hữu thể của ḿnh.

 

V́ là Chủ Thể có chủ quyền và chủ động như thế trên hữu thể của ḿnh, nên, Anh, Tôi hay Họ, một khi thực thi chủ quyền của ḿnh, nhất là một khi thực hiện chủ trương của ḿnh, đặc biệt là khi chúng ta thực hiện chủ trương của ḿnh một cách chính đáng, đều tỏ ra rằng chúng ta biết ḿnh là ai và đối xử với ḿnh như thế nào.

 

Tác động Biết Ḿnh một cách nội tại nơi con người như thế, chứng tỏ rơ ràng là con người có một hiện thể.

 

Một Hiện Thể gồm 3 ngôi vị:

 

Chủ Thể,

 

Bản Thân và Tâm Linh,

 

Những thành phần làm cho con người là, hoặc, những thành phần là con người.

 

Hiện thể của con người, tức cái là của con người, hoặc cái con người là, có thể là một trong bốn thể thức: đại quan, tương quan, chủ quan và khách quan.

 

Hiện thể đại quan, tức cái là đại quan, của con người là ǵ?

 

Nếu không phải là cái con người có để làm người như mọi người, chứ không phải làm động vật hay thực vật hoặc khoáng vật. Mà, cái con người có để làm người đây chính là bản tính làm nên hữu thể đặc thù của con người. Vậy, tất cả những tạo vật nào có đầy đủ bản tính, gồm cả linh hồn lẫn thể xác, đều là con người.

 

Như thế,

 

Hiện thể đại quan của con người chính là nhân tính của con người.

 

Hiện thể tương quan, tức cái là tương quan, của con người là ǵ?

 

Nếu không phải là cái con người là như người khác nghĩ về họ. Sở dĩ cái con người là như người khác nghĩ về họ được gọi là hiện thể tương quan, chứ không phải là hiện thể khách quan, là v́, ư nghĩ của người ta có về nhau đó, không nhiều th́ ít, không đồng nhất nơi tất cả mọi người, trái lại, nó lệ thuộc vào sự tương quan gần hay xa, nhiều hay ít, dài hay ngắn, sâu hay nông, của họ đối với nhau.

 

Như thế,

 

Hiện thể tương quan của con người chính là h́nh dung của con người.

 

Hiện thể chủ quan, tức cái là chủ quan, của con người là ǵ?

 

Nếu không phải là cái con người là như chính họ nghĩ về ḿnh. Nguyên tác động nghĩ của con người, đă là một tác động hiện hữu của con người. Để rồi, ư nghĩ của con người có được nhờ tác động nghĩ đó, nhất là ư nghĩ về chính ḿnh, không phải là cái mà con người thấy rằng ḿnh đang hiện hữu hay sao? Con người sống động nhất là ở chỗ này, hiện thực nhất là ở chỗ này, và nhân bản nhất cũng là ở chỗ này. Ư nghĩ về ḿnh này của con người thường nằm sâu trong tiềm thức của họ, và chỉ ra mặt vào những khi cái tôi của họ được ve vuốt, nhất là khi nó bị va chạm, lúc ấy, nó sẽ hiện h́nh qua những phản ứng của tự ái.

 

Như thế,

 

Hiện thể chủ quan của con người chính là bản ngă của con người.

 

Hiện thể khách quan, tức cái là khách quan, của con người là ǵ?

 

Nếu không phải là cái con người là như chính con người phải là. Là cái con người là như chính con người phải là như vậy, con người có thể là hay không là những ǵ do chính con người nghĩ về họ hay do người khác nghĩ về họ, hoặc có thể là hay không là những ǵ mà cả họ lẫn người khác nghĩ về họ. Mà cái chính yếu làm nên cá thể của một con người nào đó sẽ là bản chất sống động tự nhiên của họ, cái làm nên ấn tượng nơi tâm trí của hầu hết mọi người, đến nỗi, hễ nói đến cái bản chất làm nên cá thể của con người đó, th́ ai quen biết con người đó cũng đều nhận ra họ.

 

Như thế,

 

Hiện thể khách quan của con người chính là chân tướng của con người.

 

Tuy nhiên,

 

Trong bốn loại hiện thể nơi con người được phân tích trên, hiện thể sống động hóa con người nhất phải là Hiện Thể Chủ Quan.

