được ĐTC GPII chia sẻ trong Đại Năm Thánh 2000
ĐTCGPII giảng dạy Giáo Lư trong Đại Năm Thánh 2000, bài 24, Thứ Tư 27/9/2000
1. Theo chương tŕnh được phác họa trong Tông Thư Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến Tertio Millennio Adveniente, Năm Mừng Kỷ Niệm này, năm long trọng cử hành biến cố Nhập Thể, phải là một năm “nặng về Thánh Thể” (số 55). Bởi thế, sau khi ngắm nh́n vinh quang của Chúa Ba Ngôi tỏa chiếu trên đường nẻo của con người, chúng ta hăy bắt đầu tiến đến phần giáo lư về việc cử hành vinh quang thần linh cao cả dù thấp hạ là Thánh Thể. Cao cả, v́ Thánh Thể là việc Chúa Kitô hiện diện được thực sự thể hiện giữa chúng ta “măi măi cho đến tận thế” (Mt 28:20); thấp hạ, v́ Thánh Thể được trao ban cho thành phần đơn thành, v́ là những h́nh thức bánh rượu thường ngày, v́ là thứ của ăn của uống thông thường nơi mảnh đất của Chúa Giêsu cũng như của nhiều phần đất khác. Nơi thứ bổ dưỡng thường ngày này, Thánh Thể mang lại chẳng những hứa hẹn mà c̣n “bảo chứng” cho vinh quang mai hậu nữa: “futurae gloriae nobis pignus datur” (Thánh Tôma Aquina, Officium de festo corporis Christi). Để thấu hiểu được tính cách cao cả của mầu nhiệm Thánh Thể, hôm nay chúng ta hăy suy niệm đề tài về vinh quang thần linh cũng như về tác động của Thiên Chúa trong thế giới, một thứ vinh quang và tác động hiện nay đang được tỏ lộ qua những biến cố cứu độ cao cả, một thứ vinh quang và tác động hiện nay đang được khuất kín dưới những h́nh thức thấp hạ mà chỉ có con mắt đức tin mới thấy được.
2. Trong Cựu Ước, từ ngữ kabód của tiếng Do Thái nói lên việc tỏ hiện của vinh quang thần linh cũng như việc hiện diện của Thiên Chúa trong lịch sử cùng thiên nhiên vạn vật. Vinh quang Chúa đă chiếu tỏa trên đỉnh núi Sinai, nơi mạc khải Lời thần linh (x Ex 24:16). Vinh quang Chúa hiện diện nơi lều thánh cũng như trong phụng vụ của Dân Chúa qua cuộc lữ hành nơi sa mạc của họ (x Lv 9:23). Vinh quang Chúa tràn ngập đền thờ, vị trí mà theo tác giả Thánh Vịnh nói đó là “nơi vinh quang Ngài ngự trị” (Ps 26:8). Vinh quang Chúa bao phủ toàn dân Chúa chọn như một chiếc áo choàng bằng ánh sáng (x Is 60:1), ở chỗ, theo lời của chính Thánh Phaolô, “họ là Dân Yến Duyên, thành phần chiếm được ơn làm nghĩa tử, vinh quang và các giao ước” (Rm 9:4).
3. Vinh quang thần linh này, một vinh quang thần linh được bộc lộ cho dân Yến Duyên cách đặc biệt, đang hiện diện trên toàn thế giới, như tiên tri Isaia đă nghe thấy thần Seraphim loan báo vào lúc lănh nhận ơn gọi của ḿnh: “Chúa các đạo binh là thánh, thánh, thánh; toàn thể trái đất đầy vinh quang Ngài” (Is 6:3). Thật vậy, Chúa đă tỏ vinh quang của Ngài ra cho tất cả mọi dân nước, như chúng ta đọc thấy trong Thánh Vịnh: “Tất cả mọi dân nước được thấy vinh quang của Ngài” (Ps 97:6). Bởi thế, việc chiếu tỏa ánh sáng vinh quang là một việc làm phổ cập, để tất cả loài người có thể nhận ra việc thần linh hiện diện trong vũ trụ. Việc chiếu tỏa ánh sáng vinh quang này được nên trọn đặc biệt nơi Chúa Kitô, v́ Người “phản ánh vinh quang” của Thiên Chúa (Heb 1:3). Việc chiếu tỏa vinh quang ấy cũng được nên trọn nơi các việc Người làm, như Thánh Kư Gioan đă chứng thực qua dấu lạ ở Cana: Chúa Kitô “đă tỏ vinh quang của Người ra làm cho các môn đệ tin tưởng vào Người” (Jn 2:11). Người cũng chiếu tỏa vinh quang thần linh ra qua lời thần linh của Người nữa: “Con đă ban cho họ lời của Cha, Chúa Giêsu thưa cùng Chúa Cha, “vinh quang Cha đă ban cho Con th́ Con cũng đă ban cho họ” (Jn 17:14, 22). Chính yếu hơn nữa, Người tỏ lộ vinh quang thần linh qua nhân tính Người mặc lấy khi Nhập Thể: “Lời đă hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta, đầy ân sủng và chân lư; chúng ta được thấy vinh hiển của Người, vinh hiển của Người Con duy nhất đến từ Cha” (Jn 1:14).
4. Việc vinh quang thần linh tỏ hiện trên thế gian đạt đến tột đỉnh của ḿnh nơi biến cố Phục Sinh, một biến cố được riêng các bản văn của Thánh Gioan và Phaolô cho là Chúa Kitô vinh hiển ngự bên hữu Chúa Cha (x Jn 12:23, 13:31, 17:1; Phil 2:6-11; Col 3:1; 1Tím 3:16). Mà mầu nhiệm vượt qua, một mầu nhiệm “Thiên Chúa hoàn toàn được vinh hiển” (Hiến Chế về Phụng Vụ Sacrosanctum Concilium, 7), được kéo dài nơi hy tế Thánh Thể, một tưởng niệm cuộc tử nạn và phục sinh Chúa Kitô đă được kư thác cho Giáo Hội, Hiền Thê dấu yêu của Người (x cùng nguồn vừa dẫn, 47). Bằng lời truyền “các con hăy làm việc này mà nhớ đến Thày” (Lk 22:19), Chúa Giêsu muốn bảo đảm việc hiện hữu của vinh quang vượt qua của Người nơi tất cả mọi cuộc cử hành Thánh Thể sẽ đánh dấu gịng lịch sử nhân loại. “Nhờ Bí Tích Thánh Thể, biến cố Vượt Qua của Chúa Kitô lan ra khắp Giáo Hội... Bằng việc rước Ḿnh Máu Thánh Chúa Kitô, tín hữu lớn lên trong việc được thần linh hóa một cách nhiệm mầu, một việc thần linh hóa Thánh Linh làm cho họ ở trong Người Con như là những người con cái của Chúa Cha” (Gioan Phaolô II và Moran Mar Ignatius Zakka I Iwas, Joint Declaration, 23/6/1984, số 6: Enchiridion Vaticanum, 9, 842).
5. Ngày nay chúng ta đă có được một cuộc cử hành tuyệt vời nhất vinh quang thần linh trong phụng vụ: “V́ cuộc tử nạn của Chúa Kitô trên Thập Giá và cuộc phục sinh của Người làm nên những ǵ thuộc sinh hoạt hằng ngày của Giáo Hội và là bảo chứng cho Cuộc Vượt Qua vĩnh cửu của Người mà việc đầu tiên của phụng vụ là không ngừng dẫn chúng ta trở về với cuộc hành tŕnh Phục Sinh do Chúa Kitô khởi xướng, một cuộc hành tŕnh chúng ta chấp nhận chết đi để tiến vào sự sống” (Tông Thư Vicesimus quintus annus, 6). Giờ đây, công việc đầu tiên của phụng vụ này trước hết được thực thi qua việc cử hành Thánh Thể, một việc cử hành làm hiện thực Cuộc Khổ Nạn của Chúa Kitô và là một việc thông đạt năng lực của cuộc khổ nạn này cho tín hữu. Như thế, việc tôn thờ của Kitô Giáo là một diễn đạt sống động nhất cuộc gặp gỡ giữa vinh quang thần linh với vinh hiển phát xuất từ môi miệng và ḷng trí loài người. Đường lối chúng ta “hết ḷng tôn vinh Chúa” (Sir 35:8) cần phải xứng hợp với “vinh quang Chúa tràn ngập lều tạm” (x Ex 40:34).
