CN LỄ MÌNH MÁU THÁNH CHÚA



BÀI ĐỌC I: Gen 14:18-20

“Ông mang bánh và rượu tới”
Bài trích sách Sáng Thế.

Trong những ngày ấy, Melkisêđê là vua thành Salem, đem bánh và rượu tới, vì ông là thượng tế của Thiên Chúa Tối Cao, ông chúc phúc cho Abraham rằng:"Xin Thiên Chúa Tối Cao là Đấng tạo thành trời đất chúc phúc cho Abram, và đáng chúc tụng thay Thiên Chúa Tối Cao, vì nhờ Người che chở, quân thù đã rơi vào tay ông”. Và Abram dâng cho ông một phần mười tất cả chiến lợi phẩm.

Lời của Chúa.


Đáp Ca: (Xin mời Cộng đoàn thưa)

Con là Thượng tế tới muôn đời theo phẩm hàm Melkisêđê.

1.      Thiên Chúa đã ban bố cùng Chúa tôi rằng: “Con hãy ngồi bên hữu Ta, cho tới khi Ta bắt quân thù làm bệ kê dưới chân Con”.

2.      Đức Thiên Chúa từ Sion sẽ phô bày vương trượng quyền bính của Ngài rằng: “Con hãy thống trị giữa quân thù”.

3.      Các thủ lãnh cùng hiện diện bên Con, ngày Con giáng sinh trong thánh thiện huy hoàng: “Trước rạng đông, tợ hồ sương sa, Ta đã sinh hạ ra Con”.

4.      Đức Thiên Chúa đã thề và không hối hận rằng: “Con là Thượng tế tới muôn đời theo phẩm hàm Melkisêđê”.


BÀI ĐỌC II: 1 Cor 11:23-26

“Mỗi khi anh em ăn và uống anh em loan truyền việc Chúa chịu chết”
Bài trích thơ thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, phần tôi, tôi đã lãnh nhận nơi Chúa điều mà tôi đã truyền lại cho anh em, là Chúa Giêsu trong đêm bị nộp, Người cầm lấy bánh và tạ ơn, bẻ ra và phán: “Các con hãy nhận mà ăn, nầy là Mình Ta, sẽ bị nộp vì các con: Các con hãy làm việc nầy mà nhớ đến Ta”. Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén và phán: “Chén nầy là Tân ước trong Máu Ta; mỗi khi các con uống, các con hãy làm việc nầy mà nhớ đến Ta”. Vì mỗi khi anh em ăn bánh và uống chén nầy, anh em loan truyền việc Chúa chịu chết, cho tới khi Chúa lại đến.

Lời của Chúa.


(Xin mời Cộng đoàn đứng)
Alleluia, alleluia. — Chúa phán: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh nầy, thì sẽ sống muôn đời đời. — Alleluia.


PHÚC ÂM: Lc 9:11b-17

“Tất cả đều ăn no nê”
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với dân chúng về nước Thiên Chúa và chữa lành những kẻ cần được cứu chữa. Vậy khi đã xế chiều, nhóm mười hai đến thưa Người rằng: “Xin Thầy giải tán dân chúng, để họ đi vào trong các làng mạc và trại quanh đây mà trú ngụ và kiếm thức ăn, vì chúng ta đang ở nơi hoang địa”. Nhưng Người nói với các ông: “Các con hãy cho họ ăn đi”. Các ông trả lời: “Chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá, trừ phi chúng con phải đi mua thức ăn cho cả đám đông nầy. Số đàn ông độ năm ngàn”. Người nói với các môn đệ rằng: “Hãy cho họ ngồi xuống từng nhóm độ năm mươi người. Các ông đã là như thế, và bảo tất cả ngồi xuống. Chúa Giêsu cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, nhìn lên trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và phân phát cho các môn đệ để các ông dọn ra cho dân chúng. Tất cả đều ăn no nê, và người ta thu lượm được mười hai thúng miếng vụn còn dư lại.

Phúc Âm của Chúa.

 

Sống Lời Chúa Hôm Nay


 

 

 

“Toàn thể lịch sử của Thiên Chúa với loài người được tóm gọn lại nơi những lời ấy”

 

(Đức Thánh Cha Biển Đức XVI: Bài Giảng Lễ Trọng Kính Mình máu Thánh Chúa Kitô 15/6/2006 tại Quảng Trường Đền Thờ Latêranô Rôma)

 

Anh Chị Em thân mến,

 

Vào tối áp cuộc khổ nạn của mình, trong bữa Vượt Qua, Chúa Kitô đã cấm lấy bánh trong tay mình – như chúng ta đã vừa mới nghe cách đây ít lâu trong đoạn Phúc Âm – và, sau khi làm phép, Người bẻ ra và trao cho các môn đệ mà phán: ‘Các con hãy cầm lấy mà ăn, này là mình Thày’. Đoạn Người cầm lấy chén, tạ ơn và trao cho các vị và tất cả các vị đều uống chén ấy. Người phán: ‘Đây là máu của Thày, máu giao ước, được đổ ra cho nhiều người’ (Mk 14:22-24). 

 

Toàn thể lịch sử của Thiên Chúa với loài người được tóm gọn lại nơi những lời ấy. Không phải chỉ có quá khứ mới được nói tới và được giải thích, mà cả tương lai cũng được ngưỡng vọng nữa – đó là việc Vương Quốc của Thiên Chúa trị đến trên thế giới này. Những gì Chúa Giêsu nói không phải là những lời lẽ đơn giản tầm thường. Những gì Người nói là một biến cố, một biến cố chính yếu nơi lịch sử của thế giới và của đời sống riêng tư của chúng ta.

 

Những lời này là những lời bất khả thấu tận. Vào lúc này đây, tôi xin suy niệm với anh chị em về chỉ một khía cạnh duy nhất. Chúa Giêsu đã chọn bánh và rượu để làm như là dấu hiệu hiện diện của Người. Bằng mỗi một dấu hiệu này, Người hoàn toàn hiến ban chính mình Người, chứ không phải chỉ từng phần. Đấng Phục Sinh là Đấng không bị phân chia. Người là một ngôi vị, nhờ các dấu hiệu, đến gần với chúng ta hơn và liên kết chúng ta với chính mình Người.

 

Tuy nhiên, mỗi một dấu hiệu, theo cách thế riêng của mình, tiêu biểu cho một khía cạnh đặc biệt về mầu nhiệm của Người, và qua việc biểu lộ xứng hợp của mình, muốn nói với chúng ta để chúng ta hiểu được mầu nhiệm về Chúa Giêsu Kitô khá hơn chút nữa.

 

Trong cuộc rước kiệu và chầu Chúa, chúng ta nhìn lên Tấm Bánh đã được thánh hiến, một hình thức bánh và dưỡng chất đơn sơ thanh đạm nhất, được làm nên bởi một ít bột và nước. Nhờ đó, tấm bánh trở thành như là lương thực của người nghèo, thành phần Chúa Kitô gắn bó nhất.

 

Lời nguyện được Giáo Hội trong phụng vụ Thánh Lễ hiến dâng tấm bánh ấy lên Chúa, định phẩm nó như là hoa mầu của trái đất và lao công của con người. 

 

Nó bao gồm lao công của con người, việc làm hằng ngày của những ai canh tác trái đất, gieo trồng và gặt hái (lúa miến), và sau hết là việc làm bánh. Tuy nhiên, bánh không phải thuần túy và chỉ là những gì chúng ta sản xuất, những gì chúng ta làm được; nó là hoa trái của trái đất và vì thế cũng là tặng vật nữa.