 

Thật thế,

 

Nhờ Hiện Thể Chủ Quan này, con người mới thực sự hiện hữu và do đó mới cảm thấy ḿnh hoàn toàn là ḿnh, mới hoàn toàn sống động. Bởi v́, Hiện Thể Chủ Quan là một thể thức hiện hữu và sống động đặc thù của con người, mà con vật không thể nào có và không bao giờ có, với ba ngôi vị là Chủ Thể, Bản Thân và Tâm Linh.

 

Ba thành phần này nơi hiện thể của con người không phải là những yếu tố tạo nên con người như hai yếu tố đă h́nh thành hữu thể của con người là thân xác và linh hồn, nhưng, một khi đă có con người, để thực sự là người và làm người có đủ hai yếu tố hồn thiêng và xác chất đó, con người không thể nào được thiếu một trong "tam vị nhất thể" này.

 

Mỗi vị trong nhất thể này, tự bản chất của ḿnh, khi tỏ ḿnh ra, đều biểu hiện chính toàn thể con người. Bởi thế, thay v́

nói chủ thể của con người, bản thân của con người, tâm linh của con người, nên nói con người chủ thể, con người bản thân, con người tâm linh th́ có phần chính xác hơn. Là v́, chính mỗi vị nơi con người đều đă biểu hiệu cho cả con người, không phải mỗi vị là cái ǵ thuộc về con người, như trường hợp hồn và xác của con người. Có một vị phải có cả ba vị, hay có một

vị là có cả ba vị, v́ mỗi vị đă là và đều là tất cả con người rồi vậy.

 

"CHỦ THỂ" :

 

Không phải là chính con người hay sao, khi nó là "vị" làm chủ hữu thể cũng như tất cả những ǵ thuộc về con người, và cũng là vị hoàn toàn chịu trách nhiệm về tất cả những ǵ hữu thể của con người làm, vinh danh hay ô nhục, diễm phúc hay bất hạnh cho nó.

 

Không ai lại khen cái tay khéo léo hay chê cái tay vụng về, mà chỉ khen hay chê con người, tức chủ thể, có cái tay đó thôi. Mặt khác, khi tỏ ra khéo léo hay vụng về, không phải tự cái tay có thể làm được điều đó, nếu nó không được điều khiển từ hay chiụ ảnh hưởng bởi chủ thể của ḿnh là chính con người mà nó thuộc về.

 

Vậy,

 

"Chủ Thể" cũng đồng nghiă với Con Người, hay cũng chính là Con Người, là "Tôi", là Anh", là "Họ".

 

"BẢN THÂN":

 

Cũng không phải là chính con người hay sao, khi nó là vị phản ảnh tất cả những ǵ Chủ Thể là, như chính Chủ Thể ư thức về ḿnh, nhận biết chính ḿnh, đến nỗi, nó đă trở nên đối tượng nội tại duy nhất không thể thiếu để là con người chủ thể, nhờ đó, nó cũng đă trở nên nguyên lư, nên tiêu chuẩn, và nên động lực của và cho mọi việc làm hướng ngoại của con người chủ thể.

 

Bởi đó,

 

Nếu không có Bản Thân kể như cũng không có Chủ Thể, và, nếu không có Chủ Thể th́ cũng chẳng có Tôi, Anh hay Họ.

 

"Tôi" càng biết Tôi th́ Tôi càng là "Tôi".,

 

Tôi càng là Tôi th́ Tôi càng sống như chính "Ḿnh".,

 

Tôi càng sống như chính "Ḿnh" th́ Tôi mới càng là Tôi, Tôi mới càng hiện hữu, Tôi mới càng có thực.

 

Như thế,

 

Cuộc đời của tôi, của anh, của họ, là con người, chẳng qua chỉ là một cuộc t́m Ḿnh, thế thôi.  

 

Vậy,

 

Bản Thân cũng đồng nghiă với chính Ḿnh, hay chính là cái Ḿnh của con người chủ thể.

 

"TÂM LINH" :

 

Cũng không phải là chính con người hay sao, khi nó là "vị" làm nên chính bản chất của con người, mà, nếu không có nó, con người cũng không hơn ǵ con vật, nghiă là, con người cũng chẳng có hay chẳng c̣n con người chủ thể và con người bản thân nữa.

 

Bởi v́,

 

Trước hết, yếu tố cấu tạo nên con người Tâm Linh có tính cách linh thiêng như tâm trí của con người.