6. Như Thánh Phaolô nhắc nhở, chúng ta cũng phải tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác của chúng ta nữa, tức là nơi tất cả cuộc hiện hữu của chúng ta, v́ thân xác của chúng ta là đền thờ của Thần Linh là Đấng ngự trong chúng ta (x 1Cor 6:19, 20). Theo ư nghĩa này, người ta cũng có thể nói về một cuộc cử hành vinh quang thần linh của vũ tru nữạ. Thế giới được dựng nên, một thế giới “thường hay bị biến dạng v́ tính vị kỷ và ḷng tham lam”, tự ḿnh cũng có “mầm Thánh Thể”, ở chỗ, nó “được sử dụng nơi Thánh Thể của Chúa, nơi cuộc Vượt Qua của Người, được hiện diện nơi hy tế trên bàn thờ” (Orientale lumen, 11). Thế là thiên nhiên tạo vật sẽ hợp tiếng tụng ca một cách ḥa điệu đáp lại hơi thở vinh quang Chúa “ở trên các tầng trời” (Ps 113:4) và chiếu xuống trần gian để, “Thiên Chúa được tôn vinh trong mọi sự nhờ Chúa Giêsu Kitô. Nguyện cho Người được vinh quang và hiển trị cho đến muôn đời. Amen!” (1Pt 4:11).
(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ Tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 4/10/2000)
THÁNH THỂ LÀ TƯỞNG NIỆM CÁC VIỆC TOÀN NĂNG CỦA THIÊN CHÚA
ĐTCGPII giảng dạy Giáo Lư trong Đại Năm Thánh 2000, bài 25, Thứ Tư 4/10/2000
1. Trong nhiều khía cạnh của Thánh Thể nổi nhất là khía cạnh “tưởng niệm”, một khía cạnh liên hệ đến một đề tài Thánh Kinh hết sức quan trọng. Chẳng hạn chúng ta đọc thấy trong Sách Xuất Hành: “Thiên Chúa đă nhớ đến giáo ước Ngài đă lập với Abraham và Giacĩp” (Ex 2:24). Tuy nhiên, Sách Nhị Luật lại viết: “Các ngươi phải nhớ đến những ǵ Chúa là Thiên Chúa các ngươi đă làm...” (7:18). Theo Thánh Kinh, việc Thiên Chúa nhớ lại và việc con người nhớ đến đă cấu kết với nhau làm thành một yếu tố nền tảng nơi sinh hoạt của Dân Thiên Chúa. Thế nhưng, “đây khơng phải thuần túy chỉ là một việc hồi tưởng về những biến cố đă qua, mà là việc loan báo các cơng cuộc quyền năng do Thiên Chúa thực hiện cho lồi người. Trong việc cử hành phụng vụ các biến cố này, những biến cố ấy trở nên hiện hữu thực sự một cách chắc chắn” (Sách Giáo Lư của Giáo Hội Cơng Giáo, số 1363). Việc tưởng niệm là việc nhắc lại mối liên kết của một giao ước bất biến: “Chúa đă nhớ đến chúng tơi; Ngài sẽ chúc phúc cho chúng tơi” (Ps 115:12).
Như thế, đức tin theo Thánh Kinh bao hàm việc hồi tưởng thực sự về các cơng cuộc cứu độ. Những cơng cuộc này được tuyên xưng trong bản Đại Tuyên Hỷ là Thánh Vịnh 136, một thánh vịnh mà , sau khi loan báo về việc tạo thành và cứu độ được ban cho dân Yến Duyên qua Cuộc Xuất Hành, đă kết thúc như sau: “Chính Ngài là Đấng đă nhớ đến chúng tơi nơi phận thấp hèn, v́ t́nh Ngài bền vững muơn đời; và Ngài đă giải cứu chúng tơi...; Ngài là Đấng ban lương thực cho tất cả mọi xác phàm, v́ t́nh Ngài bền vững muơn đời” (Ps 136:23-25). Chúng ta cũng thấy những lời tương tự như vậy nơi Phúc Âm, qua mơi miệng của Mẹ Maria và ơng Zacaria: “Ngài đă hộ phù Yến Duyên tơi tớ của Ngài bởi nhớ lại lịng Ngài xĩt thương... khi nhớ tới giao ước thánh của Ngài” (Lk 1: 54, 72).
2. Trong Cựu Ước, việc “tưởng niệm” tuyệt đỉnh về các cơng cuộc của Thiên Chúa trong lịch sử đĩ là phụng vụ Vượt Qua trong biến cố Xuất Ai Cập, ở chỗ, mỗi lần dân Yến Duyên cử hành Lễ Vượt Qua th́ Thiên Chúa thực sự ban cho họ ơn được tự do và cứu độ. Thế nên, trong lễ nghi Vượt Qua, hai việc tưởng nhớ được giao kết với nhau: một thần linh và một nhân loại, tức là, ân sủng cứu độ và đức tin tri ân. “Ngày này sẽ là một ngày tưởng nhớ đối với các người, và các người sẽ cử hành ngày ấy như là một ngày lễ kính Chúa... Ngày này sẽ nên như là một dấu hiệu trên tay của các người và như là một việc tưởng niệm trước mắt của các người, để lề luật của Chúa luơn ở trên mơi miệng của các người; v́ Chúa đă dùng cánh tay mạnh mẽ mang các người ra khỏi Ai Cập” (Ex 12:14, 13:9). V́ biến cố này mà dân Yến Duyên, như một triết gia Do Thái nĩi, sẽ luơn luơn là “một cộng đồng theo lịng tưởng nhớ” (M. Buber).
3. Việc Thiên Chúa tưởng nhớ giao kết với việc lồi người tưởng niệm cũng ở ngay trung tâm của Thánh Thể nữa, một việc “tưởng nhớ” tuyệt đỉnh của Lễ Vượt Qua Kitơ Giáo. V́ “anamnesis”, tức tác động tưởng nhớ, là cốt lơi của việc cử hành này, ở chỗ, hy sinh của Chúa Kitơ, một biến cố cĩ một khơng hai, được thực hiện một cách ephapax, tức “một lần vĩnh viễn” (Heb 7:27, 9:12, 26, 10:12), đă trải dài sự hiện diện cứu độ của ḿnh trong thời gian và khơng gian nơi lịch sử lồi người. Điều này đă được thể hiện nơi lệnh truyền sau hết, một lệnh truyền được Thánh Luca và Phaolơ ghi lại trong đoạn về Bữa Tiệc Ly như sau: “Đây là ḿnh Thày sẽ bị nộp v́ các con. Các con hăy làm việc này mà nhớ đến Thày... Đây là chén tân ước bằng máu Thày. Mỗi lần các con uống chén này, các con hăy làm để nhớ đến Thày” (1Cor 11:24-25; x Lk 22:19). Biến cố đă qua về “thân thể đă hy sinh v́ chúng ta” trên cây Thập Giá được tái hiện hơm nay đây, để rồi, như Thánh Phaolơ tuyên bố, hướng về tương lai của việc cứu chuộc tận cùng: “Mỗi lần anh em ăn bánh này và uống chén ấy, anh em loan truyền việc Chúa chịu chết cho tới khi Người ại đến” (1Cor 11:26). Như thế, Thánh Thể là việc tưởng niệm cuộc tử nạn của Chúa Kitơ, thế nhưng, Thánh Thể cũng là việc hiện diện hy sinh của Người cững như là việc ngưỡng vọng đến cuộc tái hiện vinh quang của Người. Thánh Thể là bí tích của việc Chúa phục sinh liên tục áp dụng ơn cứu độ trong lịch sử. Như thế chúng ta mới cĩ thể hiểu được lời Thánh Phaolơ huấn dụ Timơthêu: “Hăy nhớ đến Chúa Giêsu Kitơ, Đấng sống lại từ kẻ chết, Đấng thuộc giịng dơi Đavít” (2Tim 2:8). Nơi Thánh Thể, việc tưởng nhớ này tồn tại và sinh động một cách đặc biệt.