 

Chúng ta không thể kể công về sự kiện trái đất trổ sinh hoa trái; chỉ có một mình Đấng Hóa Công mới có thể làm cho nó thành mầu mỡ. Và giờ đây chúng ta cũng có thể nới thêm một chút nữa thế này vào lời nguyện cầu này của Giáo Hội, đó là Bánh này là hoa trái của trời cao và trái đất. Nó bao gồm việc hợp lại giữa các năng lực của trái đất cùng với những tặng ân từ trên cao, tức là của mặt trời và mưa gió. Cả nước nôi nữa, yếu tố chúng ta cần để làm bánh, yếu tố chúng ta không thể nào làm nên.

 

Trong một giai đoạn vấn đề sa mạc hóa được nói đến và là giai đoạn chúng ta nghe thấy thời điểm và một lần nữa nghe thấy cảnh giác là con người cùng hoang thú đang có nguy cơ bị chết khát nơi những miền không có nước ấy – trong một giai đoạn như vậy chúng ta mới nhận thức một lần nữa rằng tặng ân nước thì to tát biết bao, và tại sao chúng ta không thể tự mình sản xuất được nó.

 

Bởi vậy, nhìn kỹ vào miếng Bánh Thánh trắng nhỏ này, tấm bánh của người nghèo, chúng ta thấy được một thứ tổng hợp của thiên nhiên tạo vật. Trời và đất nữa, như hoạt động và tinh thần của con người, hợp tác với nhau. Cái tác hợp của các quyền lực làm cho mầu nhiệm về sự sống và việc hiện hữu của con người trở thành khả dĩ trên hành tinh của chúng ta đây đến gặp gỡ chúng ta nơi tất cả những gì là cao cả uy nghi vĩ đại.

 

Như thế chúng ta bắt đầu hiểu được lý do tại sao Chúa đã chọn miếng bánh ấy để làm tiêu biểu cho Người. Thiên nhiên tạo vật, với tất cả những tặng ân của nó, khao khát một cái gì đó thậm chí lớn lao hơn nữa, bên trên chính nó và vượt trên chính nó. Bên trên và vượt trên sự tổng hợp của những năng lực nơi chính nó, bên trên và vượt trên sự tổng hợp cũng của cả thiên nhiên lẫn thần trí mà, ở một góc độ nào đó, chúng ta, nơi tấm bánh, khám phá ra thiên nhiên tạo vật được định phóng hướng tới việc thần linh hóa, hướng tới một cuộc hôn lễ thánh hảo, hướng tới một cuộc hiệp nhất với chính Đấng Tạo Thành.

 

Tuy nhiên, chúng ta vẫn chưa cắt nghĩa sâu xa sứ điệp của dấu hiệu bánh này. Chúa Kitô đã đề cập tới mầu nhiệm sâu xa nhất của nó vào Chúa Nhật Lễ Lá, khi có một số người Hy Lạp yêu cầu được gặp Người. Trong lời Người trả lời cho vấn đề này có câu: ‘Thật vậy, thật vậy, Tôi nói cho quí vị biết, trừ phi hạt lúa miến rơi xuống đất có chết đi, bằng không nó vẫn còn nguyên; thế nhưng, nếu nó có thối nát đi, nó mới sinh nhiều hoa trái’ (Jn 12:24).

 

Mầu nhiệm của Cuộc Khổ Nạn được dấu ẩn nơi tấm bánh thành nên bởi hạt lúa đất đai. Bột, hạt lúa đất đai, biểu hiệu cho cái chết đi và phục hồi của hạt thóc này. Nơi việc được gieo trên đất và bị nung nướng, nó mang nơi mình một lần nữa cũng cái mầu nhiệm Khổ Nạn ấy. Chỉ nhờ cái chết mới có phục sinh thế nào thì hoa trái và sự sống mới cũng thế.

 

Văn hóa ở miền Địa Trung Hải, ở vào những thế kỷ trước Chúa Kitô, đã có một trực giác sâu xa về mầu nhiệm này. Dựa trên cái kinh nghiệm về cái chết và phục hồi ấy, họ đã tạo nên những huyền thoại về thần linh là những gì đã hiến ban sự sống mới bằng việc chết đi và sống lại. Đối với họ, chu kỳ của thiên nhiên dường như một lời hứa hẹn thần linh ở giữa cái tối tăm của khổ đau và chết chóc mà chúng ta phải đương đầu.

 

Nơi những huyền thoại này, linh hồn của con người, một cách nào đó, đã hướng tới việc Thiên Chúa đã làm người, vị mà, hủy thân cho đến chết trên thập tự giá, dể mở cửa sự sống cho tất cả chúng ta. Nơi bánh và việc làm bánh, con người đã hiểu nó như là một giai đoạn đợi chờ của thiên nhiên, như một lời hứa hẹn nơi thiên nhiên là điều này sẽ xẩy ra, đó là Vị Thiên Chúa chết đi để nhờ đó mang chúng ta tới sự sống.

 

Những gì được đợi trông nơi những huyền thoại ấy và những gì được chất chứa nơi chính hạt lúa miến như là dấu hiệu cho niềm hy vọng của thiên nhiên tạo vật – thì đều thực sự xẩy ra nơi Chúa Kitô. Qua cái cuộc khổ nạn và tử nạn nhưng không của Người, Người đã trở thành bánh cho tất cả chúng ta, và nhờ đó trở thành niềm hy vọng sống động vững vàng. Người hỗ trợ chúng ta nơi tất cả mọi khổ đau cho chết chúng ta. Con đường Người hành trình với chúng ta, nhờ đó, Người dẫn chúng ta tới sự sống là những con đường của niềm hy vọng.

 

Nơi việc chầu Chúa, khi chúng ta nhìn vào Tấm Bánh được thánh hiến, thì dấu hiệu của thiên nhiên tạo vật này là những gì nói với chúng ta. Bởi vậy, chúng ta gặp được cái cao cả của tặng ân Người; thế nhưng chúng ta cũng gặp được cả cuộc khổ nạn, thập giá của Chúa Giêsu cùng với cuộc phục sinh của Người. Nơi ánh mắt tôn thờ này, Người lôi kéo chúng ta đến với Người, trong mầu nhiệm của Người, nhờ đó, Người biến đổi chúng ta như Người đã biến đổi Bánh Thánh.

 

Giáo Hội sơ khai cũng đã khám phá ra một biểu hiệu khác nơi tấm bánh. Tín Điều của 12 Tông Đồ, một cuốn sách được viết vào khoảng năm 100, chất chứa nơi những lời nguyện cầu của mình niềm xác tín rằng: ‘Cho dù như tấm bánh được bẻ ra này bị phân tán khắp các đồi núi, và được qui tụ lại với nhau nên một, thì xin cho Giáo Hội của Chúa cũng được qui tụ lại với nhau từ cùng tận trái đất nơi Vương Quốc của Chúa’ (IX, 4).

 

Tấm bánh được làm nên bởi nhiều hạt lúa miến cũng chất chứa một biến cố hiệp nhất nữa. Hạt lúa miến đất đai trở thành bánh là một tiến trình nên một. Chính chúng ta, tuy nhiều, cần phải trở thành một tấm bánh duy nhất, một thân thể duy nhất, như Thánh Phaolô nói (x 1Cor 10:17). Như thế, dấu hiệu bánh trở thành cả niềm hy vọng lẫn sự viên trọn.

 

Dấu hiệu rượu nho nói với chúng ta cũng giống y như thế. Tuy nhiên, trong khi bánh nói về cuộc sống hằng ngày, về tính cách giản dị và hành trình, thì rượu diễn đạt nét trang nhã thanh tú của thiên nhiên tạo vật, đó là lễ hội của niềm vui được Thiên Chúa cống hiến cho chúng ta vào ngày cùng tháng tận mà giờ đây và mãi mãi đã được tiên hưởng nơi dấu hiệu này.