 

Sau nữa, khuynh hướng bẩm sinh của con người Tâm Linh có tính cách linh động như hồn sống của con người.

 

Chính v́ con người Tâm Linh được cấu tạo bởi tâm trí của con người như thế, mà con người Chủ Thể mới có thể t́m ḿnh

để càng ngày càng là Ḿnh, càng hiện hữu như là một con người Tâm Linh, qua việc:

 

Biết Ḿnh (nhờ "trí" khôn, tài năng đệ nhất của linh hồn, nơi hữu thể của con người), và  Yêu ḿnh (nhờ ḷng muốn, cũng gọi là tâm, tài năng đệ nhị của linh hồn, nơi hữu thể của con người).

 

Và,

 

Cũng chính v́ khuynh hướng bẩm sinh của con người Tâm Linh có tính cách linh động như hồn sống của con người như thế, mà con người không thể nào sống lại không biết ḿnh và yêu ḿnh.

 

Nói cách khác, bao giờ con người không biết ḿnh th́ con người cũng không yêu ḿnh; bởi v́, một khi con người không t́m ḿnh nữa, qua việc biết ḿnh và yêu ḿnh, th́ con người cũng kể như không hiện hữu, hay có hiện hữu cũng chỉ là một hiện hữu theo h́nh thức, một hiện hữu bất toàn, một hiện hữu bất hạnh, một hiện hữu vô hồn.

 

Do đó,

 

Nếu con người không biết ḿnh và yêu ḿnh, tức không t́m ḿnh, th́:

 

Một là, con người đă đạt được một tinh thần hoàn toàn siêu thoát khỏi chính con người tự nhiên tầm thường của ḿnh.

 

Hai là, con người đă mất tinh thần, (hơn là mất bản tính), để làm một con người tự nhiên, tức một con người Tâm Linh.

 

Trường hợp thứ hai này có thể là trường hợp của một con người chậm trí khôn nặng, khờ dại, ngớ ngẩn, không biết ǵ cả.

 

Vậy,

 

"Tâm Linh" cũng đồng nghiă, dù nghĩa tiêu cực hay nghĩa tích cực, với "Tinh Thần", hay chính là "Tinh Thần" của con người.

 

CHỦ THỂ là Con Người, với tư cách là Chính Con Người.

 

BẢN THÂN là Con Người, với tư cách là Ḿnh Con Người.

 

TÂM LINH là Con Người, với tư cách là Tinh Thần Con Người.Tuy cả ba Vị đều là Con Người nơi hữu thể của con người, song không phải là 3 Con Người khác nhau, mà chỉ là 1 Con Người duy nhất nơi cùng một hữu thể của con người.

 

3 Vị là 1 Con Người duy nhất không phải là v́ chúng là 3 yếu tố làm nên hữu thể của con người, như linh hồn và thân xác.

Linh hồn và thân xác là hai yếu tố làm nên hữu thể của con người có tính cách hiệp nhất hơn là duy nhất như 3 "Vị" nơi

Hiện Thể của con người.

 

Hiện Thể con người Duy Nhất ở chỗ, "Vị" nào nơi Hiện Thể cũng có tư cách là Con Người, với đầy đủ bản tính, vị thế

và năng quyền nội tại như nhau và bằng nhau nơi mỗi "Vị", mặc dù, khi đối ngoại, có hiện diện và tác động khác nhau và chênh nhau.

 

Sở dĩ 3 Vị làm nên Hiện Thể của con người này "duy nhất" như thế là v́ tính cách trong nhau của chúng, tính cách mà hai yếu tố hiệp nhất làm nên hữu thể của con người không thể nào có được như vậy, cùng lắm, chỉ có trường hợp hồn trong xác, chứ không bao giờ có trường hợp ngược lại, xác trong hồn.

 

Thật vậy, nơi mỗi Vị làm nên hiện thể của con người này, v́ có tính cách trong nhau, nên chúng hoàn toàn biểu lộ nhau và thực sự là hiện thân của nhau, dù theo bẩm sinh hay theo hiện sinh.