4. Thánh Kư Gioan đă giải thích cho chúng ta biết ư nghĩa sâu xa của việc “tưởng niệm” những lời nĩi và các biến cố của Chúa Kitô. Khi Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ cho khỏi đám buơn bán và loan báo rằng đền thờ sẽ bị phá hủy rồi được tái thiết trong ba ngày, Thánh Gioan đă chú giải rằng: “Khi Người sống lại từ cơi chết, các mơn đệ đă nhớ lại rằng Người đă nĩi đến điều này; do đĩ, các vị đă tin Thánh Kinh và lời Chúa Giêsu đă phán” (Jn 2:22). Việc tưởng nhớ này, một việc tưởng nhớ trổ sinh và nuơi dưỡng đức tin, là việc làm của Chúa Thánh Thần, “Đấng Cha sẽ sai đến nhân danh” Chúa Kitơ: “Ngài sẽ dạy các con tất cả mọi sự, và sẽ làm cho các con nhớ lại tất cả những ǵ Thày đă nĩi với các con” (Jn 14:26). Như thế là cĩ một việc tưởng niệm thực sự, đĩ là việc tưởng niệm nội tâm làm cho chúng ta hiểu được Lời của Thiên Chúa, và việc tưởng niệm theo bí tích nơi Thánh Thể. Đây là hai thực tại cứu độ được Thánh Luca hợp lại trong tŕnh thuật rơ ràng về hai mơn đệ trên đường đi Emmau, một tŕnh thuật được cấu trúc chung quanh việc giải thích các câu Kinh Thánh và việc “bẻ bánh” (x Lk 24:13-55).
5. Bởi thế, “tác động tưởng nhớ” là “mang đến cho cơi lịng” theo kư ức và cảm t́nh, song nĩ cũng là việc cử hành một sự hiện diện nữa. “Chỉ cĩ một ḿnh Thánh Thể, việc tưởng niệm thực sự mầu nhiệm vượt qua của Chúa Kitơ, mới cĩ khả năng làm cho việc tưởng nhớ đến t́nh yêu của Người tồn tại mà thơi. V́ thế, Thánh Thể là việc Giáo Hội âm thầm tỉnh thức, bằng khơng, khơng cĩ hiệu năng thần linh của niềm hứng khởi liên tục rất ngọt ngào này, khơng cĩ quyền năng thấm nhập của ánh mắt Vị Hơn Phu gắn nh́n ḿnh, Giáo Hội rất dễ bị rơi vào quên lăng, vơ cảm và bất trung” (Tơng Thư Patres Ecclesiae, III: Ench. Vat., 7, 33). Lời mời gọi tỉnh thức này làm cho các phụng vụ Thánh Thể vươn tới việc Chúa đến sau hết, tới việc Giêrusalem trên trời xuất hiện. Nơi Thánh Thể, Kitô hữu phát triển niềm hy vọng được vĩnh viễn gặp gỡ Chúa của ḿnh.
(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ
Tuần san L’Osservatore
Romano, ấn bản Anh ngữ, 11/10/2000)
ĐTCGPII giảng dạy Giáo Lư trong Đại Năm Thánh 2000, bài 26, Thứ Tư 11/10/2000
1. “Nhờ Người, với Người và trong Người mà mọi chúc tụng và vinh quang đều qui về Chúa là Cha toàn năng cùng với Chúa Thánh Thần”. Lời tuyên tụng Ba Ngôi này kết thúc lời cầu của Kinh Nguyện Thánh Thể mỗi lần cử hành Thánh Lễ. Thật vậy, Thánh Thể là “hy tế chúc tụng” tuyệt hảo, là việc tôn vinh cao cả nhất từ đất dâng lên trời, là “nguồn mạch và là tột đỉnh của đời sống Kitô hữu, thành phần hiến dâng tế vật thần linh nơi Thánh Thể (lên Chúa Cha) cùng với chính bản thân ḿnh nữa” (Hiến Chế Lumen Gentium, 11). Trong Tân Ước, Thư gửi giáo đoàn Do Thái dạy chúng ta rằng phụng vụ Kitô Giáo được hiến dâng bởi “một thượng tế thánh thiện, liêm chính, vẹn tuyền, không dính dáng với tội nhân, vượt trên các tầng trời”, Đấng thực hiện một hy tế chuyên nhất một lần vĩnh viễn bằng “việc dâng hiến bản thân ḿnh” (x Heb 7:26-27). Bức Thư viết: “Thế nên, nhờ Người, chúng ta hăy tiếp tục hiến dâng lên Thiên Chúa hy tế chúc tụng” (Heb 13:15). Hôm nay, chúng ta hăy vắn tắt nhắc lại hai đề tài hy tế và chúc tụng, sacrificium laudis, nơi Thánh Thể.
2. Trước hết, hy tế của Chúa Kitô hiện diện nơi Thánh Thể. Chúa Giêsu thực sự hiện diện dưới h́nh bánh và rượu, như chính Người đă bảo đảm với chúng ta rằng: “Đây là ḿnh Thày... đây là máu Thày” (Mt 26:26, 28). Thế nhưng, Chúa Kitô hiện diện nơi Thánh Thể là một Chúa Kitô hiện đang được vinh quang, Đấng đă hiến ḿnh trên thập giá vào Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Đó là những ǵ được nhấn mạnh bởi những lời Người phán trên chén rượu: “Đây là máu giao ước đổ ra cho nhiều người” (Mt 26:28; x Mk 14:24; Lk 22:20). Nếu những lời này được khảo sát theo chiều hướng xuất phát từ Thánh Kinh th́ có hai liên quan đáng chú ư. Liên quan thứ nhất là kiểu nói “máu đổ ra”, một kiểu nói, như ngôn ngữ Thánh Kinh chứng thực, cho thấy đồng nghĩa với cái chết dữ dằn (x Gen 9:6). Liên quan thứ hai là ở nơi câu phát biểu đích xác “cho nhiều người”, ám chỉ thành phần được máu này đổ ra cho. Việc gián tiếp ám chỉ ở đây đưa chúng ta về với đoạn văn nền tảng đối với việc giải thích Thánh Kinh của Kitô Giáo, đó là bài ca thứ bốn của tiên tri Isaia: bằng hy tế của ḿnh, Người Tôi Tớ Chúa “đă thí mạng sống ḿnh” và “mang lấy tội lỗi của nhiều người” (Is 53:12; x Heb 9:28; 1Pt 2:24).
3. Khía cạnh vừa hy tế lẫn cứu chuộc của Thánh Thể được thể hiện nơi những lời Chúa Giêsu phán trên bánh trong Bữa Tiệc Ly, những lời theo truyền thống được Thánh Luca và Phaolô thuật lại: “Đây là ḿnh Thày sẽ bị nộp v́ các con” (Lk 22:19; x 1Cor 11:24). Cả ở đây nữa cũng liên quan đến việc tự hy hiến bản thân ḿnh của Người Tôi Tớ Chúa, hợp với đoạn sách tiên tri Isaia vừa được đề cập đến (53:12). “Người đă thí mạng sống ḿnh...; Người đă mang lấy tội lỗi của nhiều người, và đă cầu bầu cho các phạm nhân”. “Thánh Thể không phải là ǵ khác ngoài chính hy tế. Chính hy tế Cứu Chuộc cũng là hy tế Tân Ước, như chúng ta tin tưởng và Giáo Hội Đông Phương minh nhiên tuyên xưng. “Hy tế của ngày hôm nay, Giáo Hội Hy Lạp đă nói từ nhiều thế kỷ trước đây (ở Công Đồng Contantinôpôli phi bác Sotericus vào năm 1156-1157), giống như hy tế được hiến dâng một lần bởi Lời Nhập Thể; hy tế đó được Người dâng hiến (hiện nay cũng như bấy giờ), v́ hy tế ấy cũng là một hy tế duy nhất” (Tông Thư Dominicae Cenae, 9).
4. Thánh Thể, như một hy tế của Tân Ước, là việc phát triển và hoàn tất giao ước được cử hành trên núi Sinai, khi Moisen đổ một nửa máu của các tế vật hy sinh trên bàn thờ, biểu hiệu cho Thiên Chúa, và một nửa trên cộng đồng con cái Yến Duyên (x Ex 24:5-8). “Máu giao ước” này gắn bó Thiên Chúa với loài người lại với nhau một cách chặt chẽ bằng một mối giây liên kết. Mối thân mật trở nên trọn vẹn nơi Thánh Thể; việc Thiên Chúa và loài người gắn bó với nhau đạt đến tột đỉnh của ḿnh. Đó là việc hoàn tất của “tân ước” được tiên tri Giêrêmia tiên báo (x 31:31-34): một giao ước trong tinh thần và trong tâm can, một giao ước được Thư gửi giáo đoàn Do Thái hết sức ca ngợi, khi trích lại lời của vị tiên tri này mà đem ghép nó với hy tế tối hậu duy nhất của Chúa Kitô (x Heb 10:14-17).