 

Thế nhưng, rượu cũng nói về Cuộc Khổ Nạn nữa, ở chỗ, cây nho cần phải được tỉa đi xén lại nhờ đó mà được nên tinh khiết; những hạt nho cần phải chín mùi nhờ mặt trời và mưa gió cũng như cần phải bị ép vắt: Chỉ nhờ có cuộc khổ nạn này mới có một thứ chín mùi rượu ngon.

 

Vào Lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô, chúng ta đặc biệt nhìn vào dấu hiệu bánh. Nó nhắc nhở chúng ta về cuộc hành trình của dân Do Thái suốt 40 năm trong sa mạc. Bánh Thánh là manna của chúng ta được Chúa dùng để nuôi dưỡng chúng ta – nó thật là bánh bởi trời, nhờ đó Người hiến ban chính mình Người.

 

Trong cuộc cung nghinh Thánh Thể này, chúng ta theo dấu hiệu ấy, nhờ đó, chúng ta theo chính Chúa Kitô. Và chúng tax in Người rằng: Xin Chúa dẫn dắt chúng con qua những nẻo đường lịch sử! Xin Chúa cứ tỏ mãi cho Giáo Hội và những vị mục tử của Giáo Hội thấy đường ngay nẻo chính! Xin Chúa hãy nhìn đến nhân loại khổ đau, đang thận trọng tìm kiếm một đường đi nước bước qua rất nhiều những ngờ vực; xin hãy nhìn đến tình trạng đói khổ về vật chất và tâm linh đang hành hạ nhân loại! Xin ban cho con người nam nữ bánh cho cả xác lẫn hồn! Xin ban cho họ công ăn việc làm! Xin ban cho họ ánh sáng! Xin ban cho họ chính bản thân Chúa! Xin thanh tẩy và thánh hóa tất cả chúng con!

 

Xin Chúa hãy làm cho chúng con hiểu được rằng chỉ nhờ tham phần vào Cuộc Khổ Nạn của Chúa, qua việc ‘chấp nhận’ thánh giá, chấp nhận bỏ mình, chấp nhận những cuộc thanh tẩy Chúa thực hiện nơi chúng con, đời sống chúng con mới có thể trưởng thành và đạt đến tầm vóc viên trọn thực sự. Xin Chúa hãy qui tụ chúng con lại từ mọi nơi trên thế giới. Xin Chúa hãy hiệp nhất Giáo Hội của Chúa, hiệp nhật nhân loại bị thương đau! Xin Chúa ban cho chúng con ơn cứu độ! Amen

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 4/7/2006

 

Ý nghĩa bài giảng của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI về Thánh Thể liên quan tới khía cạnh thiên nhiên tạo vật được thần linh hóa và biến đổi từ tấm bánh là hoa mầu ruộng đất và lao công của con người đã được người dịch cảm nghiệm và chia sẻ trong cuốn “Nguồn Sống Thần Linh” (Cao-Bùi, 5/2005, Năm Thánh Thể, trang 69-73, và trang 137-144, như sau:)

 

Chất Thể của Thánh Thể ở phần Dâng Lễ

 

Phần Phụng Vụ Thánh Thể được bắt đầu bằng việc dâng của lễ. Ở đây, chúng ta có thể đặt vấn đề về ý nghĩa của bánh và rượu, về lý do tại sao lại là bánh miến và rượu nho mà không phải là những lễ vật khác, cũng như về mối liên hệ giữa của lễ dâng trên bàn thờ bấy giờ với “hoa mầu ruộng đất (hay) sản phẩm của cây nho và lao công của con người”.

 

Mỗi bí tích đều phải có đủ hai yếu tố mới hiệu thành, đó là chất thể và mô thể. Chẳng hạn nơi bí tích Thánh Thể, chất thể là bánh với rượu và mô thể là lời truyền phép. Mô thể của bí tích Thánh Thể là chính lời Chúa Giêsu phán trên bánh và chén rượu trong Bữa Tiệc Ly, lời được chính các vị chủ tế lập lại khi truyền phép Thánh Thể. Còn chất thể của bí tích Thánh Thể là bánh và rượu, hai chất thể cũng được Chúa Giêsu sử dụng ở Bữa Tiệc Ly khi lập Bí Tích Cực Trọng này. Thế nhưng, các Phúc Âm nhất lãm trình thuật về biến cố thiết lập Bí Tích Thánh Thể này nói riêng và Bữa Tiệc Ly nói chung chỉ đề cập đến chất thể của rượu là rượu nho (x Lk 22:18), chứ không hề đề cập đến chi tiết rõ ràng về chất liệu bánh của bí tích Thánh Thể, chẳng hạn bánh không men, bánh được làm bằng bột mì hay bột nếp v.v.

 

Về chất thể bánh của bí tích Thánh Thể, có một chi tiết được mặc nhiên hiểu đó là bánh “không men”, vì Chúa Giêsu mừng Lễ Vượt Qua theo lệ của người Do Thái là tục lệ cần phải ăn “bánh không men” (x Ex 12:18,20), một qui lệ được chính Cha Người đặt ra cho dân Do Thái ngay từ khi họ sửa soạn cuộc Vượt Qua của họ từ miền đất nô lệ ở Ai Cập mà về Đất Hứa.

 

Tính chất không men của chất thể bánh làm nên Thánh Thể Chúa Kitô còn là những gì nhắc nhở thành phần muốn nhận lãnh Chúa Kitô trong Bí Tích Thánh Thể, hay muốn hiệp thông với Người một cách xứng đáng và trọn vẹn, cần phải có một tâm hồn tinh khiết. Bởi vì, men thường được hiểu theo nghĩa tiêu cực, liên quan đến gương mù gương xấu, như “men của những người Pharisiêu và Saducê” (Mt 16:6), hay men hư hỏng và gian ác, một thứ men cần phải tránh để trở thành một thứ bánh không men thành tâm và chân thực, như lời Thánh Phaolô Tông Đồ kêu gọi trong Thư Thứ Nhất gửi giáo đoàn Côrintô: “Anh em hãy loại trừ đi thứ men cũ để làm cho anh em trở thành bột mới, thành những tấm bánh không men, vì Chúa Kitô là Cuộc Vượt Qua của chúng ta đã được hy tế. Chúng ta hãy mừng lễ không phải bằng men cũ, men hư hoại và gian ác, mà là bằng tấm bánh không men của lòng thành và chân thực” (x 1Cor 5:7-8).

 

Ngoài tính chất “bánh không men” của chất thể bánh làm nên Thánh Thể Chúa Kitô như thế, Giáo Hội Công Giáo, trong khoản Giáo Luật 924.2, còn ấn định dứt khoát chất thể bánh này là “bột mì”, chứ không phải một thứ bột nào khác, như bột nếp hay bột năng.

 

Bởi vì, bột mì được làm nên bởi lúa miến, mà lúa miến là chất thể được Chúa Giêsu sử dụng để ám chỉ về chính bản thân của Người là Vị Thiên Chúa Nhập Thể, Tử Giá và Phục Sinh, khi Người tiên báo về cuộc Vượt Qua của mình như sau: “Đã đến giờ Con Người được vinh hiển. Thày nói thật với các con rằng nếu hạt lúa miến rơi xuống đất không mục nát đi thì nó vẫn còn là một hạt lúa miến. Thế nhưng, nếu nó có mục nát đi nó mới sinh nhiều hoa trái” (Jn 12:23-24). Hạt lúa miến rơi xuống đất đây là biểu hiệu cho biến cố Nhập Thể của Chúa Kitô; hạt lúa miến này bị mục nát đi là hình ảnh ám chỉ cuộc Tử Giá của Người, và việc nó sinh nhiều hoa trái đây ám chỉ Quyền Năng Phục Sinh của Người.