 

Hai yếu tố linh hồn và thân xác Hiệp Nhất cùng nhau, (như một cấp số cộng), để h́nh thành hữu thể của con người, chẳng những theo bẩm sinh do Đấng hóa công tác tạo phải nên như thế mới là con người, mà c̣n, theo hiện sinh, ở tại khuynh hướng tự nhiên của chúng luôn luôn hướng về nhau và gắn bó với nhau như vợ chồng để sinh con đẻ cái thế nào, nơi hiện thể của con người cũng tương tự như thế.

 

Trước hết,

 

Theo bẩm sinh, 3 Vị làm nên hiện thể của con người có tính cách Duy Nhất trong nhau, (như một cấp số nhân), là v́, nơi Chủ Thể đă có sẵn Bản Thân là H́nh Ảnh Tâm Linh mà Con Người Chủ Thể có được để hiện hữu, và nơi Bản Thân, ngược lại, là Phản Ảnh Tâm Linh tất cả Con Người Chủ Thể đang hiện hữu đó, để rồi, với bản chất là sự Hiệp Thông giữa Chủ Thể và Bản Thân như vậy, nơi Tâm Linh, cả Con Người Chủ Thể lẫn Con Người Bản Thân hiện hữu và sống động.

 

Sau nữa,

 

Theo hiện sinh, 3 Vị làm nên hiện thể của con người cũng có tính cách Duy Nhất trong nhau là như thế này.

 

V́ Bản Thân là H́nh Ảnh bẩm sinh của ḿnh, Con Người Chủ Thể không thể nào phủ nhận nó mà có thể hiện hữu.

 

Phần Bản Thân, là Phản Ảnh đích thực Con Người Chủ Thể, cũng không thể nào tồn tại nếu không hướng về Con Người Chủ Thể như người cha tự sinh ra ḿnh (mà không cần đến một trợ lực nào đóng vai như một nội trợ trong sinh hoạt hiện hữu hướng nội, chứ không phải sinh hoạt hiện hữu hướng ngoại, của riêng Chủ Thể cũng như của chung Con Người Tâm Linh).  

 

Thế rồi, từ tác động nội tại chấp nhận và hướng về nhau giữa Chủ Thể và Bản Thân đó, Con Người Tâm Linh tự nhiên xuất hiện, tự nhiên phải có, như một thực tại hiện hữu của con người, bằng không, không c̣n là con người nữa, mà chỉ có con người, một con người sống động không hơn ǵ con vật bao nhiêu, nghĩa là, một con người là một con vật có lư trí song không biết sử dụng lư trí của ḿnh.

 

Về phương diện hướng ngoại, 3 Vị nơi hiện thể của con người c̣n tỏ ra tính cách trong nhau ở chỗ v́ nhau và cho nhau.

 

Theo tự nhiên, Con Người Chủ Thể luôn luôn tác động v́ Bản Thân ham thích và cho Bản Thân có lợi; trái lại, Con Người Bản Thân cũng chỉ hành động v́ ư muốn của Chủ Thể và cho vinh danh của Chủ Thể.

 

Tinh Thần v́ nhau và cho nhau của Con Người Tâm Linh này, trên thực tế, chính là Tự Ái.  

 

Tự Ái có hai chiều thuận và nghịch.

 

Tự Ái theo chiều thuận ở chỗ, Con Người (Chủ Thể) hướng về Cái Tôi (Bản Thân) của ḿnh, bằng cách chỉ t́m thoả măn Cái Tôi của ḿnh trong mọi sự, trước mọi sự và trên mọi sự mà thôi.

 

Tự Ái theo chiều nghịch ở chỗ, Cái Tôi phản ứng một cách tức thời và mănh liệt, mỗi khi Con Người của nó không đạt được ư định của ḿnh. Nhất là lúc Con Người của nó bị xúc phạm cách nào, nó sẽ tỏ ra những thái độ như bất măn, tức tối, trả thù, hoặc buồn phiền, nản chí.

 

Nếu dựa vào các đặc tính của Tự Ái như thế, Tự Ái theo chiều thuận c̣n có thể gọi là Tự Ái ngầm, và Tự Ái theo chiều

nghịch phải gọi là Tự Ái nổi, v́ tính cách phản động dễ nhận ra của nó.

 

Thật vậy,

 

Đă là một con người, không thể nào không có Tự Ái.

 

Bởi v́, Tự Ái là khuynh hướng tự nhiên của con người tâm linh, là tinh thần sống động của hiện thể con người. Nó như hơi thở, như mạnh tim của con người. Đến nỗi, nếu nó không c̣n sống động nơi con người, như nhịp tim ngừng đập, như hơi thở lịm tắt, toàn hữu thể con người, về mặt tâm linh, kể như đă chết.