5. Đến đây, chúng ta có thể dẫn chứng một xác nhận khác về Thánh Thể là một hy tế chúc tụng. Thực sự hướng đến việc hiệp thông trọn vẹn giữa Thiên Chúa và con người, “hy tế Thánh Thể là nguồn mạch và là tột đỉnh cho tất cả việc phụng thờ của Giáo Hội cũng như của đời sống Kitô hữu. Tín hữu tham dự trọn vẹn hơn vào bí tích tạ ơn, đền bồi, nguyện xin và chúc tụng, chẳng những lúc họ cùng với vị linh mục hết ḷng hiến dâng tế vật linh thánh cũng như chính ḿnh với tế vật này lên Chúa Cha, mà c̣n cả lúc họ lănh nhận tế vật này trong bí tích nữa” (Thánh Bộ Lễ Nghi, Eucharisticum Mysterium, 3e).
Như chính nguyên ngữ Hy Lạp th́ Thánh Thể nghĩa là “tạ ơn”; nơi Thánh Thể Con của Thiên Chúa liên kết nhân loại được cứu chuộc với chính ḿnh trong bản thánh ca tạ ơn và chúc tụng. Chúng ta hăy nhớ rằng tiếng todah của Do Thái, được phiên dịch là “chúc tụng”, cũng có nghĩa là “tạ ơn” nữa. Hy tế chúc tụng là một hy tế tạ ơn (x Ps 50 [49]: 14, 23). Trong Bữa Tiệc Ly, để thiết lập bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu đă tạ ơn Cha Người (x Mt 26:26-27 và những đoạn Phúc Âm Nhất Lăm tương đương); đó là nguồn gốc cho tên gọi của bí tích này.
6. “Nơi hy tế Thánh Thể, toàn thể tạo vật Thiên Chúa yêu thương được hiến dâng lên Chúa Cha qua cuộc tử nạn và Phục Sinh của Chúa Kitô” (Giáo Lư của Giáo Hội Công Giáo, số 1359). Hiệp nhất ḿnh với hy tế của Chúa Kitô, Giáo Hội, qua bí tích Thánh Thể, vang lên lời chúc tụng của tất cả mọi tạo vật. Việc mọi tín hữu quyết tâm hiến dâng cuộc sống của ḿnh, “thân xác” của ḿnh, như Thánh Phaolô nói, như một “hy tế sống động, thánh hảo, đáng Thiên Chúa chấp nhận” (Rm 12:1), trong niềm hiệp thông trọn vẹn với Chúa Kitô, phải hợp với điều này. Như thế, chỉ có một sự sống duy nhất hiệp nhất Thiên Chúa với con người, đó là Chúa Kitô tử giá và phục sinh v́ tất cả chúng ta với người môn đệ được kêu gọi hoàn toàn hiến ḿnh cho Người.
Thi sĩ người Pháp Paul Claudel đă ca lên bản hát về mối hiệp thông yêu thương, khi đặt những lời sau đây vào môi miệng của Chúa Kitô: “Hăy đến với Ta, nơi Ta Hiện Hữu, ở trong bản thân con,/ và Ta sẽ trao cho con ch́a khóa vào sự sống./ Nơi nào Ta Hiện Hữu, ở nơi đó có bí mật đời đời về nguồn gốc của con.../ ... Đôi tay của con ở đâu mà không phải là của Ta? Và đôi chân của con lại không bị đóng đanh vào cùng một thập giá với Ta hay sao? Ta đă chết và sống lại một lần vĩnh viễn! Chúng ta rất gần gũi với nhau/... Con làm sao lại có thể tách ĺa khỏi Ta/ mà không làm tan nát trái tim Ta?” (La Messe là-bas).
(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ Tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 11/10/2000)
ĐTCGPII giảng dạy Giáo Lư trong Đại Năm Thánh 2000, bài 27, Thứ Tư 18/10/2000
1. “Chúng ta đă trở nên Chúa Kitô. V́ nếu Người là đầu và chúng ta là chi thể th́ Người và chúng ta hợp thành một con người hoàn toàn” (Thánh Âu-Quốc-Tinh, Tractatus in Joh., 21, 8). Những lời mạnh mẽ của Thánh Âu-Quốc-Tinh đă đề cao mối hiệp thông thân mật được thiết lập giữa Thiên Chúa và con người nơi mầu nhiệm Giáo Hội, một mối hiệp thông theo gịng lịch sử hành tŕnh của chúng ta được biểu hiệu tột đỉnh nơi bí tích Thánh Thể. Những lời truyền: “Các con hăy cầm lấy mà ăn... mà uống...” (Mt 26:26-27) Chúa Giêsu nói với các môn đệ trong căn thương lầu của một ngôi nhà ở Giêrusalem vào đêm cuối cùng cuộc sống trần gian của Người (x Mk 14:15) mang một ư nghĩa sâu xa. Giá trị biểu hiệu phổ quát của bữa tiệc được dọn ra với bánh và rượu (x Is 25:6) đă nói lên mối hiệp thông và t́nh thân mật ấy rồi vậy. Cũng c̣n có những yếu tố hiển nhiên khác đề cao Thánh Thể là bữa tiệc thân hữu và giao ước với Thiên Chúa nữa. Bởi v́, như Giáo Lư của Giáo Hội Công Giáo nhắc lại, “hy tế thập giá và bữa tiệc hiệp thông với ḿnh máu Chúa th́ đi đôi với nhau và bất khả phân ly nơi việc kéo dài tưởng niệm cuộc hy tế” (số 1382).
2- Như trong Cựu Ước, đền thánh di động trong sa mạc được gọi là “lều hội ngộ” thế nào, tức là lều Thiên Chúa và dân Ngài gặp gỡ nhau cũng là lều của anh em trong đức tin ở giữa họ, truyền thống Kitô giáo cổ thời cũng gọi việc cử hành Thánh Thể là “synaxis”, nghĩa là “hội ngộ” như vậy. Nơi việc cử hành Thánh Thể này, “bản tính nội tại của Giáo Hội được tỏ hiện, một bản tính cho thấy Giáo Hội là một cộng đồng của những ai được triệu tập lại để cử hành tặng ân của Đấng trao ban cũng là Đấng được dâng hiến, ở chỗ, khi tham dự vào Mầu Nhiệm Thánh, họ trở nên ‘họ hàng’ của Chúa Kitô, cảm nghiệm trước được việc thần linh hóa hiện hữu trong mối liên kết bất khả phân ly giữa thần tính và nhân tính nơi Chúa Kitô” (Orientale Lumen, 10).
Nếu chúng ta muốn suy nghĩ sâu xa hơn về ư nghĩa đích thực của mầu nhiệm hiệp thông này giữa Thiên Chúa và tín hữu, chúng ta phải hướng về những lời Chúa Giêsu nói trong Bữa Tiệc Ly. Những lời ấy ám chỉ về một thứ “giao ước” thánh kinh, được thực sự nhắc lại nhờ mối liên hệ giữa máu của Chúa Kitô và máu hy tế đổ ra trên núi Sinai: “Đây là máu giao ước của Thày” (Mk 14:24). Moisen đă nói: “Đây là máu giao ước” (Ex 24:8). Giao ước núi Sinai liên kết dân Yến Duyên với Chúa bằng mối giây máu huyết đă tiên báo trước một tân ước sẽ đưa đến – như các Giáo Phụ Hy Lạp diễn đạt – mối cận thân thực sự giữa Chúa Kitô và tín hữu (x Thánh Cyril of Alexandria, In Johannis Evangelium, XI; John Chrysostom, In Matthaeum Hom., LXXXII, 5).
3. Mối hiệp thông của tín hữu với Chúa Kitô trong bí tích Thánh Thể đặc biệt được đề cao nơi thần học của Thánh Gioan và Phaolô. Trong bài diễn từ tại hội đường Capernaum, Chúa Giêsu đă minh nhiên nói: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này sẽ sống muôn đời” (Jn 6:51). Toàn đoạn văn này cố ư nhấn mạnh đến mối hiệp thông trọng yếu được thiết lập trong đức tin, giữa Chúa Kitô, Bánh sự sống, với ai ăn Bánh ấy. Chúng ta đặc biệt thấy động từ menein theo tiếng Hy Lạp, nghĩa là “nội trú, cư ngụ”, một động từ tiêu biểu được Phúc Âm Thứ Bốn sử dụng để nói lên mối thân t́nh nhiệm mầu giữa Chúa Kitô và người môn đệ: “Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi th́ ở trong Tôi và Tôi ở trong họ” (Jn 6:56, x 15:4-9).