 

Rượu nho cũng là một biểu hiệu liên quan đến cuộc Tử Nạn của Chúa Kitô nữa (x Is 63:2), vì rượu nho được làm bởi “máy ép nho” (x Is 5:2; Mt 21:33).

 

Như thế, vì cả bánh miến lẫn rượu nho là hai chất thể, theo ý nghĩa mạc khải, đều liên quan đến Hiến Tế Thập Giá của Chúa Kitô là tất cả những gì nói lên ý nghĩa và bản chất chính yếu của Bí Tích Thánh Thể, mà Giáo Hội Chúa Kitô đã ấn định chọn dùng cho Phụng Vụ Thánh Thể.

 

Tuy nhiên, bánh và rượu là hai chất thể được biến thành Mình và Máu của Chúa Kitô trên bàn thờ sau lời truyền phép của vị chủ tế ấy không phải tự động mà có, song phải được sản xuất bởi bàn tay của con người nữa. Bởi thế, trong phần truyền phép, việc biến thể từ chất thể bánh “là hoa mầu ruộng đất” và chất thể rượu “là sản phẩm của cây nho” sẽ không thể nào xẩy ra được, nếu thiếu yếu tố “lao công của con người”. Đó là lý do trong phần dâng của lễ, yếu tố chất thể (bánh và rượu) từ thiên nhiên và tiêu biểu cho thế giới tự nhiên, cùng với yếu tố nhân bản (“lao công của con người”) tiêu biểu cho những gì thuộc về thế giới tâm linh, đều được dâng lên “Chúa là Chúa tể càn khôn”, “để trở nên bánh nuôi sống (hay) của uống thiêng liêng cho” con người chúng ta.

 

Trong phần dâng lễ vật, tuy bề ngoài là chất thể bánh và rượu được dâng lên, nhưng thật ra là “lao công của con người” được dâng lên. Bởi vì, chất thể đó là của Thiên Chúa Hóa Công “đã rộng ban” cho con người để trước hết nuôi sống phần xác con người. Thế nhưng, vì “con người không nguyên sống bởi bánh, mà còn bởi mọi lời từ miệng Thiên Chúa” (Mt 4:4; Deut 8:3), tức “sống cho Thiên Chúa” (Lk 20:38), mà những gì con người hiến dâng cho Vị Thiên Chúa Hóa Công của mình, đặc biệt trong phần dâng lễ đây, chính là tác động họ long trọng chẳng những trả về cho Ngài tất cả những gì sở hữu từ thế giới thiên nhiên được gọi là vốn liếng con người nhận lãnh từ Ngài, mà còn cả số lời từ số vốn liếng ấy nữa, đó là tất cả tấm lòng họ tri ân cảm tạ Ngài, được thể hiện qua những “lao công” họ đã thiện chí nỗ lực để canh tân và biến chế những gì thuộc về họ theo đúng như dự án của Ngài.

 

Như thế, trong phần dâng lễ vật, Kitô hữu dâng lên Thiên Chúa Hóa Công của mình cả những gì mình có (như được Ngài ban cho từ thế giới thiên nhiên) lẫn những gì mình làm (“lao công” phát xuất từ tấm lòng tri ân cảm tạ), để chúng trở nên những gì mình là theo Thánh Ý của Vị Thiên Chúa là Cha của con người, đó là sự kiện tất cả những gì họ dâng lên đó được Thánh Thần biến đổi, đúng hơn, chính bản thân của họ được Thánh Thần biến đổi nên giống Chúa Kitô, như chất thể bánh và chất thể rượu được Thánh Thần, qua lời truyền phép của vị chủ tế, được biến thành Mình Thánh và Máu Thánh Chúa Kitô vậy.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL (“Nguồn Sống Thần Linh”, Cao-Bùi, 5/2005,  trang 69-73)

 

Từ Thánh Thể đến Cánh Chung

 

Bởi vì, chất liệu được trở nên Mình Thánh và Máu Thánh Chúa Giêsu Kitô chính là “hoa mầu ruộng đất” và “rượu bởi cây nho”. Nghĩa là, bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, qua lời vị chủ tế khẩn cầu trước mỗi lần Truyền Phép Thánh Hiến Bánh Rượu, những chất liệu thiên nhiên, tiêu biểu cho “toàn thể tạo vật” thuộc thế giới tự nhiên, sẽ được hoàn toàn biến đổi tận bản chất của mình, để trở thành thần linh và sự sống. Mỗi lần việc biến thể (transubstantiation), việc bánh trở nên Mình Thánh Chúa Giêsu và rượu trở nên Máu Thánh Chúa Giêsu xẩy ra trên bàn thờ trong Thánh Lễ là mỗi lần nhắc nhở cho Kitô hữu Công Giáo chúng ta chân lý cánh chung này, đó là chính thân xác tầm thường, hèn hạ và chết chóc của chúng ta sau cùng cũng sẽ được biến đổi nên giống như thân xác linh thiêng, hiển vinh và bất tử của Chúa Giêsu Kitô: “Người sẽ ban cho thân xác thấp hèn của chúng ta một thể thức mới và tái tạo nó theo như khuôn mẫu của thân xác hiển vinh Người, bằng quyền năng Người bắt mọi sự suy phục Người” (Phil 3:21).

 

Vẫn biết, trong ngày sau hết “tất cả mọi kẻ chết sẽ sống lại nơi thân thể như họ đang có hiện nay” (CĐ Lataranô IV năm 1215: DS 801), thế nhưng, chỉ có “những ai làm lành thì phục sinh để được sống, còn ai hành ác thì phục sinh để chịu luận phạt” (Jn 5:29; x Dan 12:2; Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, 998). Tức là thân xác của kẻ lành mới được biến đổi nên giống như thân xác vinh hiển của Chúa Kitô Phục Sinh, còn thân xác của thành phần hư đi tuy cũng được biến đổi thành linh thiêng nhưng lại là một tình trạng linh thiêng giống như ma quỉ trong hỏa ngục. Yếu tố chính yếu làm cho thân xác của kẻ lành được biến đổi trở thành vinh hiển giống như thân xác của Chúa Kitô Phục Sinh, hoàn toàn khác với thân xác của thành phần đời đời hư đi trong hỏa ngục chính là Sự Sống nơi kẻ lành khi còn sống trên trần gian trước khi chết, một Sự Sống họ đã lãnh nhận khi chịu Phép Rửa: “Nhờ phép rửa trong sự chết của Người, chúng ta đã được mai táng với Người, để như Đức Kitô nhờ vinh quang của Chúa Cha mà sống lại từ cõi chết thế nào, chúng ta cũng được sống một sự sống mới như vậy” (Rm 6:4).

 

“Sự sống mới” đây là gì, nếu không phải, về phương diện thần học, là chính sự sống “tự do vinh hiển của con cái Thiên Chúa” (Rm 8:21), sự sống toàn thể tạo vật mong đợi nơi họ để được giải phóng và thông phần vào, sự sống được hiệp nhất nên một với Thiên Chúa, với chính mình, với tha nhân và với toàn thể thiên nhiên tạo vật như ngay từ khi con người còn ở trong tình trạng thánh thiện và công chính nguyên thủy (x Giáo Lý GHCG, 399-400). Về phương diện tu đức, “sự sống mới” “tự do vinh hiển của con cái Thiên Chúa”, chính là “sống không theo xác thịt song theo thần trí” (Rm 8:4; x Col 5:16), vì “xác thịt hướng về sự chết còn thần trí hướng về sự sống và bình an” (Rm 8:6): “Nếu anh em sống theo xác thịt, anh em sẽ chết; nhưng nếu bởi thần trí anh em tiêu diệt những việc xấu xa của thân xác anh em sẽ sống” (Rm 8:13). “Những việc xấu xa của thân xác” hay của “xác thịt là dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tị, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy” (Col 5:19-21); còn những việc hay “hoa trái của thần trí là bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (Col 5:22-23).