 

Không phải hay sao, một con người không có đầu, chỉ là một xác chết. Hiện thể thật sự là đầu của hữu thể. Tuy nhiên, nó cũng thuộc về hữu thể là cái "ḿnh" theo tâm linh của con người cũng là của chính nó.

 

Hiện thể giữ vai tṛ làm đầu trong hữu thể của con người ở tại hai điểm.

 

Thứ nhất, cơ sở của nó là yếu tố thuộc phần thượng trong con người, đó là linh hồn, một trong hai thành phần tạo nên hữu thể.

 

Thứ hai, sinh hoạt đối nội cũng như đối ngoại của nó đều phải sử dụng đến hai tài năng của linh hồn, đó là trí khôn và ḷng muốn; bằng không, nó sẽ không thể nào t́m ḿnh theo xu hướng tự ái bẩm sinh của ḿnh, qua những tác động nội tại là biết ḿnh (nhờ trí khôn) và yêu ḿnh, (bằng ḷng muốn), cũng như qua những tác động ngoại tại là v́ ḿnh và cho ḿnh.

 

Mặc dù chỉ là một trẻ sơ sinh, chưa biết sử dụng trí khôn và ḷng muốn ǵ cả, song, không phải v́ thế mà con người với một thân xác c̣n bé tí và quá non nớt đó không có linh hồn hay chưa có linh hồn. Tất cả mọi tác động và việc làm của con người bé mọn đó, dù chỉ là và mới là những phản ứng theo bản năng tự nhiên không hơn ǵ con vật, nhưng, tự chúng vẫn là những hành động nhân bản, những hành động ăn, uống, vệ sinh, v.v. của một con người thuần túy, chứ không phải của một

con vật.

 

Và,

 

Bởi ngay từ mới sinh, con người đă có linh hồn rồi. Nên, cũng từ lúc ấy, con người cũng đă có tự ái. Do đó, tự ái mới được coi như là một xu hướng bẩm sinh của con người. Tuy nhiên, chính v́ con người chưa biết sử dụng trí khôn và ḷng muốn, bởi vậy, những h́nh thức của tự ái sống c̣n của họ vào thời ấu thơ  đă mang tính cách bản năng hơn là tâm linh, đơn giản hơn là tinh vi, lộ liễu hơn là thủ đoạn v.v.

 

Thế nhưng, bất kể tự ái của trẻ con hay người lớn, của người trẻ hay người già, và tùy theo tŕnh độ tâm trí và kinh nghiệm làm người của họ có làm cho tính cách của tự ái nơi họ khác nhau đi nữa, động lực của tự ái vẫn là t́m ḿnh, tinh thần của nó vẫn là trong ḿnh, nguyên nhân của nó vẫn là v́ ḿnh, và đối tượng hay mục đích của nó vẫn là cho ḿnh mà thôi.

 

Thật vậy,

 

Dù con người c̣n nhỏ, chưa biết ǵ cả, nhất là chưa biết ḿnh ǵ hết, song họ đă biết t́m ḿnh một cách vô thức.

 

Bởi v́, theo tự nhiên, con người chỉ làm mọi việc v́ ḿnh, cho ḿnh và trong ḿnh trong tất cả mọi sự, kể cả việc yêu nhau là việc đ̣i hỏi con người phải hướng đến người khác, phải ra khỏi ḿnh, phải bỏ ḿnh đi; và, nhất là, kể cả việc thờ phượng là việc đ̣i hỏi con người phải hoàn toàn hiến thân và sống cho Đấng Tối Cao mà chỉ một ḿnh Ngài mới đáng tôn sùng trên hết mọi sự mà thôi.

 

Theo thực tế, tự ái đúng là xu hướng bẩm sinh t́m ḿnh của con người.

 

Con người không T́m ḿnh là ǵ khi chỉ v́ ḿnh thích mà làm hoặc mới làm việc này hay việc kia, bằng không, không làm, trừ phi họ sợ rằng nếu không làm việc đó th́ ḿnh sẽ bị bất lợi hay thiệt hại cách nào chăng... Nghiă là, đằng nào họ cũng chỉ làm v́ ḿnh mà thôi.