4. Thế rồi đến từ ngữ Hy Lạp koinonia, tức “hiệp thông”, được Thư Thứ Nhất gửi Giáo Đoàn Côrintô sử dụng, một bức thư trong khi nói về những bữa tiệc hiến tế của việc tôn thờ ngẫu tượng, được gọi là “bàn tiệc ma quỉ” (10:21), Thánh Phaolô cũng cho thấy nguyên tắc thực sự của tất cả mọi hy tế, đó là “Những ai ăn các của hy tế là những người dự phần vào bàn thờ” (10:18). Thánh Tông Đồ đă áp dụng nguyên tắc này một cách rơ ràng và triệt để vào bí tích Thánh Thể: “Chén chúc tụng chúng ta tôn vinh không phải là việc chúng ta thông phần vào (koinonia) máu của Chúa Kitô hay sao?... Bánh chúng ta bẻ ra th́ không phải là việc chúng ta thông phần vào (koinonia) thân ḿnh của Chúa Kitô hay sao?... Tất cả chúng ta đều dự phần cùng một tấm bánh duy nhất” (10:16-17). “Việc chia sẻ Thánh Thể, một bí tích Tân Ước, là tột đỉnh của việc chúng ta đồng hóa với Chúa Kitô, nguồn mạch của ‘sự sống trường cửu’, nguồn mạch và là quyền năng của việc hoàn toàn ban tặng bản thân ḿnh” (Thông Điệp Veritas Splendor, 21).
5. Việc hiệp thông với Chúa Kitô như thế làm phát sinh một cuộc biến đổi nội tâm nơi người tín hữu. Thánh Cyril Alexandria đă diễn tả rất hay về biến cố này, khi cho thấy âm vang của biến cố ấy trong đời sống cũng như trong lịch sử như thế này: “Chúa Kitô khuôn đúc chúng ta theo h́nh ảnh của Người, để những tính chất của bản tính thần linh nơi Người chiếu tỏa nơi chúng ta qua ơn thánh hóa, qua đức chính trực cũng như qua đời sống tốt lành xứng hợp với nhân đức. Vẻ đẹp của h́nh ảnh này chiếu tỏa nơi chúng ta, thành phần ở trong Chúa Kitô, khi chúng ta chứng tỏ ḿnh là người tốt qua các việc làm của ḿnh” (Tractatus ad Tiberum Diaconum Sociosque, II, Tesponsiones ad Tiberium Diaconum Sociosque, in In Divi Johannis Evangelium, vol. III, Brussels 1965, p. 590). “Bằng việc tham dự vào hy tế Thập Giá, người Kitô hữu dự phần vào t́nh yêu tự hiến của Chúa Kitô và được trang bị cũng như thôi thúc sống cùng một đức ái này qua tất cả mọi tâm tưởng và việc làm của họ. Việc Kitô hữu trung thành phục vụ cũng trở nên sáng tỏ và hiệu quả trong đời sống luân lư” (Thông Điệp Veritatis Splendor, 107). Việc trung thành phục vụ này được bắt nguồn từ Bí Tích Rửa Tội và nở hoa nơi mối hiệp thông Thánh Thể. Thế nên, con đường thánh thiện, yêu thương và chân lư là việc tỏ cho thế gian thấy mối thân mật giữa chúng ta với Thiên Chúa được thể hiện nơi bàn tiệc Thánh Thể.
Chúng ta hăy bộc phát ḷng ước vọng của ḿnh khao khát sự sống thần linh được ban phát nơi Chúa Kitô, bằng cung giọng trầm ấm của Gregory Narek (thế kỷ thứ 10), một đại thần học gia thuộc Giáo Hội Armenia: “Tôi luôn mong mỏi Đấng Hiến Ban chứ không phải là các tặng ân của Người. Tôi không hào hứng vinh quang mà là Đấng Hiển Vinh tôi mong được ấp ủ... Tôi không t́m kiếm nghỉ ngơi mà là dung nhan của Đấng ban cho tôi nghỉ ngơi tôi van xin Người. Tôi không mỏi ṃn về tiệc cưới mà là về ḷng khao khát của Vị Hôn Phu” (XII Prayer).
(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ
Tuần san L’Osservatore
Romano, ấn bản Anh ngữ, 25/10/2000)
ĐTCGPII giảng dạy Giáo Lư trong Đại Năm Thánh 2000, bài 28, Thứ Tư 25/10/2000
1. “Nơi phụng vụ trần gian, chúng ta được nếm trước việc thông phần vào phụng vụ thiên quốc” (Hiến Chế Sacrosanctum Concilium, 8; Hiến Chế Gaudium et Spes, 38). Những lời tỏ tường và thiết yếu này của Công Đồng Chung Vaticanô II đă cho chúng ta thấy chiều kích sâu xa của Bí Tích Thánh Thể, ở chỗ Thánh Thể là một “futurae gloriae pignus”, một bảo chứng của vinh quang mai hậu, như đă được truyền thống Kitô giáo tuyệt vời diễn đạt (x Hiến Chế Sacrodanctum Concilium, 47). Thánh Tôma Aquinas nhận định là “Bí tích này không làm cho chúng ta tham dự tức thời vào cuộc hiển vinh, nhưng ban cho chúng ta quyền năng để tiến tới vinh quang, bởi thế mới được gọi là viaticum” (Summa Theol., III, 79, 2, ad 1). Việc chúng ta được hiệp thông với Chúa Kitô hiện nay, trong khi c̣n là những người hành hương và lữ thữ trên các nẻo đường lịch sử, hướng chúng ta về cuộc gặp gỡ sau cùng vào ngày “chúng ta sẽ nên giống như Người, v́ chúng ta sẽ thấy Người như Người là” (1Jn 3:2). Việc Elia, vị tiên tri đă hoàn toàn lả người đi dưới chùm cây trong cuộc hành tŕnh băng qua sa mạc và đă được tăng sức nhờ bánh lạ cho đến khi ông tiến đến chóp đỉnh của cuộc gặp gỡ Thiên Chúa (x 1Kgs 19:1-8), là một biểu hiệu truyền thống tượng trưng cho cuộc hành tŕnh của Kitô hữu, thành phần t́m thấy sức mạnh nơi bánh Thánh Thể để tiến tới mục tiêu thành thánh sáng ngời.
2. Đó cũng là ư nghĩa sâu xa về manna được Thiên Chúa ban xuống tại các b́nh nguyên núi Sinai, một thứ “lương thực của các thiên thần”, ngon lành và hợp với mọi khẩu vị, một biểu lộ ngọt ngào của Thiên Chúa đối với con cái của Ngài (x Wis 16:20-21). Chính Chúa Kitô sẽ là Đấng làm sáng tỏ ư nghĩa thiêng liêng của biến cố Xuất Hành. Ngài là Đấng làm cho chúng ta nếm hưởng nơi Bí Tích Thánh Thể một mùi lưỡng vị vừa của lương thực cho cuộc hành hương vừa của lương thực viên trọn cứu độ trong cơi vĩnh cửu (x Is 25:6). Dựa theo lời phụng vụ của Ngày Hưu Lễ Do Thái, Thánh Thể là một “nếm hưởng vĩnh cửu trong thời gian” (A. J. Heschel). Như Chúa Kitô đă sống trong xác thịt song vẫn ở trong vinh quang của Con Thiên Chúa thế nào, th́ Thánh Thể cũng là việc hiện diện thần linh và siêu việt, một hiệp thông với cơi trường sinh, một dấu hiệu cho thấy “thành đô trần thế và thành đô thiên đ́nh thấu nhập lẫn nhau” (Hiến Chế Gaudium et Spes, 40). Bí Tích Thánh Thể, việc tưởng niệm Vượt Qua của Chúa Kitô, tự bản chất của ḿnh, chứa ẩn cơi trường sinh và bất tận nơi lịch sử loài người.