 

“Người ta chỉ gặt gái những gì họ đã gieo vãi. Nếu họ gieo vãi nơi thửa ruộng xác thịt, họ sẽ gặt hái được mùa màng băng hoại; nhưng nếu hạt giống gieo xuống của họ là thần trí thì họ sẽ gặt được sự sống trường sinh” (Gal 6:8). Đúng thế, “mùa gặt đây là tận thế” (Mt 13:39), lúc mà “Đấng ngự trên ngai phán phán: ‘Này đây Ta đổi mới mọi sự... Xong cả rồi! Ta là Alpha và Ômega, là Khởi Nguyên và là Cùng Tận. Chính Ta sẽ ban cho ai khát được uống nơi nguồn nước trường sinh mà không phải trả tiền. Ai thắng sẽ được hưởng hồng ân đó. Ta sẽ là Thiên Chúa của người ấy, và người ấy sẽ là con của Ta. Còn những kẻ hèn nhát, bất trung, đáng ghê tởm, sát nhân, gian dâm, phù phép, thờ ngẫu tượng, và mọi kẻ dối trá điêu ngoa, thì phần dành cho chúng là hồ lửa và diêm sinh ngùn ngụt cháy: đó là cái chết lần thứ hai’” (Rev 21:5-8).

 

Thiên Chúa chỉ hứa cứu chuộc con người tạo vật khỏi cái chết lần nhất mà thôi, như lời Ngài hứa với hai nguyên tổ sau khi sa phạm đó là Ngài sẽ cho “miêu duệ người nữ... đạp nát đầu” (Gen 3:15), “con cựu xà, tức Satan, tên cám dỗ cả thế gian” (Rev 12:9). Đức Giêsu Kitô, con của Đức Maria, “một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse thuộc giòng dõi Đavít” (Lk 1:27), thực sự đã “đạp nát đầu” (Gen 3:15) con cựu xà Satan bằng tử giá cứu độ của mình: “Chính vì để phá hủy các việc làm của ma quỉ mà Con Thiên Chúa đã tỏ mình ra” (1Jn 3:8); “Một khi Tôi bị treo lên khỏi mặt đất, Tôi sẽ kéo tất cả mọi người lên cùng Tôi” (Jn 12:32). Đúng thế, nhờ cuộc tử giá của Chúa Kitô, “Vị Mục Tử nhân lành hiến mạng sống mình vì chiên” (Jn 10:11), mà đàn chiên Kitô hữu môn đệ của Người, qua Bí Tích Rửa Tội đã “được sự sống” (Jn 10:10), và qua Bí Tích Thánh Thể, còn được hưởng “một sự sống viên mãn hơn” (Jn 10:10), một sự sống phát xuất từ chính huyết nhục của Mẹ Maria được “Lời đã hóa thành nhục thể” (Jn 1:14) mặc lấy: “Thịt Tôi là của ăn thật, máu Tôi là của uống thật. Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi thì ở trong Tôi và Tôi ở trong họ” (Jn 6:55-56).

 

Thật vậy, Thiên Chúa nhập thể làm người không phải chỉ để trở thành một Vị “Thiên Chúa ở giữa chúng ta” (Mt 1:23; Is 7:14) một cách tổng quát chung chung vậy thôi, mà Người còn muốn ở với và ở trong mỗi người chúng ta nữa, vì Người thương từng con chiên của Người, dù là con chiên lạc đàn duy nhất (x. Mt 18:10-14). Bởi thế, Người không chỉ muốn ở trong hồn thiêng bất tử của chúng ta bằng Ơn Thánh của Người mà thôi, Người còn muốn thực sự ở trong thân xác tro bụi hèn hạ tầm thường của chúng ta nữa bằng chính Thánh Thể của Người, vì Người chẳng những muốn cứu linh hồn chúng ta khỏi tội lỗi bằng Thánh Giá của mình, Người còn muốn cứu cả thân xác hữu hình và hữu hạn của chúng ta khỏi sự chết bằng Thánh Thể của Người nữa, nghĩa là Người muốn cả thân xác của chúng ta cũng sẽ được sống lại như thân xác hiển vinh của Người trong ngày sau hết.

 

Như thế, quả thật Thánh Thể có liên quan hết sức mật thiết đến “việc cứu độ của thân xác chúng ta” (Rm 8:23): “Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi thì có sự sống đời đời, phần Tôi sẽ làm cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Jn 6:54). Tuy nhiên, tác nhân làm cho thân xác của những ai ăn Thịt và uống Máu Chúa Kitô sống lại trong ngày sau hết giống như thân xác vinh hiển của Người đây là ai, nếu không phải là chính Thánh Linh, Đấng bao giờ cũng được Giáo Hội cầu khẩn trước khi thánh hiến bánh rượu trên bàn thờ, để nhờ Ngài bánh rượu được trở nên Mình Thánh và Máu Thánh Chúa Giêsu Kitô: “Nếu Thần Linh của Đấng đã phục sinh Chúa Giêsu từ trong kẻ chết ở trong anh em thì Đấng đã phục sinh Chúa Kitô từ trong kẻ chết sẽ mang sự sống đến cho thân xác chết chóc của anh em, bằng Thần Linh của Ngài ở trong anh em” (Rm 8:11).

 

Tuy nhiên, không phải cho đến khi thân xác con người ăn Mình Thánh và uống Máu Thánh Chúa Kitô khi còn sống sắp phục sinh từ trong cõi chết Thần Linh của Thiên Chúa mới “mang sự sống đến cho thân xác chết chóc” của họ, mà là ngay từ khi họ còn sống trong thân xác của họ trên thế gian này. Ở chỗ, “Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống” (Kinh Tin Kính) làm cho họ càng ngày càng nhận biết Chúa Kitô hơn (x Jn 16:13), để rồi, nhờ nhận biết Chúa Kitô, một nhận biết chính là sự sống trường sinh (x Jn 17:3), họ sẽ sống Chúa Kitô, tức sẽ tác hành như Chúa Kitô, đến nỗi, không phải họ sống nữa mà là Chúa Kitô sống trong họ (x Gal 2:20), một sự sống khiến cho những ai thấy họ là nhận ra Chúa Kitô (x Jn 13:15).

 

Sự sống Chúa Thánh Thần làm cho thế gian nhận ra Chúa Kitô nơi những ai lãnh nhận Mình Thánh và Máu Thánh Chúa Kitô đây chính là sự sống “yêu thương như Thày yêu” (Jn 15:12, x 13:34), một tình yêu cao cả đã hiến mạng sống mình vì người mình yêu (x Jn 15:13). Như thế, khi Kitô hữu sống tình yêu cao cả này của Chúa Kitô và như Chúa Kitô là họ chẳng những thực sự “cử hành mầu nhiệm thánh” (theo lời kêu gọi thống hối mở đầu mỗi Thánh Lễ), cử hành Mầu Nhiệm Yêu Thương của Thiên Chúa được lập lại trong Hiến Tế Thánh Thể, một mầu nhiệm đòi con người phải biết yêu thương tha thứ cho nhau mới hội đủ điều kiện xứng đáng để dâng tiến (x Mt 5:23-24), mà họ còn thực sự “làm việc này mà nhớ đến Thày” (Lk 22:19; 1Cor 11:24) ngay trong cuộc sống của họ nữa, chứ không phải chỉ ở trên bàn thờ khi dâng lễ thôi, vì họ làm cho biến cố Tử Giá Cứu Độ có tác dụng “một lần là vĩnh viễn” (Heb 7:27, 10:10; 1Pet 3:18) của Chúa Kitô tái diễn “cho tới khi Chúa lại đến” (như lời tung hô sau truyền phép), một cách hiển nhiên và sống động trên thế gian, chứ không phải một cách bí tích và mầu nhiệm chỉ có ở trong phụng vụ và nội bộ cộng đồng Dân Chúa thôi.