 

Tại sao một đứa trẻ lại thích ăn kẹo hơn uống thuốc, nếu không phải chính v́ chúng thích kẹo hơn là thích thuốc. Đúng ra, không phải v́ trẻ con thích kẹo cho bằng thích chất ngọt của kẹo, nghĩa là, nơi chúng có tính hảo đường, hay thịnh đường.

Do đó, dù thuốc là vật mà chúng vẫn ghê gớm, nếu một khi chúng đă cảm thấy nó ngon ngọt bởi được đặc chế cho chúng dễ uống, chẳng những chúng không để ḿnh bị ép uống nữa, trái lại, c̣n đ̣i hay tự t́m lấy mà uống cho thật nhiều lượng và thật nhiều lần bao nhiêu có thể.

 

Phần người lớn, cũng không mấy ai lại thích thuốc hơn những đồ ăn hợp khẩu vị của ḿnh, mà chỉ v́ bị bệnh tật đă phải bị kiêng cữ thật là khổ sở. Và, sở dĩ họ phải kiêng cữ những thứ ḿnh thích đó, rồi lại phải uống thuốc đắng đót nhiều khi đến

rụng rời cả châu thân như thế, không phải là v́ họ sợ thuốc cho bằng họ sợ bệnh, đúng hơn, sợ ḿnh bị đau đớn v́ bệnh, thậm chí, sợ ḿnh có thể bị chết v́ bệnh.

 

Ngoài ra,

 

Con người c̣n t́m ḿnh ở chỗ sống trong ḿnh, tức là, làm mọi sự trong ḿnh. Con người đă không t́m ḿnh, không làm

mọi sự trong ḿnh, khi làm mọi sự theo ư của ḿnh là ǵ.

 

Không phải hay sao, trẻ con không thể nào thích kẹo, nếu nó không ngọt. Nghiă là, v́ chất ngọt nơi kẹo, hay nơi bất cứ một vật ǵ có thể ăn được như kẹo, chẳng hạn như thuốc ngọt, đă làm cho trẻ con thích.

 

Như thế, trong mọi việc con người làm, con người đâu có phải hoàn toàn chỉ v́ ḿnh thích mà thôi, lại c̣n phải v́ đối tượng thích hợp với ḿnh nữa. Phải, tuy con người cũng bị chi phối bởi ngoại vật trong việc t́m ḿnh và sống v́ ḿnh thật,

song, không phải v́ thế mà con người bị phân tán, và không c̣n là ḿnh, hay chưa thật sự là ḿnh nữa.

 

Đúng vậy, cũng là những thứ có chất ngọt, tại sao, bao giờ cũng vậy, nếu được chọn, hầu hết chúng thích kẹo nhất. Và, tại sao, cũng là kẹo, có loại chúng thích hơn, có loại chúng không thèm ăn.

 

Như thế đă không chứng tỏ con người vẫn làm chủ ḿnh đấy ư, vẫn làm mọi việc v́ ḿnh đấy ư, vẫn t́m thỏa măn đúng

với ư thích của ḿnh đấy ư, nghĩa là, vẫn sống trong ḿnh đấy ư?

 

Để rồi, một khi đă lấy ḿnh làm căn nguyên (v́ ḿnh) và làm tiêu chuẩn (trong ḿnh) khi làm mọi sự như thế, con người cũng không c̣n một đối tượng nào khác xứng hợp hơn, ngoài chính ḿnh, để nhắm đến, để hướng về. Chính tâm trạng sợ bị thiệt hại, bị bất lợi mà làm việc này việc kia, mục đích chẳng qua cũng chỉ để làm thế nào cho ḿnh có lợi, không nhiều th́ ít, không tích cực th́ tiêu cực, thế thôi.

 

Nhất là, khi cố gắng đạt được tư lợi của ḿnh, mà, tư lợi đệ nhất và trên hết của con người vẫn là thỏa măn được ư nghĩ, ư muốn, ư định của ḿnh, bất chấp mọi thiệt tḥi nơi những bất lợi ngoại tại hay vật chất, không phải là con người đang sống cho ḿnh hay sao? Trong việc chọn lựa cục kẹo này hơn cục kẹo kia, loại kẹo này hơn loại kẹo kia để ăn hay để dành của trẻ con, cũng không đủ chứng tỏ rằng con người luôn luôn sống cho ḿnh hay sao?

