Chương
Bốn
Bất cứ một người
nào, dù gian dối, xảo quyệt, ma đầu đến
đâu đi nữa, thậm chí lừa đảo được
cả loài người, tự họ, họ cũng không
muốn bị mắc lừa ai, bị ai lường
gạt cả.
Đó không phải là chứng
cớ rơ ràng con người, dù trong hành động có sai
lạc và mâu thuẫn, trong thâm tâm cũng luôn hướng
về và t́m kiếm sự thật hay sao? Và, cũng chỉ
khi nào nắm được sự thật trong tay, họ
mới yên trí và an tâm để mà vui sống. Trái lại,
ngày nào họ chưa nắm được nó hay c̣n
sống trong gian dối, họ vẫn c̣n áy náy, chưa yên,
c̣n bất an, khổ năo.
MỌI SỰ ĐỀU BẮT
ĐẦU BỞI SỰ CÓ.
(Trừ Thiên Chúa là chính Sự
Có).
Không Có, kể như chẳng
là ǵ.
Có, chính là sự thật nơi
mọi sự.
Sự Có chính là Sự
Thật nơi mọi sự này, tuy cấp độ và
phẩm chất của nó khác nhau tùy ở mỗi sự, nhưng
cũng chỉ là một Sự
Thật.
Sự có trước,
chẳng hạn cha mẹ, cũng là sự có, sự có sau,
chẳng hạn con cái, cũng là sự có.
Sự có bản tính tốt
lành hơn, chẳng hạn con người, cũng là
sự có.
Sự có bản tính kém cỏi
hơn, chẳng hạn con vật so với con người,
cũng là sự có.
Bởi v́,
Chúng cũng chỉ ở trong
Sự Thật, cũng chỉ thuộc về một
Sự Thật, đó là chính Sự Có.
Không thể nào có hai Sự
Thật được.
Bằng không, một trong hai
sẽ không phải là Sự Thật.
Đă không phải là Sự
Thật th́ một là sự giả, hai là sự chưa
thật.
Nếu Sự Thật chính là
Sự Có, th́ sự chưa thật, tức là sự chưa
có, hay là hư vô, và sự giả, tức là sự đă có
song chưa có hoàn toàn.
Sự có song chưa có hoàn toàn
có thể là v́ nó đang ở trong tiềm thể, chưa đến
lúc phát hiện v́ chưa gặp môi trường thuận
tiện, chẳng hạn trường hợp h́nh thù của
cây c̣n nằm trong hạt giống.
Sự có song chưa có hoàn toàn
cũng có thể là v́ nó đang ở trong tiến tŕnh để
h́nh thành, chẳng hạn trường hợp bào thai của
một con vật hay con người.
Sự có song chưa có hoàn toàn
c̣n có thể là v́ nó đă có nhưng không biết rơ, biết
thật ḿnh có, chẳng hạn trường hợp của
con vật không có trí khôn, hay của
con người có trí khôn lại bị chậm trí hoặc
mất trí.Đối với Thiên Chúa, nếu sự
thật chính là sự có, th́ Ngài chính là Sự Thật.
Bởi v́, Thiên Chúa chính là
Sự Có.
Nghĩa là, Ngài tự ḿnh mà có,
và hằng co<161>, bằng không, nếu cũng được
tạo dựng nên cho có như tạo vật, Ngài đă không
phải là Thiên Chúa.
V́ Thiên Chúa chính là Sự Có, nên
mọi tạo vật có đều bởi Ngài và trong Ngài, để
chia sẻ Sự Có, tức hữu thể của Ngài.
Tuy nhiên, sự có nơi
tạo vật được tham dự vào Sự Có
tuyệt đối của Thiên Chúa theo thân phận của
ḿnh như thế không phải là chính Sự Có được
trực tiếp thông ra nơi Thiên Chúa, như sự có của
một người con được sinh bởi một người
mẹ. Nếu thế, sự có nơi tạo vật cũng
đồng bản tính với Thiên Chúa, như con cũng có
cùng một bản tính với người đă sinh ra ḿnh,
và như thế, tạo vật cũng ngang hàng với Thiên
Chúa hay cũng là Thiên Chúa?
Không, đă là tạo vật,
tức không phải là Thiên Chúa.
Đă không phải là Thiên Chúa,
tức không phải là chính sự có.
Sự có của tạo
vật và nơi tạo vật chỉ là một sự có gỉa
tạo, một sự có bất toàn và một sự có phác họa
để diễn tả sự có thật mà thôi.