3. Khía cạnh này, một khía cạnh hướng Thánh Thể về tương lai của Thiên Chúa trong khi vẫn gắn liền Thánh Thể với thực tại hiện thời, được sáng tỏ bởi những lời Chúa Giêsu phán trên chén rượu trong Bữa Tiệc Ly (x Lk 22:20; 1Cor 11:25). Với những lời ấy, Thánh Marcô và Mathêu gợi lên cho thấy giao ước bằng máu của các tế vật trên núi Sinai (x Mk 14:24; Mt 26:28; Ex 24:8). Tuy nhiên, Thánh Luca và Phaolô lại tỏ cho thấy việc nên trọn của một “tân ước” được tiên tri Giêrêmia báo trước: “Này đây, Chúa phán, vào những ngày tới, Ta sẽ thiết lập một giao ước mới với nhà Yến Duyên và nhà Giuđa, không như giao ước Ta đă thiết lập với cha ông họ” (Jer 31:31-32). Đúng thế, Chúa Giêsu đă tuyên bố rằng: “Chén này là tân ước trong máu của Thày”. Theo ngôn từ kinh thánh “mới” đây thường có nghĩa là tiến bộ, là mức kiện toàn cuối cùng. Thánh Luca và Phaolô cũng nhấn mạnh rằng Thánh Thể là việc ngưỡng vọng về chân trời ánh sáng vinh quang của vương quốc Thiên Chúa. Trước Bữa Tiệc Ly Chúa Giêsu phán: “Thày mong ăn Lễ Vượt Qua này với các con trước khi Thày chịu khổ nạn, v́ Thày cho các con hay, Thày sẽ không ăn lễ ấy nữa cho tới khi nó được hoàn tất trong vương quốc của Thiên Chúa. Rồi Người cầm lấy chén, tạ ơn mà nói: ‘Các con hăy cầm lấy chén này mà chia nhau; v́ Thày cho các con biết, từ nay trở đi Thày sẽ không uống trái nho nữa cho tới khi vương quốc của Thiên Chúa trị đến’” (Lk 22:15-18). Thánh Phaolô c̣n rơ ràng nhắc đến bữa tiệc Thánh Thể có tính cách hướng đến việc Chúa đến lần cuối nữa: “Bao lâu anh em ăn bánh này và uống chén ấy là anh em loan báo việc Chúa tử nạn cho tới khi Người lại đến” (1Cor 11:26).
4. Thánh Gioan, Thánh Kư thứ bốn, đề cao chiều hướng Thánh Thể đối với việc nên trọn của vương quốc Thiên Chúa qua bài diễn từ nổi tiếng Chúa Giêsu nói tại hội đường Caphanaum về “bánh sự sống”. Biểu hiệu Người dùng, như một đối chiếu thánh theo kinh đă được chúng ta nhắc đến, là manna do Thiên Chúa ban cho dân Yến Duyên trong cuộc hành tŕnh qua sa mạc của họ. Chúa Giêsu đă long trọng tuyên bố về Bí Tích Thánh Thể là: “Ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời... Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi sẽ được sự sống trường sinh, và Tôi sẽ làm cho họ sống lại trong ngày sau hết... Đây là bánh từ trời xuống, không phải như thứ bánh cha ông quí vị đă ăn và đă chết; ai ăn bánh này sẽ muôn đời được sống” (Jn 6:51, 54, 58). Theo ngôn từ của Phúc Âm thứ bốn, “sự sống trường sinh” là chính sự sống thần linh vượt trên giới hạn của thời gian. Như thế, được hiệp thông với Chúa Kitô, Thánh Thể là việc thông phần vào sự sống của Thiên Chúa, một sự sống trường sinh và chế ngự sự chết. Thế nên Chúa Giêsu mới nói: “Ư của Đấng đă sai Tôi đó là Tôi không được làm mất đi một sự ǵ Ngài đă ban cho Tôi, song phải làm cho nó sống lại trong ngày sau hết. V́ ư Cha Tôi muốn là ai thấy Con và tin vào Người th́ được sự sống trường sinh; và Tôi sẽ làm cho họ sống lại vào ngày sau hết” (Jn 6:39-40).
5. Theo ư nghĩa ấy, như nhà thần học người Nga, Sergei Bulgakov, đă nói một cách gợi h́nh, “phụng vụ là trời cao trên đất”. V́ lư do này, trong Tông Thư Dies Domini, Tôi đă trích lại những lời của Đức Phaolô VI, để thúc giục Kitô hữu đừng xao lăng với “việc gặp gỡ này, với bữa tiệc Chúa Kitô đă ưu ái dọn ra cho chúng ta. Chớ ǵ việc chúng ta thông phần vào bữa tiệc này phải hết sức xứng đáng và hân hoan! Chính Chúa Kitô tử giá và vinh quang, Đấng đă đến giữa các môn đệ của Người, để dẫn mọi người họ cùng nhau tiến vào Cuộc Phục Sinh mới mẻ của Người. Trên thế gian này, đó là tuyệt đỉnh của giao ước yêu thương giữa Thiên Chúa với dân của Ngài, là dấu chỉ và là nguồn mạch của niềm vui Kitô hữu, là đoạn đường tiến đến lễ hội trường sinh” (số 58; x Gaudete in Domino, đoạn kết).
(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ Tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 1/11/2000)
THÁNH THỂ LÀ BÍ TÍCH HIỆP NHẤT CỦA GIÁO HỘI
ĐTCGPII giảng dạy Giáo Lư trong Đại Năm Thánh 2000, bài 29, Thứ Tư 8/11/2000
1- “Ôi bí tích của ḷng mộ mến! Ôi dấu hiệu của sự hiệp nhất! Ôi mối giây liên kết của đức bác ái!”. Câu Thánh Âu-Quốc-Tinh than lên khi chú giải Phúc Âm Thánh Gioan (In Joannis Evangelium, 26, 13) đă đánh trúng vào đề tài cũng như đă tóm lược những lời Thánh Phaolô ngỏ cùng giáo đoàn Corintô mà chúng ta vừa nghe: “Bởi chỉ có một tấm bánh, chúng ta tuy nhiều song cũng chỉ là một thân thể duy nhất, v́ tất cả chúng ta cùng thông phần vào cùng một tấm bánh” (1Cor 10:17). Thánh Thể là bí tích và là nguồn mạch cho sự hiệp nhất của Giáo Hội. Điều này đă được chú trọng từ những thời truyền thống Kitô Giáo bắt đầu, cũng là điều đă được biểu hiệu nơi bánh và rượu. Cuốn Didache, một bản văn được viết ngay từ thuở Kitô Giáo khai mở, đă nói về điều này như sau: “Tấm bánh bẻ ra này, trước hết đă được gieo văi trên các núi đồi, sau đó được gặt hái để trở thành một thực tại duy nhất thế nào, th́ Giáo Hội của Chúa cũng được qui tụ lại từ tận cùng trái đất vào trong vương quốc của Chúa như vậy” (9, 1).
2. Vào thế kỷ thứ ba, Thánh Cyprianô, vị Giám Mục ở Căn-Thạc, đă vang vọng lại những lời ấy thế này: “Chính những lễ tế hiến dâng lên Chúa đă làm sáng tỏ sự nhất trí của Kitô hữu, một sự nhất trí được kiên cường bởi một đức bác ái vững chắc và bất khả phân chia. V́ khi Chúa muốn bánh làm nên thân ḿnh Người được h́nh thành bởi việc nên một của nhiều hạt lúa miến, cũng như khi Người muốn rượu được ép từ nhiều trái nho ḥa hợp lại thành máu của Người thế nào, th́ Người cũng muốn đàn chiên chúng ta làm nên một khối đông hiệp nhất với nhau như vậy” (Ep. ad Magnum, 6). Tính cách biểu hiệu của Thánh Thể cho mối hiệp nhất nơi Giáo Hội thường được các Giáo Phụ và các nhà thần học Kinh Viện nhắc lại. “Công Đồng Chung Tridentinô đă tóm tắt tín lư này, khi dạy rằng Chúa Cứu Thế đă để lại Thánh Thể cho Giáo Hội của Người ‘như là một biểu hiệu cho sự hiệp nhất của Giáo Hội cũng như cho đức bác ái là những ǵ Người muốn tất cả mọi Kitô hữu phải hiệp nhất với nhau; chính v́ thế, Thánh Thể c̣n là biểu hiệu cho thân ḿnh duy nhất có Người là đầu này nữa’” (Đức Phaolô VI, Thông Điệp Mầu Nhiệm Đức Tin: Ench. Vat., 2, 424; x. Công Đồng Chung Triđentinô, Sắc Lệnh về Bí Tích Thánh Thể, phần mở đầu và chương hai). Giáo Lư của Giáo Hội Công Giáo đă tóm gọn điều này rất hay: “Những ai lănh nhận Bí Tích Thánh Thể th́ được hiệp nhất với Chúa Kitô chặt chẽ hơn. Nhờ Bí Tích Thánh Thể, Chúa Kitô hiệp nhất họ lại với tất cả mọi tín hữu để làm nên một thân thể duy nhất là Giáo Hội” (Giáo Lư của Giáo Hội Công Giáo số 1396).
3. Khoản tín lư truyền thống này đă được bắt nguồn sâu xa từ trong Kinh Thánh. Thánh Phaolô đă khai triển khoản tín lư này trong đoạn thư đă được trích dẫn từ Thư Thứ Nhất gửi giáo đoàn Côrintô, khi lấy vấn đề koinonia làm đề tài căn bản, tức là đề tài về mối hiệp thông được thiết lập giữa người tín hữu và Chúa Kitô trong Bí Tích Thánh Thể. “Chén ân phúc mà chúng ta chúc tụng không phải là việc thông hiệp (koinonia) vào máu của Chúa Kitô hay sao? Tấm bánh chúng ta bẻ ra không phải là việc thông hiệp (koinonia) vào ḿnh Chúa Kitô hay sao?” (10:16). Mối hiệp thông này, trong Phúc Âm Thánh Gioan, c̣n được diễn tả xác đáng hơn nữa, như là một mối liên hệ ngoại thường của “cuộc tương giao nội tại”: “họ ở trong Tôi và Tôi ở trong họ”. Thật vậy, Chúa Giêsu đă phán như thế ở hội đường Caphanaum: “Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi th́ ở trong Tôi và Tôi ở trong họ” (Jn 6:56).
Trong những lời Chúa Giêsu nói ở Bữa Tiệc Ly th́ đó là một đề tài cũng đă được nhấn mạnh qua biểu hiệu của cây nho, ở chỗ, cành nho có xanh tươi và sai trái chỉ khi nào nó được gắn liền với thân nho là nơi tiếp nhựa và trợ sức cho nó (Jn 15:1-7). Bằng không, nó chỉ là một cành khô héo bị ném vào lửa: aut vitis aut ignis “một là cây nho hai là lửa đốt”, Thánh Âu-Quốc-Tinh đă vắn tắt dẫn giải như thế (In Johannis Evangelium, 81, 3). Đến đây, chúng ta thấy được mối hiệp nhất, một mối hiệp thông được hiện thực giữa người tín hữu và Chúa Kitô hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể, căn cứ vào nguyên tắc theo như Thánh Phaolô diễn đạt là: “Những ai ăn uống những của tế lễ ấy là những người thông phần vào bàn thờ” (1Cor 10:18).
4. V́ kiểu koinonia-hiệp thông “hàng dọc” này làm cho chúng ta nên một với mầu nhiệm thần linh, do đó, nó đồng thời cũng làm phát sinh ra một thứ koinonia-hiệp thông mà chúng ta gọi là theo “hàng ngang”, hay theo giáo hội, theo t́nh huynh đệ, một kiểu hiệp thông có thể hiệp nhất tất cả những ai thông phần vào cùng một tấm bánh duy nhất” (1Cor 10:17). Bài diễn từ về Thánh Thể mở đường cho việc suy tư quan trọng về giáo hội được Thánh Tông Đồ khai triển ở đoạn 12 của cùng một Bức Thư, khi ngài nói về thân thể của Chúa Kitô theo tính cách duy nhất và đa diện của thân thể này. Lời diễn tả quá quen thuộc của Thánh Luca trong Sách Tông Vụ về Giáo Hội Giêrusalem cũng đă vạch ra cho thấy mối hiệp nhất hay koinonia huynh đệ này, khi ngài liên kết nó với việc bẻ bánh, tức là với việc cử hành Thánh Thể (x Acts 2:42). Mối hiệp thông này được hiện thực nơi thực tại lịch sử cụ thể, ở chỗ “họ tha thiết với giáo huấn của các Tông Đồ cũng như với việc hiệp thông (koinonia), với việc bẻ bánh và các lời cầu nguyện... Tất cả những ai tin tưởng th́ tụ họp lại với nhau và để tất cả mọi sự làm của chung” (Acts 2:42-44)
5. Như thế, ư nghĩa sâu xa của Bí Tích Thánh Thể sẽ bị loại trừ một khi cử hành Thánh Thể mà không chú trọng đến những đ̣i hỏi của đức bác ái cũng như của sự hiệp thông. Thánh Phaolô tỏ ra nghiêm ngặt với Kitô hữu Côrintô là v́, khi hội họp nhau th́ “anh em đă không dùng bữa của Chúa” (1Cor 11:20), gây ra bởi chia rẽ nhau, bất chính và vị kỷ. Trong trường hợp như thế, Thánh Thể không c̣n là agape nữa, tức không c̣n là diễn đạt và là nguồn mạch của t́nh yêu nữa. Và ai thông phần Thánh Thể một cách bất xứng, không sinh hoa kết trái trong t́nh bác ái huynh đệ, th́ người đó “ăn và uống án phạt ḿnh” (1Cor 11:29). “Thật vậy, đời sống Kitô hữu được thể hiện trong việc làm trọn giới răn cao cả nhất, tức là giới răn kính mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân, mà t́nh yêu này lại bắt nguồn từ Bí Tích Thánh Thể, thường được gọi là bí tích yêu thương” (Tông Thư Dominicae Cenae, 5). Thánh Thể nhắc nhở, hiện thực và hoàn trọn đức bác ái này.
Vậy chúng ta hăy đáp lại lời kêu gọi của vị Giám Mục tử đạo Ignatiô, người đă khuyến dụ tín hữu Philadelphia ở Tiểu Á về sự hiệp nhất là: “Chỉ có một Vị Giám Mục thế nào th́ cũng chỉ có một nhục thể của Chúa Giêsu Kitô, chỉ có một chén duy nhất trong máu của Người, chỉ có một bàn thờ như vậy” (Ep. ad Philadelphenses, 4). Rồi chúng ta hăy cầu cùng Thiên Chúa là Cha bằng lời kinh phụng vụ: “Xin Cha ban cho chúng con, những người được nuôi dưỡng bằng ḿnh và máu của Người, được tràn đầy Thánh Linh của Người, và được trở nên một thân thể, một tinh thần trong Chúa Kitô” (Kinh Nguyện Thánh Thể III).
(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ Tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 15/11/2000)
LỜI CHÚA, THÁNH THỂ VÀ VIỆC KITÔ HỮU PHÂN RẼ
ĐTCGPII giảng dạy Giáo Lư trong Đại Năm Thánh 2000, bài 30, Thứ Tư 15/11/2000
1. Trong chương tŕnh Năm Mừng Kỷ Niệm này, chúng ta không thể nào bỏ qua chiều kích đối thoại đại kết và liên tôn, như Tôi đă đề cập đến trước đây trong Tông Thư Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến (xem các số 53 và 55). Chiều hướng Chúa Ba Ngôi và Thánh Thể chúng ta khai triển ở các bài giáo lư trước đến đây thúc đẩy chúng ta suy nghĩ về khía cạnh này, trước hết bằng việc xét lại tất cả vấn đề phục hồi t́nh trạng hiệp nhất giữa Kitô hữu với nhau. Chúng ta làm việc này theo ư nghĩa của đoạn Phúc Âm về các môn đệ trên đường đi Emmau (x Lk 24:13-35), khi nhận thấy rằng hai người môn đệ ĺa bỏ cộng đồng của họ này đă bị thôi thúc quay ngược hướng đi để tái nhận thức được cộng đồng của ḿnh.
2. Hai người môn đệ ấy đă quay lưng lại với nơi Chúa Giêsu tử giá, v́ biến cố ấy đă làm cho họ hinh hoàng thất vọng. Chính v́ lư do này mà họ đă ĺa bỏ các môn đệ khác và thực sự quay về với cá nhân chủ nghĩa. “Họ đă nói với nhau về tất cả những ǵ xẩy ra” (Lk 24:14) mà không hiểu ǵ về ư nghĩa của những điều ấy. Họ không nhận ra rằng Chúa Giêsu đă chết “để qui tụ con cái Thiên Chúa bị phân tán trở về” (Jn 11:52). Họ chỉ thấy khía cạnh tiêu cực khiếp đảm của thập giá là những ǵ hủy hoại niềm hy vọng của họ: “Chúng tôi hy vọng Người là Đấng cứu thoát Yến Duyên” (Lk 24:11). Chúa Giêsu phục sinh đă đến bước đi bên cạnh họ, “nhưng mắt họ không nhận ra Người” (Lk 24:16), v́ họ lúc ấy đang bị mịt mù tăm tối hơn bao giờ hết về phương diện tâm linh. Bấy giờ Chúa Giêsu đă tỏ ra hết sức nhẫn nại để gắng mang họ về lại với ánh sáng đức tin bằng một bài giáo lư thánh kinh dài: “Bắt đầu từ Moisen và tất cả các tiên tri, Người đă dẫn giải cho họ biết những ǵ liên quan đến bản thân Người nơi toàn bộ Sách Thánh” (Lk 24:27). Ḷng họ bắt đầu bừng nóng (x Lk 24:32). Họ xin người bạn đường lạ lùng ấy ở lại với họ. “Khi ngồi vào bàn với họ, Người cầm lấy bánh, chúc tụng và bẻ ra trao cho họ. Bấy giờ mắt họ mở ra và họ nhận ra Người; song Người biến khuất đi trước mắt họ” (Lk 24:30-31). Nhờ lời dẫn giải rơ ràng về các Sách Thánh, họ đă đi từ t́nh trạng lờ mờ chẳng hiểu ǵ đến ánh sáng đức tin để có thể nhận ra Chúa Kitô phục sinh “nơi việc bẻ bánh” (Lk 24:35).
Tác hiệu của việc đổi thay sâu xa này đă trở thành động lực thúc đẩy họ quyết định trở về Giêrusalem ngay để hợp lại với “Mười Một Vị đang hội họp nhau và những người đang ở với các vị” (Lk 24:33). Cuộc hành tŕnh đức tin đă đưa đến việc hiệp nhất huynh đệ.
3. Mối liên kết giữa việc dẫn giải Lời Chúa với Bí Tích Thánh Thể cũng được nhắc đến ở những phần khác trong Tân Ước. Thánh Gioan, nơi Phúc Âm của ḿnh, đă nối kết lời Chúa với Thánh Thể, như trong đoạn tŕnh thuật ở Caphanaum, thánh kư cho thấy Chúa Giêsu nhắc lại tặng ân manna trong sa mạc và Người đă giải thích tặng ân này theo chủ yếu về Thánh Thể (x Jn 6:32-58). Nơi Giáo Hội Giêrusalem, việc chuyên chú lắng nghe didache, tức lắng nghe giáo huấn của các tông đồ giảng dạy theo Lời Chúa, đă được xẩy ra trước việc thông phần vào việc “bẻ bánh” (Acts 2:42). Ở thành Troa, khi Kitô hữu tụ họp nhau lại với Thánh Phaolô “để bẻ bánh”, Thánh Luca thuật lại rằng việc tụ họp này được bắt đầu với một bài nói dài của Thánh Tông Đồ (x Acts 20:7), một bài nói chắc chắn nhắm đến việc bồi dưỡng đức tin, đức cậy và đức mến của họ. Tất cả những điều này đă rơ ràng cho thấy rằng việc hiệp nhất trong đức tin là điều kiện cần thiết cho việc thông phần chung vào Bí Tích Thánh Thể.
Nơi Phụng Vụ Lời Chúa và Phụng Vụ Thánh Thể, như Công Đồng Chung Vaticanô II nhắc nhở chúng ta, bằng việc trích lại lời của Thánh Gioan Chrysostom (In John Homily, 46), “tín hữu hiệp nhất với vị giám mục của ḿnh có thể tiến đến cùng Thiên Chúa là Cha, qua Con là Lời hóa thành nhục thể đă chịu khổ nạn và phục sinh, trong việc tuôn đổ của Chúa Thánh Thần. Như thế, nhờ trở thành ‘tham dự viên với bản tính thần linh’ (2Pt 1:4), họ được hiệp thông với Ba Ngôi chí thánh. Bởi vậy, qua việc cử hành Thánh Thể Chúa nơi mỗi một Giáo Hội này, Hội Thánh Chúa được dựng xây và tăng triển tầm vóc, và qua việc đồng cử hành, họ cho thấy mối hiệp thông giữa họ với nhau” (Sắc Lệnh về Hiệp Nhất Unitatis Redintegratio, 15). Như thế, việc liên kết với mầu nhiệm hiệp nhất thần linh này làm phát sinh mối hiệp thông và t́nh yêu thương giữa những ai ngồi chung với nhau cùng một bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể. Bàn tiệc duy nhất này là dấu hiệu và là biểu hiệu nói lên cho thấy sự hiệp nhất nên một. “Thế nên việc hiệp thông Thánh Thể liên kết bất khả phân ly với mối hiệp thông giáo hội và là biểu hiệu hữu h́nh của mối hiệp thông giáo hội này” (Bản Hướng Dẫn để Áp Dụng các Nguyên Tắc và Qui Luật về Đại Kết, 1993, đoạn 129)
4. Theo chiều hướng này, chúng ta có thể hiểu được tại sao việc chia rẽ nhau về tín lư giữa các môn đệ của Chúa Kitô, thành phần vào nhóm với nhau thành những Giáo Hội và những Cộng Đồng Giáo Hội khác biệt, đă giới hạn việc thông phần bí tích cách trọn vẹn. Tuy nhiên, Bí Tích Rửa Tội là gốc rễ sâu xa cho mối hiệp nhất căn bản này, một mối hiệp nhất căn bản liên kết Kitô hữu với nhau, bất kể việc phân rẽ của họ. Bởi vậy, cho dù thành phần Kitô hữu c̣n ly khai không được tham phần vào cùng một Bí Tích Thánh Thể, vẫn có thể, trong một số trường hợp đặc biệt theo qui định của Bản Hướng Dẫn Đại Kết, đưa vào việc cử hành Thánh Thể một số dấu hiệu tham dự nào đó cho thấy việc hiệp nhất vốn có và hướng đến mối hiệp thông trọn vẹn của các Giáo Hội nơi bàn tiệc Lời Chúa cũng như bàn tiệc Ḿnh Máu Chúa. Theo đó, “vào một số trường hợp ngoại lệ có lư do chính đáng, Giám Mục của một Giáo Phận có thể cho phép phần tử của một Giáo Hội khác hay của một Cộng Đồng Giáo Hội đóng vai tṛ đọc sách” trong khi cử hành Thánh Thể theo Giáo Hội Công Giáo (số 133). Cũng thế, “bất cứ khi nào nhu cầu đ̣i hỏi hay có những lợi ích thiêng liêng đích thực, miễn là tránh được mối nguy hại sai lạc hay coi thường“, th́ được phép thực hiện một số tương quan nào đó đối với các bí tích Thống Hối, Thánh Thể và Xức Dầu Kẻ Liệt giữa người Công Giáo và Kitô Hữu Đông Phương (các số 123-131).
5. Tuy nhiên, cây hiệp nhất phải phát triển cho tới tầm vóc trọn vẹn của nó, như Chúa Kitô đă nguyện xin trong lời cầu trọng đại của Người ở Căn Thượng Lầu, lời cầu đă được công bố để mở đầu cho cuộc họp của chúng ta nơi đây (x Jn 17:20-26; Sắc Lệnh về Hiệp Nhất, 22). Những giới hạn đối với mối liên hiệp thông vào bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể phải trở thành một lời mời gọi các Giáo Hội thanh tẩy, đối thoại và tiến bộ trong việc đại kết. Chúng là những giới hạn khiến chúng ta càng cảm thấy mạnh mẽ hơn đối với tính cách nặng nề của việc chúng ta chia rẽ nhau và phản khắc với nhau nơi chính việc cử hành Thánh Thể. Như thế, Thánh Thể là một thách đố cũng là một lệnh truyền ở nơi chính tâm điểm của Giáo Hội để nhắc nhở chúng ta về ước vọng tha thiết cuối cùng Chúa Kitô mong muốn là “cho họ được nên một” (Jn 17:11,21).
Giáo Hội không được trở thành một thân thể có những phần tử chia rẽ và khổ đau, song phải là một cơ thể sống động mạnh mẽ và tiến tới, một cơ thể được bảo dưỡng bởi bánh thần linh như nơi h́nh ảnh cuộc hành tŕnh của tiên tri Êlia (x 1Kgs 19:1-8), tiến lên cho tới chót đỉnh của cuộc gặp gỡ tối hậu với Thiên Chúa. Cuối cùng sẽ là thị kiến theo Sách Khải Huyền cho thấy: “Và tôi thấy thành thánh là tân Giêrusalem từ trời nơi Thiên Chúa mà xuống, trang điểm như cô dâu nghênh đón phu quân của ḿnh” (Rev 21:2).
(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ Tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 22/11/2000)