 

Như vậy,

 

Chính nơi tác động "chọn lựa" của con người đă đủ chứng tỏ xu hướng tự nhiên t́m ḿnh của họ, qua việc họ chỉ sống động v́ ḿnh, trong ḿnh và cho ḿnh.

 

Chính v́ ḿnh mà con người chỉ chọn lựa theo (tức trong ḿnh) như ư thích của ḿnh, và cho ḿnh thoả măn ư thích. 

 

Kể cả những lúc con người không c̣n ǵ để chọn lựa hơn là chấp nhận, như trường hợp bị đe đọa nguy hại đến sinh mạng, bấy giờ, chẳng những họ không đánh mất ḿnh, không bị quyền lực ngoại tại làm chủ họ, trái lại, nhờ đó, họ c̣n tỏ ra chính ḿnh họ hơn bao giờ, c̣n tỏ ra quyền làm chủ trên con người của ḿnh hơn bao giờ, dù bề ngoài họ có tỏ ra mất b́nh tĩnh đến thế nào đi nữa.

 

Bởi v́, chính lúc bấy giờ, không phải là họ sợ quyền lực đang áp đảo họ, cho bằng họ sợ rằng họ sẽ bị chết bởi quyền lực ấy. Và, một khi đă chỉ v́ ḿnh mà sợ như thế, họ sẽ t́m cách chọn lựa những ǵ có lợi hay ít hại cho ḿnh nhất, đó là không bị chết và vẫn được sống, đúng như ư muốn trong ḿnh của họ.

 

Phải,

 

Chỉ khi nào đối đầu với sự chết và phải chọn lựa giữa sự sống và sự chết, con người tâm linh mới hiện rơ tất cả chân tướng

của ḿnh...

 

Trước hết,

 

Sự sống thể lư nơi hữu thể của con người, tuy không phải là chính sự thiện, song cũng là một phẩm chất cao qúi đệ nhất của sự thiện mà hữu thể con người có được, làm nguyên lư hiệp nhất cho linh hồn và thân xác là hai yếu tố tạo nên hữu thể của con người, nếu mất đi, hai yếu tố h́nh thành hữu thể của con người đó sẽ bị tan ră ngay lập tức.

 

Sau nữa,

 

T́nh yêu tâm linh nơi hiện thể của con người, tuy không phải là chính sự thiện, song cũng là bản tính của sự thiện mà hiện thể của con người được thông công và tham hưởng, làm tinh thần sống động, nộị tại cũng như ngoại tại, cho sự duy nhất của ba ngôi vị nơi hiện thể của con người là chủ thể, bản thân và tâm linh; thiếu nó, t́nh yêu, con người sẽ không hơn ǵ con vật, hiện hữu mà không biết ḿnh hiện hữu, có sự sống thể lư mà chỉ hành động mù quáng theo bản năng vô tri.

 

Sau hết,

 

Đối với sự sống thể lư là nguyên lư có của cả linh hồn lẫn thân xác, hai yếu tố làm nên hữu thể của con người, t́nh yêu là tinh thần sống động của hiện thể con người, sẽ chẳng khác ǵ như linh hồn của sự sống thể lư, và ngược lại, "sự sống" thể lư như thân xác của t́nh yêu, cả hai không thể thiếu nhau để con người có thể "là người" và "làm người".

 

Do đó,

 

Không lạ ǵ con người chỉ yêu sự sống của ḿnh nhất, yêu trên hết mọi sự, yêu trước hết mọi sự và yêu trong hết mọi sự. Cũng chính v́ vậy mà, một khi con người dám hy sinh sự sống của ḿnh đi cho nhau, th́ t́nh yêu của họ đối với nhau phải

là một t́nh yêu cao cả nhất, vĩ đại nhất, bao la nhất.

 

Vâng,

 

Chỉ khi nào con người ra khỏi chính ḿnh, khỏi sự hạn hẹp của ḿnh, khỏi sự nhỏ mọn của ḿnh, con người mới được thanh thản, được siêu thoát, được trường sinh, theo bản chất thiêng liêng bất tử của linh hồn nơi hữu thể của họ, và theo bản tính thiện hảo bất tận của t́nh yêu nơi hiện thể của họ.  

 

Hạnh phúc là viên măn yêu thương:

 

Là ở chỗ này.

 

Và là như vậy.