 

Nếu cuộc đời của những người lãnh nhận Mình Thánh và Máu Thánh Chúa Kitô sống Tình Yêu cao cả của Người thực sự cử hành một Thánh Lễ sống động như thế, thì bản thân họ, nhân tính của họ nói chung và thân xác của họ nói riêng, như Chúa Kitô, cũng đã trở thành một “con chiên bị đem đi sát tế” (Is 53:7), một “con chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian” (Jn 1:29). Vì “theo Con Chiên đi đến bất cứ nơi nào Con Chiên đến” (Rev 14:4) như vậy mà “khi Con Người đến trong vinh quang, ngự trên ngai, có tất cả các thiên thần hầu chực và muôn dân tụ họp trước nhan Người” (Mt 25:31-32), họ mới là thành phần “chiên ở bên phải Người” (Mt 25:33), thành phần được Người nhận biết và tưởng thưởng hết sức xứng đáng vì những việc họ làm “khi họ còn sống ở trong thân xác” (2Cor 5:10) để đáp ứng những nhu cầu cụ thể hầu như liên quan trực tiếp đến thể lý của tha nhân là những con người vô cùng cao quí đã được chính Vị Thiên Chúa Làm Người Giêsu Kitô đồng hóa với Người: “Hãy đến. Các con được Cha Ta chúc phúc! Hãy hưởng vương quốc đã sắm sẵn cho các con từ khi tạo thành thế gian. Vì khi Ta đói các con đã cho Ta ăn, Ta khát các con đã cho Ta uống. Khi Ta là khách lạ các con đã đón nhận Ta, trần truồng các con đã cho Ta mặc. Khi Ta đau yếu các con đã an ủi Ta, tù ngục các con đã đến viếng thăm Ta... vì bao lâu các con làm như thế cho một trong những người anh em hèn mọn nhất của Ta là các con làm cho chính Ta vậy” (Mt 25:35- 36, 40).

 

Nếu con người lãnh nhận Thánh Thể Chúa Kitô thực sự có thể sống Chúa Kitô, có thể yêu thương như Người đã yêu thương, thì không phải là thân xác của họ đang được Thần Linh của Người biến đổi làm cho nên giống thân xác vinh hiển của Người ngay ở đời này rồi hay sao? Ở chỗ, xác thịt vốn là một thực thể hướng chiều về sự chết (x Rm 8:6): “Cái gì sinh bởi xác thịt là xác thịt” (Jn 3:6), lại có thể sinh hoa trái sự sống yêu thương. Vậy để biết mình đã hơn một lần hay vẫn thường xuyên lãnh nhận Thánh Thể Chúa Kitô có thực sự sống sự sống của Người hay chưa, tức đã được Thần Linh của Người biến đổi hay chưa, chúng ta hãy thực tâm xét mình lại xem, về phần tiêu cực, chúng ta có còn dùng miệng lưỡi vẫn há ra rước lấy Thánh Thể vô cùng cao trọng của Người để nói hành, nói xấu, chê bai, hành tỏi nhau, hoặc có còn tự nhiên ham thích khoái lạc xác thịt thấp hèn cả về tình dục và cảm quan, cả về việc đua đòi tiện nghi và say sưa chè chén, trái lại, về mặt tích cực, chúng ta có biến thân xác của mình trở thành khí cụ cho đức chính trực (x Rm 6:13) trong việc phục vụ tha nhân, tức trở thành bánh nuôi sống nhân gian chăng? Nếu chưa hay rồi, chúng ta cũng hãy Sống Thánh Thể hơn nữa, bằng cách “liên lỉ mang trong mình cái chết của Chúa Giêsu để sự sống của Chúa Giêsu được tỏ hiện trong thân xác của chúng ta” (2Cor 4:10).

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL (“Nguồn Sống Thần Linh”, Cao-Bùi, 5/2005,  trang 137-144)

 

  


ÔI BỮA TIỆC CAO QUÍ VÀ TUYỆT VỜI


(Thánh Tiến Sĩ Tôma Aquinas: Opusculum 57, in festo Corporis Christi, lect. 1-4)

Chính vì ý muốn của Con duy nhất Thiên Chúa mà con người được thông phần với thần tính của Người, Đấng đã mặc lấy bản tính của chúng ta để nhờ trở nên con người Người có thể làm cho con người trở thành những vị thần linh. Hơn thế nữa, khi Người mặc lấy xác thịt của chúng ta, Người đã hiến tất cả bản chất của nó cho phần rỗi của chúng ta. Người đã hiến dâng thân xác của Người cho Thiên Chúa Cha trên bàn thờ thập giá làm của lễ hy sinh hòa giải chúng ta. Người đã đổ máu Người ra để cứu chuộc và thanh tẩy chúng ta, để chúng ta được cứu khỏi tình trạng nô lệ hèn yếu và được thanh tẩy khỏi tất cả mọi tội lỗi. Thế nhưng, để có thể bảo đảm được rằng việc tưởng niệm về một tặng ân quá cao trọng này mãi mãi ở với chúng ta, Người đã để lại mình Người làm của ăn và máu Người làm của uống cho tín hữu lãnh nhận dưới hình bánh và rượu.


Ôi bữa tiệc cao quí và tuyệt vời, bữa tiệc mang cho chúng ta ơn cứu độ và là một bữa tiệc chứa đựng tất cả mọi sự ngọt ngào! Còn gì tự bản chất có giá trị hơn thế nữa? Theo luật cũ chỉ có xác thịt của bò bê dê cừu được hiến dâng lên, nhưng đây lại là chính Chúa Kitô, là Thiên Chúa thật, được dọn ra trước mắt chúng ta như của ăn cho chúng ta. Còn gì tuyệt vời hơn thế nữa? Không có bí tích nào có quyền năng chữa lành hơn nữa; nhờ đó, tội lỗi được tẩy sạch, nhân đức được tăng thêm, và linh hồn được dồi dào mọi ơn ích thiêng liêng. Thần lương này được Giáo Hội hiến dâng cho người sống và kẻ chết, để những gì được thiết lập cho phần rỗi của tất cả mọi người cũng mang lại thiện ích cho tất cả mọi người. Tuy nhiên, dầu sao cũng không ai có thể hoàn toàn diễn tả được sự ngọt ngào của bí tích này, một bí tích mà chúng ta được hoan hưởng tận nguồn, và chúng ta lập lại việc tưởng niệm về một tình yêu tràn đầy tỏ ra cho chúng ta nơi cuộc khổ nạn của Chúa Kitô.


Chính vì muốn làm cho tâm hồn tín hữu cảm nhận sâu xa hơn nữa tình yêu bao la ấy mà Chúa Kitô đã thiết lập bí tích này trong Bữa Tiệc Ly. Vào lúc Người sắp sửa bỏ thế gian mà về cùng Cha, sau khi cử hành Lễ Vượt Qua với các môn đệ, Người đã để lại bí tích này như một cuộc tưởng niệm vĩnh viễn cuộc khổ nạn của Người. Bí tích này là sự viên trọn của tất cả những hình ảnh xa xưa và là phép lạ cả thể nhất của Người, còn đối với những ai cảm nghiệm được nỗi sầu đau về cuộc ra đi của Người, thì bí tích này trở thành một niềm an ủi vĩnh tại có một không hai.