Do đó,
Càng tiến đến Sự
Thật, tức Sự Có thuần túy, Sự Có viên măn,
Sự Có tuyệt đối là Thiên Chúa, tạo vật càng
tiến đến và
đạt được
tầm vóc lư tưởng của ḿnh, theo như ư muốn của
Đấng đă dựng nên ḿnh, ư muốn mà nhờ đó
nó có, ư muốn mà
trong đó nó được h́nh
thành và ư muốn mà theo đó nó được kiện toàn.
Phải,
Đối với chung
tạo vật và riêng con người, Ư Muốn của Thiên
Chúa chính là Sự Thật của họ.
Ư Muốn của Thiên Chúa, Đấng
Tự Hữu vô cùng Toàn Chân, Toàn Thiện và Toàn Mỹ, là
Sự Thật của tạo vật, trước hết, ở
chỗ, chính nhờ Ư Muốn này của Ngài mà chúng được
có, theo thể thức bản tính của ḿnh nói chung và cá
tính của ḿnh (như nơi con người) nói riêng.
Nếu Ngài muốn không có (chứ
không phải nếu Ngài không muốn có, v́ nơi Ngài không bao
giờ có tiêu cực hay phủ định, bởi bản
tính Thuần Hữu và Hằng Hữu của Ngài) một
vật nào đó, vật đó sẽ không bao giờ có. Tức
đời đời vật đó sẽ chỉ là hư vô.
Hay nói cách khác, hư vô là những ǵ ngoài Ư Muốn của
Sự Hữu hay không phải là Ư Muốn của Thiên Chúa,
thế thôi.
Mà, v́ Thiên Chúa là chính Sự
Hữu, tự hữu và hằng hữu, không bao giờ là
không có, nên, tất cả những ǵ Ngài muốn, dù
trên thực tế và trong gịng
thời gian chưa có, vật nào đó mà Ngài đă có ư định
dựng nên cũng đă có ở nơi Ngài từ trước
vô cùng.
Ư định dựng nên này của
Thiên Chúa, đối với chung tạo vật, chính là
tiềm thể của chúng.
Đó là bước đầu
tiên của tạo vật trong việc thông công và chia sẻ
Sự Có với Thiên Chúa, Sự Thật tuyệt đối
của chúng.
Ư Muốn của Thiên Chúa là
Sự Thật của tạo vật, sau nữa, c̣n ở
chỗ, chính trong ư muốn này mà tạo vật được
h́nh thành.
Tức là,
Thiên Chúa chẳng những
dựng nên tạo vật bằng ư muốn toàn năng của
Ngài, muốn chúng có là chúng có, Ngài c̣n dựng nên chúng theo ư
muốn toàn tri của Ngài, muốn thế nào th́ chúng có như
vậy.
Phần tạo vật, v́ không
tự ḿnh mà có như Thiên Chúa, nên cũng không thể nào
muốn có hay không, hoặc muốn có thế này hơn là
thế kia, muốn làm con người hơn làm con vật,
muốn làm con người đệ nhất thiên hạ
về mọi mặt hơn làm con người
bần cùng khốn nạn
trên thế gian v.v.
Do đó,
Ư Muốn của Thiên Chúa ở
đây chính là thực tại của chung tạo vật, và
là định mệnh của riêng con người.
Ngoài ra,
Ư muốn của Thiên Chúa ở
đây c̣n là chính sự sống c̣n của mọi tạo
vật nữa.
Bởi v́,
Nếu nhờ Ư Muốn của
Thiên Chúa mà tạo vật có, th́ tạo vật chỉ tồn
tại khi Thiên Chúa c̣n muốn. Một khi Thiên Chúa hết
muốn, chúng sẽ hết có.
Thế nhưng, v́ Ngài là chính
Sự Có, không bao giờ ngừng có, nên Ngài cũng không bao
giờ ngừng muốn. Để rồi, những ǵ Ngài đă
muốn là phải có, và có măi như Ngài muốn, kể
cả khi chúng chết đi.
Tạo vật chết đi
không phải là chúng ngừng có, nghĩa là chúng trở
về với hư vô, từ đó mà chúng đă đến
trong thế gian, mà chỉ là t́nh trạng thay đổi h́nh
thái của sự có nơi chúng mà thôi.
Cũng giống như trường
hợp của một hạt giống, sau khi mục
chết đi, sẽ biến thành một h́nh thể
thảo mộc nào đó theo mầm giống của nó
vậy.
Đó là bước thứ
hai của tạo vật trong việc thông công và chia sẻ
sự có với Thiên Chúa, Sự Thật tuyệt đối
của ḿnh.