(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ The Office of Readings, Saint Paul Editions, 1983, trang 658-659)

 

 

 

Bản Trắc Nghiệm Sống Phụng Vụ

  

Nếu để ý chúng ta sẽ thấy, vừa mở màn cho Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh, Giáo Hội cử hành những mầu nhiệm hết sức quan trọng, những mầu nhiệm trực tiếp liên quan đến Sự Sống. Như hai tuần trước đây, Giáo Hội cử hành Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống là Đấng ban Sự Sống; đến tuần vừa rồi Giáo Hội cử hành Lễ Ba Ngôi Thiên Chúa, Thực Tại Sự Sống Thần Linh nơi Thiên Chúa và là Nguồn Mạch Sự Sống Đời Đời, và tuần này Giáo Hội cử hành Lễ Trọng Kính Mình Thánh Máu Thánh Chúa Kitô, Bánh ban Sự Sống.

 

Để có thể nói lên phần nào tất cả ý nghĩa của Lễ Trọng Kính Mình Thánh Máu Thánh Chúa Kitô này, Giáo Hội đã phải dùng đến ba bài Phúc Âm khác nhau cho ba chu kỳ phụng niên A, B, C.  Năm C theo Phúc Âm Thánh Luca về phép lạ bánh hóa ra nhiều; Năm A vốn theo Phúc Âm Thánh Mathêu, và tuy Phúc Âm Thánh Mathêu cũng có đoạn về việc Chúa Giêsu lập Bí Tích Thánh Thể và đoạn phép lạ bánh hóa ra nhiều, song Giáo Hội lại chọn đọc cho chu kỳ năm A này bài Phúc Âm theo Thánh Gioan về Bánh hằng sống, để nói lên ý nghĩa thiêng liêng của việc bánh hóa ra nhiều ở Phúc Âm Thánh Luca năm C, và cuối cùng là Năm B theo Phúc Âm Thánh Marcô về chính việc thiết lập Bí Tích Thánh Thể. Nếu theo thứ tự chu kỳ phụng vụ A, B, C, và theo ý nghĩa của ba bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc cho Lễ Trọng Kính Mình Thánh Máu Thánh Chúa Kitô Chúa Nhật tuần này đây, thì chúng ta có thể hiểu được dụng ý chọn đọc và sắp xếp ba bài Phúc Âm ấy thế này: Chúa Kitô là Bánh bởi trời xuống ban sự sống cho thế gian (ý nghĩa của bài Phúc Âm năm A), qua Bí Tích Thánh Thể (ý nghĩa của bài Phúc Âm năm B), để cho những ai theo Người và nghe lời Người như chiên theo chủ chiên được sống và sống viên mãn hơn (ý nghĩa của bài Phúc Âm năm C). Tuy nhiên, để nắm được cốt lõi của tất cả Mầu Nhiệm Thánh Thể, chúng ta cần suy niệm câu Chúa Giêsu mạc khải về Thực Tại Thánh Thể của Người trong bài Phúc Âm theo Thánh Gioan cho phụng niên năm A sau đây: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này sẽ sống đời đời. Bánh Tôi sẽ ban cho thế gian được sự sống chính là thịt của Tôi”.

 

Trước hết, “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống” ở đây là gì? “Bánh hằng sống” đây, như Chúa Kitô xác định cũng trong câu này, “chính là thịt của Tôi”. Vậy “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống” tức là “Thịt Tôi là bánh từ trời xuống”, cả hai đồng nghĩa với nhau. Nếu thế thì chẳng lẽ “Thịt” của Chúa Kitô như Manna rớt xuống từ trời hay sao? Tuy nhiên, nếu “Thịt” của Chúa Kitô như Manna rớt xuống từ trời, thì “Thịt” của Người cũng chỉ là một thứ lương thực nuôi phần xác con người mà thôi, như Người khẳng định về tác dụng thể lý của Manna ở câu cuối của cùng bài Phúc Âm Thánh Gioan về Bánh hằng sống này: “Đây là bánh bởi trời xuống, không phải như cha ông quí vị đã ăn manna và đã chết”. Vậy, chúng ta phải hiểu sao về ý nghĩa “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống” này? Theo tôi, Chúa Kitô “là bánh hằng sống từ trời xuống”, mà “bánh Tôi sẽ ban chính là thịt của Tôi”, thì phải hiểu là “Thịt” của Người, hay thân xác của Người nói riêng, và nhân tính của Người nói chung, đã được tạo tác trong lòng Mẹ Maria “bởi quyền phép Thánh Thần”, như lời thiên thần giải thích cho dưỡng phụ Giuse của Người trong giấc ngủ, được ghi nhận trong Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 1 câu 20, hay như lời dẫn giải của thiên sứ Gabiên trong Phúc Âm Thánh Luca, đoạn 1 câu 35. Đúng thế, chính vì “Thịt” của Chúa Kitô, hay thân xác của Chúa Kitô, “không sinh ra bởi huyết nhục, bởi ước muốn nhục dục hay bởi ý muốn con người, mà là bởi Thiên Chúa” như thế, như đường lối được Phúc Âm Thánh Gioan đề cập đến ở đoạn 1 câu 13 về thành phần tin vào Người, mà Chúa Kitô mới xác quyết về tác dụng thần linh này của “Thịt” Người, của “bánh Tôi ban” là: “ai ăn bánh này sẽ sống đời đời”?

 

Bánh Chúa Kitô nói tới đây không phải là thứ bánh thường, được Người hóa ra nhiều từ năm tấm bánh để nuôi đám dân Do Thái đi theo nghe lời Người. Bởi vì, bấy giờ thịt của Người hay thân xác của Người vẫn còn đó, chưa sống lại từ trong cõi chết, chưa trở thành linh thiêng, nghĩa là chưa trở thành, theo kiểu nói của Thánh Phaolô trong Thư Thứ Nhất gửi Giáo Đoàn Côrintô ở đoạn 15 câu 45: “linh thiêng ban sự sống”. Trường hợp điển hình cho thấy thân xác phục sinh của Chúa Kitô đã thật sự “linh thiêng ban sự sống” đó là, sau khi sống lại từ trong cõi chết, Chúa Kitô Phục Sinh đã thổi hơi trên các tông đồ để các vị “nhận lấy Thánh Linh” (Jn 20:22), tức là làm cho các vị nhận biết Người đã thực sự phục sinh mà tuyên xưng “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi” (Jn 20:28).

 

Như thế, Chúa Giêsu nói: “Bánh Tôi sẽ ban” là Người có ý nói đến thân xác “linh thiêng ban sự sống” này của Người. Thế nhưng, chính nơi thân xác “linh thiêng ban sự sống” này của Người, như Người tỏ cho các tông đố thấy sau khi sống lại từ trong cõi chết, có những dấu vết tử nạn trên tay chân và cạnh sườn Người, những dấu vết cho thấy Người đã thực sự, như Người khẳng định trong Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 20 câu 28: “hiến mình làm giá chuộc muôn dân”, hay trong Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 10 câu 10: “hiến mạng sống cho chiên được sự sống và được sự sống viên mãn”.

 

Bởi vậy, khi tuyên bố “Bánh Tôi sẽ ban cho thế gian được sự sống chính là thịt của Tôi”, là Chúa Kitô đồng thời cũng muốn báo trước việc Người sẽ thiết lập Bí Tích Thánh Thể, một Bí Tích được Người thiết lập trước giờ tử nạn của Người, bằng bánh và rượu nho trong Bữa Tiệc Ly, một biến cố được Thánh Phaolô nhắc lại trong Thư Thứ Nhất gửi Giáo Đoàn Côrintô, qua bài đọc thứ hai năm C hôm nay: “Trong đêm bị trao nộp, Người cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra mà phán: ‘Các con hãy nhận lấy mà ăn, này là Mình Thày sẽ bị nộp vì các con: Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thày’. Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén mà phán: ‘Chén này là Tân Ước trong Máu Thày; mỗi khi uống, các con hãy làm mà nhớ đến Thày’”.