Ư Muốn của Thiên Chúa c̣n
là Sự Thật của tạo vật, sau hết, ở chỗ,
tạo vật được kiện toàn trong Ư Muốn
này.
Thật vậy,
Ư Muốn của Thiên Chúa
chẳng những là tiềm thể nguyên ủy trrong
việc h́nh thành tạo vật, là thực tại
hiện hữu sô<161>ng c̣n của chúng, mà c̣n là mô thức
đích điểm kiện toàn chúng.
Ư Muốn của Thiên Chúa ở
đây là sứ mệnh của chung tạo vật và là ơn
gọi của riêng con người cũng như của
riêng mỗi người.
Ư Muốn của Ngài ở đây
chính là ư định của Ngài về tạo vật, ư định
muốn chúng phải là ǵ, phải trở nên như thế
nào, như
thượng trí vô cùng khôn
ngoan của Ngài.
Nếu tạo vật nào không
trở nên đúng như ư định của Ngài, sẽ là
những tạo vật đời đời ở trong
sự bất toàn của ḿnh khi thời gian hiện hữu
trên đời của chúng qua đi. V́ không đạt được
Sự Thật của ḿnh là Ư Muốn của Thiên Chúa
về ḿnh, nên chúng đời đời ở trong t́nh
trạng gỉa dối, tức ở trong t́nh trạng hoàn
toàn bất toàn, đó là t́nh trạng hư đi của
tạo vật.
Tuy nhiên,
Tạo vật, một khi đă
có sẽ không trở về với hư vô nữa, một
là sẽ nên kiện toàn theo Ư Muốn của Thiên Chúa, hai là
sẽ măi măi ở trong thực trạng bất toàn.
Mà trong cơi đời đời,
sự bất toàn của một vật trước một
thực tại kiện toàn của vật khác cũng là
tạo vật như ḿnh, không phải là một bất
hạnh vô cùng cho vật bất toàn hay sao?
Vật bất toàn và bất
hạnh đời đời ấy giống như một
hạt giống cũng bị chết đi để có
thể biến thể thành h́nh thù theo gịng giống thảo
mộc của ḿnh, song loại thảo mộc này lại không
có khả năng sống được với khí hậu
của trời đất mà chúng mọc lên.
C̣n những tạo vật được
kiện toàn theo Ư Muốn của Đấng đă tạo
dựng nên ḿnh, tức Ư Muốn của chính Sự Có,
sẽ vĩnh viễn ở trong ánh sáng và tham hiệp với
Sự Có vô cùng toàn thiện và toàn năng là Thiên Chúa tối
cao.
Đó là bước thứ ba
cũng là bước cuối cùng của tạo vật
trong việc thông công và chia sẻ Sự Có với Thiên Chúa,
Sự Thật tuyệt đối của ḿnh.
Thế nhưng,
Làm thế nào tạo vật có
thể nên kiện toàn nếu chúng không có khả năng
nhận biết Sự Thật, tức nhận biết Ư
Muốn của Thiên Chúa về chúng và nơi chúng, để
có thể trở nên như những ǵ đă được
tiền định cho chúng như một ơn gọi, đang
khi chúng hiện hữu và sống động trong không gian
hữu h́nh và thời gian hữu hạn là thế gian này?
Thật vậy,
Trên thế gian này, chỉ có
con người, mà thân xác của họ là một tiểu vũ
trụ, gồm tóm tất cả mọi nguyên lư và chất
liệu trong trời đất, để trở thành trung
tâm của đất trời, mới có khả năng để
nhận biết Sự Thật, nhận biết Ư Muốn của
Thiên Chúa, nhận biết Đấng Tạo Hóa của ḿnh
mà thôi, thay cho các vật không có khả năng nhận
biết Ngài và ư định của Ngài như
họ.
Khả năng nhận
biết Tạo Hóa và Ư Muốn của Ngài là Sự Thật
tuyệt đối của ḿnh để con người có
thể nên kiện toàn, đó là
trí khôn của họ.
Chính v́ thế, con người
đă được dựng nên với một linh hồn
là một bản thể tự nó thiêng liêng bất tử như
chính Thiên Chúa. Và cũng nhờ linh hồn giống Thiên Chúa
và có khả năng nhận biết Ngài này mà con người
có thể t́m kiếm, tiến đến và thông hiệp với
Ngài, Sự Có vô cùng toàn hảo và toàn năng là cùng đích của
họ.
Nếu con người không có
hay thiếu mất khả năng để nhận
biết Thiên Chúa là Sự Có mà họ được thông
phần và là Sự Thật mà họ phải trở nên, th́
họ vẫn ở trong sự giả dối, không đạt
đến tầm mức kiện toàn của ḿnh theo ư định
của Thiên Chúa.
Do đó, vật nào mất
sự thật, thiếu sự thật là mất tất
cả, thiếu tất cả, không vô cùng bất hạnh là
ǵ?
Tuy nhiên,
Ư Muốn của Thiên Chúa là
Sự Thật tuyệt đối của con người
và cho con người th́ Ư Muốn đó được tỏ
ra ở đâu và tỏ ra như thế nào để con người
có thể nhận biết, chấp nhận và tuân theo, trong
việc kiện toàn bản thân của ḿnh?
Thật ra,
Ư Muốn của Thiên Chúa
Thần Linh đối với con người tâm linh ở
trong thân xác bị giới hạn bởi không gian và thời
gian là một mầu nhiệm khôn lường, song không
phải v́ thế mà con người không thể nào nhận
biết và tuân theo, nhờ đó có thể tiến đến
với Ngài và thông hiệp với Ngài là Sự Hữu vô cùng
toàn hảo của ḿnh.
Chính v́ con người có linh hồn
mà con người có thể nhận ra Ư Muốn của Ngài,
và từ đó, có thể nhận ra Ngài.
Bởi v́,
Trong chính thâm tâm của ḿnh,
trải suốt cuộc đời, từ khi biết
sử dụng trí khôn cho tới khi xuôi tay nhắm mắt,
con người, dù vô thần hay hữu thần, dù duy linh
hay hiện sinh, cũng không thể chối căi được
có một tiếng nói âm thầm nhưng rất rơ ràng
liên quan đến mọi và mỗi
hành động lớn nhỏ có tính cách luân lư của ḿnh.
Trước khi làm một
việc ǵ có liên quan đến vấn đề luân lư,
nhất là những việc có liên hệ đến
quyền lợi của tha nhân, có thể làm lợi hay tác
hại họ, chẳng hạn như muốn giết hay
hiếp người ta, hoặc cứu người ta đang
thập tử nhất sinh trong khả năng của ḿnh,
con người đều cảm thấy có tiếng nói nên
hay đừng, một tiếng nói có một mănh lực đến
nỗi, ngay lúc bấy giờ, nó làm cho tác nhân băn
khoăn, bối rối, lưỡng lự, nếu đang
toan tính bất lợi cho người, và sau khi đă
thực hiện được toan tính bất lợi
ấy cho người hay từ chối cứu vớt họ,
nó sẽ làm cho tác nhân không thôi áy náy, hối hận, bất
an, và vô cùng khổ tâm.
Phải,
Lương Tâm của con người
chính là hiện thân cho Ư Muốn của Thiên Chúa nơi con người,
là cái loa phát ra tiếng nói của Thiên Chúa mỗi khi
cần, (nó không phải là chiếc máy vo<131> tuyến
truyền thanh mà con người phải vặn đúng làn sóng
nó mới phát thanh), là ngôn sứ của Thiên Chúa sai đến
với con người để thông báo và hướng
dẫn con người đường ngay nẻo chính cho tới
khi con người đạt được chân lư của
cuộc đời họ, một chân lư được
tiềm tàng ngay nơi thiên chức là người và ơn gọi
làm người của họ ở trên đời.
Cũng với trí khôn là
khả năng để nhận biết và t́m kiếm
sự thật nơi ḿnh, con người cũng không
thể phủ nhận là, hạnh phúc thật ở trên đời
mà họ có thể có, trong tầm tay của họ, dù họ
là một kẻ bần cùng và khốn nạn nhất trên
thế gian này, không công danh, sự nghiệp, giầu sang, phú
qúi, quyền bính, thế lực, thông minh, tài giỏi, duyên
dáng, mỹ miều v.v., không phải tại những ǵ họ
có, (như vừa kể), cho bằng tại những ǵ họ
là, đúng như thiên chức là người và ơn gọi
làm người của họ.
Bởi v́,
Chỉ khi nào họ hết sức
nỗ lực để đạt được hay đă
đạt được những ǵ họ là, họ mới
có được một sự b́nh an chân thực và bền
bỉ, một b́nh an không ǵ có thể cướp mất hay
phá hủy, một b́nh an là dấu chứng và bảo chứng
cho hạnh phúc viên
măn và bất diệt của họ
đời đời, sau khi họ đi qua và đi
hết cuộc đời ngắn ngủi song đầy
cám dỗ, thử thách và chiến đấu này.
Thế mà,
Trên thực tế, con người
không dễ ǵ có thể nhận biết và đạt được
chân lư của cuộc đời ḿnh là Ư Muốn tối cao
của Thiên
Chúa, Sự Hữu vô cùng Hoàn
Thiện, Đấng dựng nên ḿnh, v́ con người có
tự do mà lại vô cùng yếu đuối.
Con người yếu đuối
ở chỗ, dù biết được chân lư, biết được
những ǵ phải làm hay phải tránh hoặc phải chịu
để kiện toàn hữu thể tạo vật bất
toàn của ḿnh, con người vẫn không thể nào
thắng vượt hay thực hiện được.
Để rồi, càng
thất bại trong việc đi t́m chân lư nơi ḿnh, con người
càng trở nên mù tối và lầm lạc, đến nỗi,
không c̣n biết đâu là chân lư, đâu là thật và đâu là
gỉa nữa.
Nhiều khi họ cứ tưởng
những ǵ họ nghĩ ra đều đúng, đều
là chân lư, chứ không phải thực tại mà họ thuộc
về, mà họ có,
mà họ là.
Từ đó, họ theo đuổi
những chân lư mà họ nghĩ ra và được họ
coi như thần tượng của họ. Cho đến
khi thần tượng của họ
không thể cứu vớt hay
giải cứu được họ trong những lúc họ
khẩn thiết hay hiểm nghèo, họ trở nên uất
hận, chán chường hay cố chấp.
Họ cảm thấy chính khi
họ đi t́m ḿnh lại là lúc họ đánh mất ḿnh, v́
không thể có chân lư trong họ hay do họ tạo ra, mà chỉ
có chân lư ở trên họ và soi sáng cho họ mà thôi.
Dù họ có phủ nhận
chân lư, thậm chí t́m cách tiêu diệt nó, bằng những
hành động vô luân theo đam mê và thú tính của ḿnh, nó
vẫn không thể bị tiêu diệt, v́ nó phát xuất từ
và là chính bản chất của Sự Hữu Đời Đời.
Trái lại, dù muốn hay không,
dù lành hay dữ, trước khi nhắm mắt xuôi tay,
nhất là sau khi chết, chân lư sẽ hoàn toàn tỏ ḿnh ra
cho họ, để họ thấy rằng nó là ǵ và họ
là ǵ.
Nếu họ giống như
chân lư, họ sẽ đời đời tồn tại
trong ánh sáng vĩnh phúc của Sự Hữu vô cùng toàn
thiện; nếu họ không giống như chân lư, họ
sẽ đời đời ở trong sự tăm
tối giả tạo của cuộc vĩnh tử.
Thế nên,
Đời sống của con
người trên trần gian, mà có không tự ḿnh và chết
cũng không tùy ḿnh, biết và muốn, kể cả
sống cũng không do ḿnh định, th́ việc quan
hệ nhất của họ không phải là t́m kiếm,
nhận biết và đạt được chân lư đời
đời hay sao?
Tuy nhiên,
Chân lư đời đời
không ở đâu xa xôi hay cao vời đến nỗi họ
không thể tới được, mà ở ngay nơi lương
tâm được phú bẩm cho họ khi họ vào đời
như một con người (chứ không phải như một
con vật vô linh). Do đó, họ chỉ cần lắng
nghe là họ sẽ thấy,
và họ chỉ cần
cố gắng là họ sẽ gặp được nó.
Chính khi họ gặp được
chân lư nơi lương tâm của ḿnh là họ gặp được
chính ḿnh. V́ thiên chức là người và ơn gọi làm người
nơi họ đều tàng ẩn trong chân lư mà lương
tâm thông đạt cho họ suốt dọc cuộc đời
của họ.
Nhưng, để có thể
lắng nghe, nhận biết và đạt được
chân lư là người và làm người này của ḿnh, con người
không thể làm
ǵ khác hơn là từ bỏ,
là tự đánh mất ḿnh đi trong chân lư, bằng không, đời
đời họ sẽ không đạt được cùng
đích và đối tượng tối cao là chân lư của
họ.
Thế nên,
Chính lúc con người từ
bỏ và đánh mất ḿnh đi lại là lúc họ t́m được
chính ḿnh, là lúc họ sống và kiện toàn bản tính
bất
toàn của ḿnh hơn bao giờ
hết.
Để rồi,
Một khi làm cho ḿnh nên hoàn
thiện trong chân lư như thế, không phải là con người
đă thật sự yêu ḿnh một cách chân chính và trọn
hảo hay sao!
"Hạnh Phúc là viên măn yêu
thương":
Bắt đầu từ chân
lư này vậy.