 

Chính vì Mình Thánh Máu Thánh Chúa Kitô được hy hiến cho chúng ta liên quan đến mầu nhiệm phục sinh như thế mà, cũng trong bài đọc thứ hai năm C hôm nay, Thánh Phaolô còn nhắc nhở Kitô hữu chúng ta về ý nghĩa của việc chúng ta lãnh nhận Mình Thánh Máu Thánh Chúa là: “Mỗi lần anh em ăn bánh và uống chén này là anh em loan truyền việc Chúa chịu chết cho tới khi Chúa lại đến”. Ở đây, qua lời nhắc nhở này, Thánh Phaolô cũng cho riêng Kitô hữu chúng ta và chung những ai không tin Chúa Giêsu Thánh Thể thấy rõ, Bánh Chúa Kitô ban không phải là thứ bánh thường, mà là một thứ Bánh Thần Linh, Bánh hiện thực hóa cuộc tử nạn của Chúa Kitô với sự hiện diện thực sự của thân xác đã trở thành “linh thiêng ban sự sống” nơi tác động phụng vụ cũng như nơi người lãnh nhận. Đến nỗi, trong cùng bức thư trên, ở câu 27, Thánh nhân còn khẳng định: “Ai ăn bánh và uống chén của Chúa bất xứng là phạm đến mình máu Chúa”, nghĩa là, như Ngài quả quyết ở câu 29: “ăn và uống án phạt mình”.

 

Như vừa được chia sẻ, Thánh Thể của Chúa Kitô là “Bánh hằng sống bởi trời xuống”, ở chỗ, Thánh Thể Người được tác tạo “bởi Chúa Thánh Thần”, và Thánh Thể của Người cũng là “Bánh sẽ ban cho thế gian được sự sống”, ở chỗ, Thánh Thể Người có thể thông ban Thánh Linh, như thực sự đã thông ban cho các tông đồ qua hơi thở từ thân xác phục sinh trở thành “linh thiêng” của Người. Chính vì thế chúng ta mới hiểu được ý nghĩa sâu xa lời Chúa Kitô nói trong bài Phúc Âm Thánh Gioan cho Lễ Mình Máu Thánh Chúa Năm A, về tác dụng thần linh nơi những ai lãnh nhận Thánh Thể Người, đó là lời: “Ai ăn thịt Tôi và uống Máu Tôi thì ở trong Tôi và Tôi ở trong kẻ ấy”. Thật vậy, người lãnh nhận Thánh Thể Chúa Kitô “ở trong” Người và Người “ở trong” họ là do Thánh Thần được ban cho họ khi họ lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, một Vị Thánh Thần mà, nếu không có Ngài, như Thánh Phaolô khẳng định trong Thư Thứ Nhất gửi Giáo Đoàn Côrintô đoạn 12 câu 3: “không ai có thể tuyên xưng Đức Kitô là Chúa”, nghĩa là nhờ Thánh Thần Kitô hữu chúng ta mới có thể tiếp tục và liên lỉ tin nhận Chúa Kitô, bằng việc rước lấy Người trong Bí Tích Thánh Thể, sau khi thưa lời tuyên xưng “Amen” nghĩa là “tôi tin”. Để rồi, cho dù Mình Thánh không còn nơi thân xác của họ nữa, khi Hình Bánh hoàn toàn tan đi, song Chúa Kitô vẫn tiếp tục “ở trong” họ nhờ lòng tin này nơi những ai lãnh nhận Thánh Thể Người, như lời Thánh Phaolô xác nhận và huấn dụ tín hữu Êphêsô về đời sống nội tâm Kitô hữu ở đoạn 3 câu 17: “Xin Chúa Cha kiên cường nội tâm anh em bằng tác động của Thần Linh Ngài. Xin Chúa Kitô ngự trong lòng anh em nhờ đức tin và chớ gì đức ái đâm rễ sâu vào đời sống anh em”.

 

Nếu chúng ta tin Chúa Giêsu thực sự ngự trong Bí Tích Thánh Thể thì chúng ta không thể nào không giữ mình sạch tội trọng để có thể mỗi lần dự lễ là rước lễ, và một khi rước lễ, chắc chắn chúng ta chẳng những sẽ dọn mình rước lấy Người bằng tất cả lòng khao khát của chúng ta, mà còn với cả tấm lòng gắn bó cám ơn Người đã thương ngự đến trong thân xác tro bụi của chúng ta nữa. Vì có năng rước lễ và rước lễ sốt sắng, Kitô hữu chúng ta mới có thể hăng say sống đạo và hoạt động tông đồ, do đó việc dọn mình trước khi và cám ơn sau khi rước lễ cho xứng đáng thật là quan trọng?

 

Nói đến Thánh Thể là nói đến việc cử hành Phụng Vụ Thánh Lễ. Thế nhưng, như tình hình cho thấy, dường như việc cử hành Phụng Vụ Thánh Thể đã và đang trải qua một tình trạng khủng hoảng trầm trọng, liên quan chẳng những đến tình trạng tham dự Lễ Chúa Nhật ít đi mà còn xúc phạm đến Thánh Thể bằng những biến báo làm mất đi bản chất của các lễ nghi của phụng vụ Thánh! Chủ đề của Thượng Hội Giám Mục Thế Giới 2005 là Chúa Giêsu Thánh Thể. Hôm Thứ Năm 10/6/2004 Lễ Mình Máu Thánh Chúa, trong bài giảng của mình, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng đã tuyên bố mở Năm Thánh Thể từ 10/2004-10/2005 với chủ đề “Thánh Thể là Nguồn Mạch và là Tột Đỉnh của Đời Sống và Sứ Vụ của Giáo Hội”. Đó là lý do từ Thứ Năm Tuần Thánh 2003, Đức Thánh Cha và Tòa Thánh đã phải chính thức lên tiếng kêu gọi Kitô hữu Công Giáo để ý lại việc cử hành Mầu Nhiệm Thánh Thể vô cùng cao trọng và quan trọng này, đặc biệt là trong Tông Thư kỷ niệm 40 năm Công Đồng Chung Vaticanô II ban hành Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh. Thật vậy, nhân dịp kỷ niệm 40 năm hiến chế Sacrosanctum Concilium về Phụng Vụ Thánh đựợc Công Đồng Chung Vaticannô II ban hành ngày 4/12/1963, Đức Thánh Cha đã ban hành một bức tông thư được phổ biến hôm Thứ Sáu 5/12/2003 và được Ngài ký vào ngày hôm trước, đúng ngày kỷ niệm. Trong bức tông thư này, ĐTC đã kêu gọi xét mình trong việc thi hành vấn đề canh tân phụng vụ theo Công Đồng. Theo Ngài, việc xét mình này là để “kiểm chứng xem con đường đã hành trình cho tới nay” liên quan đến việc “chấp nhận Công Đồng Chung Vaticanô II”, nhất là vấn đề liên quan đến “đời sống bí tích phụng vụ của Giáo Hội”. ĐTC đã đặt ra nhiều câu hỏi để xét mình như sau:

 

“1) Phụng vụ có được sống như là ‘nguồn mạch và là tột đỉnh của đời sống giáo hội’, theo giáo huấn của hiến chế ‘Sacrosanctum Concilium’ hay chăng? 2) Việc tái nhận thức về giá trị của Lời Chúa được đề ra qua việc canh tân phụng vụ có được tích cực chấp nhận nơi những việc cử hành của chúng ta hay chăng? 3) Phụng vụ đã trở thành một phần đời sống cụ thể của tín hữu cũng như đã làm nên nhịp sống của mỗi một cộng đồng tín hữu cho tới mức độ nào? 4) Phụng vụ có được hiểu như là đường lối nên thánh, như nội lực cho việc hoạt động tông đồ cũng như cho tính chất truyền giáo của Giáo Hội hay chăng?”

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL