Chúa Nhật

Ngày 6/3: Thánh Colette Boillet (1381-1447)

Sống như một ẩn sĩ rồi trở thành nữ tu Ḍng Thánh Clara năm 1406.

Đóng góp vào việc canh tân nhà ḍng theo lời yêu cầu của Đức Bênêđictô XIII.

Thành lập 20 đan viện.

 


CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY



BÀI ĐỌC I: 1 Sam 16:1b, 6-7, 10-13a

“Đavít được xức dầu làm Vua Isarel”
Bài trích sách Samuel quyển thứ nhất.

Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Samuel rằng: “Hăy đổ dầu cho đầy b́nh và lên đường; Ta sai ngươi đến nhà Isai dân thành Bêlem, v́ Ta chọn một người con của ông ấy lên làm vua”. Khi vào nhà, Samuel gặp ngay Eliab và nói: “Có phải người xức dầu của Chúa đang ở trước mặt Chúa đây không?” Và Chúa phán cùng Samuel: “Đừng nh́n xem diện mạo, vóc cao, v́ Ta đă loại nó rồi; Ta không xem xét theo kiểu của con người, v́ chưng con người nh́n xem bên ngoài, c̣n Thiên Chúa th́ nh́n xem tâm hồn”. Isai lần lượt đem bảy đứa con ḿnh ra tŕnh diện với Samuel. Samuel nói với Isai: “Chúa không chọn ai trong những người nầy”. Samuel nói tiếp: “Tất cả con ông có bấy nhiêu đó phải không?” Isai đáp: “C̣n một đứa út nữa, nó đi chăn chiên”. Samuel nói với Isai: “Ông hăy sai người đi gọi nó về, v́ chúng ta không ngồi vào bàn ăn trước khi nó về”. Isai sai người đi t́m đứa con út. Đứa út nầy có mái tóc hoe, có đôi mắt xinh và gương mặt đẹp. Chúa phán: “Ngươi hăy chỗi dậy, xức dầu lên nó, v́ chính nó đó”. Samuel lấy b́nh dầu ra, xức lên nó trước mặt các anh em, và Thánh Thần Chúa ngự trong Đavít từ ngày đó trở đi.

Lời của Chúa.


Đáp Ca: (Xin mời Cộng đoàn thưa)

Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi.

1.      Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi, trên đồng cỏ xanh ŕ Ngài thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Ngài hướng dẫn tôi, tâm hồn tôi, Ngài lo bồi dưỡng.

2.      Ngài dẫn tôi qua những con đường đoan chánh, sở dĩ v́ uy danh Ngài. Dù bước đi trong thung lũng tối, tôi không lo mắc nạn, v́ Chúa ở cùng tôi. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi ḷng tôi.

3.      Chúa dọn ra cho tôi mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương; đầu tôi th́ Chúa xức dầu thơm, chén rượu tôi đầy tràn chan chứa.

4.      Ḷng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài.


BÀI ĐỌC II: Eph 5:8-14

“Từ trong cơi chết, ngươi hăy đứng lên và Chúa Kitô sẽ chiếu sáng trên ngươi”
Bài trích thơ Thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Êphêsô.

Anh em thân mến, xưa kia anh em là sự tối tăm, nhưng bây giờ, anh em là sự sáng trong Chúa. Anh em hăy ăn ở như con của sự sáng, bởi v́ hoa trái của sự sáng ở tại tất cả những ǵ là tốt lành, là công chính và chân thật. Anh em hăy nhận biết điều ǵ làm đẹp ḷng Chúa, và đừng thông phần vào những việc con cái tối tăm không sinh lợi ích ǵ, nhưng phải tố cáo th́ hơn. V́ chưng, việc chúng làm cách thầm kín, dầu có nói ra cũng phải hổ thẹn. Nhưng tất cả những việc người ta tố cáo, th́ nhờ sự sáng mà được tỏ bày ra; v́ mọi việc được tỏ bày, đều là sự sáng. Bởi thế, thiên hạ nói: “Hỡi kẻ đang ngủ, hăy thức dậy, hăy vùng dậy ra khỏi cơi chết, và Chúa Kitô sẽ chiếu sáng trên ngươi”.

Lời của Chúa.


(Xin mời Cộng đoàn đứng)

Chúa phán: “Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống”.


PHÚC ÂM: Joan 9:1-41

“Hắn đi rửa, rồi trở lại trông thấy rơ”
Bài trích Phúc Âm theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu đi qua, thấy một người mù từ khi mới sinh. Môn đệ hỏi Người: “Thưa Thầy, ai đă phạm tội, y hay cha mẹ y, khiến y mù từ khi mới sinh?” Chúa Giêsu đáp: “Không phải y cũng chẳng phải cha mẹ y đă phạm tội, nhưng để công việc của Thiên Chúa được tỏ ra nơi y. Bao lâu c̣n ban ngày, Ta phải làm những việc của Đấng đă sai Ta. Đêm đến không ai có thể làm việc được nữa. Bao lâu Ta c̣n ở thế gian, Ta là sự sáng thế gian”. Nói xong, Người nhổ xuống đất, lấy nước miếng trộn thành bùn, rồi xoa bùn trên mắt người ấy và bảo: “Ngươi hăy đến hồ Silôe mà rửa (Chữ Silôe có nghĩa là sai đến). Hắn ra đi và rửa, rồi trở lại th́ trông thấy được. Những người láng giềng và những kẻ xưa kia từng thấy anh ta ăn xin đều nói: “Đó chẳng phải là người vẫn ngồi ăn xin sao?” Có kẻ nói: “Đúng hắn”! Lại có người bảo: “Không phải, nhưng là một người giống hắn”. C̣n anh ta th́ nói: “Chính tôi đây”. Họ hỏi y: “Làm thế nào mắt anh được sáng”? Anh ta nói: “Người mà thiên hạ gọi là Giêsu đă làm bùn xức mắt tôi và bảo: Ngươi hăy đến Silôe mà rửa. Bấy giờ tôi đi, tôi rửa và tôi trông thấy. Họ lại hỏi: “Ngài ở đâu”? Anh thưa: “Tôi không biết”. Họ liền dẫn người trước kia bị mù đến với những người biệt phái. Lư do tại Chúa Giêsu ḥa bùn và chữa mắt cho y lại nhằm ngày Sabbat. Các người biệt phái cũng hỏi y do đâu được sáng mắt? Anh đáp: “Ngài đă xoa bùn vào mắt tôi, tôi đi rửa và tôi được sáng mắt”. Mấy người biệt phái nói: “Người đó không phải bởi Thiên Chúa, v́ không giữ ngày Sabbat”. Mấy kẻ khác lại rằng: “Làm sao một người tội lỗi lại làm được những phép lạ thể ấy”? Họ bất đồng ư kiến với nhau. Họ liền quay lại hỏi người mù lần nữa: “C̣n anh, anh nói ǵ về người đă mở mắt cho anh”? Anh đáp: “Đó là một tiên tri”. Nhưng người Do Thái không muốn tin anh đă mù và đă được khỏi trước khi đ̣i cha mẹ anh đến.
Họ hỏi hai ông bà: “Người nầy có phải là con hai ông bà mà ông bà bảo bị mù từ khi mới sinh không? Do đâu mà bây giờ nó lại trông thấy”? Cha mẹ y thưa rằng: “Chúng tôi xác nhận đây chính là con chúng tôi và nó đă bị mù từ khi mới sinh. Nhưng làm sao mà bây giờ nó trông thấy, và ai đă mở mắt cho nó th́ chúng tôi không biết. Nó khôn lớn rồi, các ông hăy hỏi nó, nó sẽ tự thưa lấy”. Cha mẹ y nói thế bởi sợ người Do Thái, v́ người Do Thái đă bàn định trục xuất khỏi hội đường bất cứ ai dám công nhận Chúa Giêsu là Đấng Kitô. Chính v́ lư do này mà cha mẹ anh ta nói: “Nó khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó”. Lúc ấy người Do Thái lại gọi người trước kia đă mù đến và bảo: “Anh hăy tôn vinh Thiên Chúa! Phần chúng ta, chúng ta biết người đó là một kẻ tội lỗi”. Y trả lời: “Nếu đó là một người tội lỗi, tôi không biết, tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi mù và bây giờ tôi trông thấy”. Họ hỏi y: “Người đó đă làm ǵ cho anh? Người đó đă mở mắt anh thế nào”?
Anh thưa: “Tôi đă nói và các ông đă nghe, các ông c̣n muốn nghe ǵ nữa? Hay là các ông cũng muốn làm môn đệ Ngài chăng”? Họ liền nguyền rủa anh ta và bảo: “Mày hăy làm môn đệ của người đó đi, c̣n chúng ta, chúng ta là môn đệ của Môisen. Chúng ta biết Thiên Chúa đă nói với Môisen, c̣n người đó chúng ta không biết bởi đâu mà đến”. Anh đáp: “Đó mới thật là điều lạ: người đó đă mở mắt cho tôi, thế mà các ông không biết người đó bởi đâu. Nhưng chúng ta biết rằng Thiên Chúa không nghe lời những kẻ tội lỗi, mà hễ ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ư Chúa, th́ kẻ đó mới được Chúa nghe lời.
Xưa nay chưa từng nghe nói có ai đă mở mắt người mù từ khi mới sinh. Nếu người đó không bởi Thiên Chúa th́ đă không làm được ǵ”. Họ bảo anh ta: “Mày sinh ra trong tội mà mày dám dạy chúng ta ư”? Rồi họ đuổi y ra ngoài. Chúa Giêsu hay tin họ đuổi anh ta ra ngoài, nên khi gặp anh, Người liền bảo: “Ngươi có tin Con Thiên Chúa không”? Anh thưa: “Thưa Ngài, nhưng Người là ai để tôi tin Người”? Chúa Giêsu đáp: “Anh đang nh́n thấy Người và chính Người đang nói với anh”. Anh ta liền nói: “Lạy Thầy, tôi tin”. Và y sấp ḿnh thờ lạy Người. Chúa Giêsu liền nói: “Chính v́ để luận xét mà Ta đă đến thế gian hầu những kẻ không xem thấy, th́ được xem thấy, và những kẻ xem thấy, sẽ trở nên mù”. Những người biệt phái có mặt ở đó liền nói với Người: “Thế ra chúng tôi mù cả ư”? Chúa Giêsu đáp: “Nếu các ngươi mù, th́ các ngươi đă không mắc tội, nhưng các ngươi nói: chúng tôi xem thấy, nên tội các ngươi vẫn c̣n.

Phúc Âm của Chúa.

  _________________________________________

 

 

Ngài là ai để tôi tin Ngài?”

 

Mạc Khải “Thày là Sự Thật” cho người mù từ lúc mới sinh

 

Như tuần trước đă chia sẻ, trong ba tuần giữa (III, IV, V) của Mùa Chay thuộc Chu Kỳ Phụng Niên Năm A, Phụng Vụ Lời Chúa (ba bài Phúc Âm theo Thánh Gioan, chứ không phải theo Thánh Mathêu) cho thấy tiến tŕnh Mạc Khải tam đoạn về Con Người Giêsu là Đường Lối, là Sự Thật và là Sự Sống. Thật vậy, ở Chúa Nhật thứ III tuần trước, Chúa Giêsu đă Mạc Khải Người là Đường Lối, qua đoạn Phúc Âm tŕnh thuật về việc Người tỏ ḿnh ra cho phụ nữ tội lỗi ở miền đất Samaritanô ngoại lai, và làm cho chị nhận biết Người quả thực là Đức Kitô Thiên Sai, Vị sẽ dẫn con người đến cùng “Thiên Chúa là Thần Linh”, Đấng muốn những ai tôn thờ Ngài phải “tôn thờ trong tinh thần và chân lư” (Jn 4:24), là tất cả những ǵ Người sẽ ban cho những ai tin vào Người, để từ họ sẽ vọt lên mạch nước sự sống đời đời là Thánh Thần (xem Jn 4:14, 7:38-39). Ở Chúa Nhật thứ IV tuần này, Chúa Giêsu đă Mạc Khải Người là Sự Thật, qua đoạn Phúc Âm tŕnh thuật về việc Người tỏ ḿnh ra cho một kẻ mù từ lúc mới sinh người Do Thái ở miền đất chính giáo Giuđêa. Bởi v́, trong đoạn tŕnh thuật đây, Phúc Âm Thánh Gioan cho thấy Chúa Giêsu đă nói đến thực tại “Thày là ánh sáng thế gian” trước khi phục quang cho người mù này, cũng như nói đến tác dụng nơi việc hiện diện và hành động của Người: “Tôi đến để làm cho kẻ mù được thấy và kẻ thấy bị mù”, sau khi đă chữa lành cho người mù ấy.

 

Tiến tŕnh Mạc Khải của Chúa Giêsu trong cả ba trường hợp (Đường Lối, Sự Thật và Sự Sống) đều giống nhau, chẳng những theo chiều hướng của Phúc Âm Thánh Gioan (“Ánh sáng chiếu soi trong tăm tối” – Jn 1:5) mà c̣n theo đúng đường lối của Phúc Âm Thánh Mathêu thuộc Chu Kỳ Phụng Vụ Năm A nữa (“Cải thiện đời sống! Nước Trời đă đến” – Mt 4:17). Thật thế, theo chiều hướng của Phúc Âm Thánh Gioan, v́ là “ánh sáng thật đă đến trong thế gian chiếu soi hết mọi người” mà Chúa Giêsu, như Phúc Âm hôm nay cho thấy, đă tự động, (chứ không cần hay không phải do yêu cầu hay kêu xin của đối tượng, vốn thường xẩy ra nơi bộ ba Phúc Âm Nhất Lăm), đến với người mù từ lúc mới sinh và chữa lành cho anh ta. Để làm ǵ? Nếu không phải để anh ta có thể nh́n thấy Người mà tin vào Người hay mới có thể tin vào Người. Phải, tuyệt đỉnh của việc Chúa Giêsu tỏ ḿnh cho người mù từ lúc mới sinh này là ở chỗ đó. Ở chỗ, như Phúc Âm hôm nay cho biết: “Chúa Giêsu hay tin họ đuổi anh ta ra ngoài, Người t́m gặp anh mà hỏi: ‘Anh có tin Con Thiên Chúa không?’ Anh đáp: ‘Thưa ông, Ngài là ai để tôi tin Ngài?’ Chúa Giêsu phán: ‘Anh đă nh́n thấy Ngài, Đấng đang nói với anh đây’. Anh ta liền nói: ‘Lạy Chúa, tôi tin’ rồi sấp ḿnh xuống thờ lạy Người”.

 

Tuy nhiên, tŕnh thuật Mạc Khải này của Chúa Giêsu cũng hợp với đường lối của Phúc Âm Thánh Mathêu nữa. Nếu yếu tố nhân sinh (cải thiện đời sống) được đặt trước yếu tố Thần Linh (Nước Trời đă đến) thế nào, trong tŕnh thuật Phúc Âm Thánh Gioan hôm nay chúng ta cũng thấy rơ điều đó. Thật vậy, ngay trước khi được Chúa Giêsu hoàn toàn tỏ ḿnh ra cho ḿnh, nghĩa là trước khi người mù từ lúc mới sinh chẳng những tuyên xưng đức tin mà c̣n tỏ cử chỉ phục xuống tôn thờ Người, anh ta đă phải tỏ ḷng khát khao mong muốn biết Người là ai: “Thưa ông Ngài là ai để tôi tin Ngài?”. Như thế, nếu anh ta không tỏ ra yếu tố nhân sinh quyết liệt này trước, th́ thử hỏi anh ta có được thấy “Nước Trời đă đến” ngay trước đôi mắt vừa được chữa lành của anh ta hay chăng? Hoặc anh ta lại rơi vào trường hợp của chín trong mười người tật phong, sau khi được chữa lành, đă không hề quay trở lại để nhận biết Đấng đă chữa lành cho ḿnh bằng việc tạ ơn Người, như một người ngoại lai trong họ đă làm (xem Lk 17:11-19). Thật ra, qua những đối đáp của anh ta với nhóm Pharisiêu, anh ta chẳng những đă tỏ ra niềm tin của ḿnh vào Đấng đă chữa lành cho anh ta, mà c̣n hiên ngang làm chứng cho một Đấng anh ta chưa hề được trực diện, chưa hề được diện kiến dung nhan để có dịp dâng lời tạ ơn Người. V́ trước khi thấy đă tin rồi, (tin trước biết sau là như thế), nên khi anh ta vừa được hỏi “Anh có tin Con Thiên Chúa không?”, anh liền tỏ ước muốn tin tưởng của ḿnh ngay, nhờ đó, và cũng chỉ nhờ đó, anh mới được và đă được hoàn toàn thấy “Sự Thật”, thấy được “Con Thiên Chúa” Làm Người.

 

Mạc Khải “Thày là Sự Thật” theo ư nghĩa của Mùa Chay

 

Thế nhưng, tại sao Giáo Hội lại đặt tŕnh thuật của Phúc Âm Thánh Gioan về việc Chúa Giêsu chữa người mù từ lúc mới sinh này vào Mùa Chay, trước tŕnh thuật về người phụ nữ Samaritanô và sau tŕnh thuật về Lazarô được hồi sinh? Hay nói cách khác, đâu là ư nghĩa của bài Phúc Âm hôm nay trong Mùa Chay?

Như đă đề cập đến ở hai bài chia sẻ, tuần về biến cố biến h́nh hai tuần trước và tuần về biến cố bên bờ giếng Giacóp vừa rồi, Mùa Chay là thời gian hướng về và sửa soạn cho Biến Cố Vượt Qua, tuyệt đỉnh của Mầu Nhiệm Kitô Giáo. Thế nhưng, con người không thể chấp nhận và nhờ đó mới có thể thông phần vào Biến Cố Vượt Qua này, một biến cố đă làm rung chuyển tận gốc rễ nền tảng đức tin của Nhóm 12 bấy giờ, nếu con người không chịu bỏ ḿnh và nhờ đó mới có thể tin tưởng, nghĩa là mới có thể cùng Người Vượt Qua: “Tôi nói thật cho quí vị biết, ai nghe lời Tôi mà tin vào Đấng đă sai Tôi th́ có sự sống trường sinh. Họ không bị luận phạt, song vượt qua sự chết mà vào sự sống” (Jn 5:24). Ngay trong biến cố biến h́nh, ba môn đệ đă chẳng nghe thấy có tiếng phán ra từ đám mây hay sao: “Đây là Con Ta yêu dấu, Ta hài ḷng về Người. Hăy nghe lời Người” (Mt 17:5). Như thế, chính Cha trên trời cũng làm chứng về Con ḿnh, để con người có thể tin tưởng Đấng Ngài sai.

 

Đó là lư do, hai tuần đầu của Mùa Chay, Giáo Hội đă khôn ngoan đặt bài Phúc Âm về biến cố Chúa Giêsu chịu cám dỗ trước biến cố Chúa Giêsu biến h́nh, với mục đích để củng cố đức tin Kitô hữu, tức để Kitô hữu thấy được ư nghĩa và mục đích sâu xa của bỏ ḿnh và chịu đựng khổ đau. Ngay trong biến cố biến h́nh của ḿnh, Chúa Giêsu cũng có ư hướng muốn củng cố đức tin của ba người môn đệ thân tín nhất của Người nữa. Bởi thế, cuối tŕnh thuật về biến cố biến h́nh này, Người mới hướng các vị về biến cố Phục Sinh của Người: “Đừng nói với bất cứ ai những ǵ các con thấy cho đến khi Con Người từ trong cơi chết sống lại” (Mt 17:9). Về phía con người, cho dù đức tin của Nhóm 12, nhất là của cả 3 vị thân tín nhất đă được tận mắt chứng kiến vinh hiển của Con Thiên Chúa qua biến cố biến h́nh, có bị choáng váng tối tăm đến chối bỏ “Sự Thật”, nhưng, nhờ những ǵ Thày đă làm trước hay báo trước về Người (xem Jn 13:19), cuối cùng họ cũng đă tin vào Người: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi” (Jn 20:28).

 

Như thế, nếu chứng từ là yếu tố thuộc về Mùa Phục Sinh thế nào, th́ đức tin là yếu tố làm nên Mùa Chay như vậy. Đó là lư do Phụng Vụ Lời Chúa theo Phúc Âm Thánh Gioan cho ba tuần giữa (III, IV, V) của Chu Kỳ Phụng Niên Năm A nói chung, cũng như của Chúa Nhật Thứ III Mùa Chay hôm nay nói riêng, mới tŕnh thuật về việc Chúa Giêsu tỏ ḿnh ra để làm cho con người tin vào Người mà được sự sống đời đời. Bởi nguyên tội, con người đều là những người mù từ lúc mới sinh, không thể nào nhận biết “Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn 4:24), nếu không được Ngài mở mắt tâm linh ra cho. Thật ra, Thiên Chúa luôn ở bên con người và tỏ ḿnh cho con người, như trường hợp của người phụ nữ Samaritanô trong bài Phúc Âm tuần trước, hay của người mù từ lúc mới sinh trong bài Phúc Âm tuần này: “Ta chính là Đấng đang nói với chị/anh” (Jn 4:26; 9:37), với chúng ta.

 

Tuy nhiên, muốn nhận ra Người, như hai nhân vật trong hai bài Phúc Âm tuần trước và tuần này, chúng ta phải chân thành và khao khát t́m kiếm chân lư. Có thế, tới giây phút hội ngộ thần linh, giây phút cảm nghiệm thần linh, chúng ta mới nghe được tiếng của Người, nhận ra những ǵ Người đă nói với chúng ta, như trường hợp của người phụ nữ Samaritanô, hay những ǵ Người đă làm cho chúng ta, như trường hợp của người mù từ lúc mới sinh. Và từ cuộc hội ngộ thần linh này, chúng ta mới có thể loan báo về Người, như trường hợp của người đàn bà Samaritanô, hay mới có thể phục xuống thờ lạy Người, như trường hợp của người mù từ lúc mới sinh. Riêng trong trường hợp của Người mù từ lúc mới sinh, ngay trước khi gặp được Đấng phục quang cho ḿnh, anh đă làm chứng về Người rồi, chứ không cần đợi đến sau khi nhận ra Người, như trường hợp của chị phụ nữ Samaritanô. Một con người sống theo lương tâm chân chính có thể làm chứng cho chân lư là thế: “Ai t́m kiếm chân lư sẽ nghe thấy tiếng của Tôi” (Jn 18:37) là thế; “chiên Tôi th́ nghe tiếng Tôi. Tôi biết chúng và chúng theo Tôi” (Jn 10:27) là như vậy. Nếu trong Biến Cố Vượt Qua, Chúa Giêsu muốn “làm chứng cho chân lư” (Jn 18:37) Người là Đấng Thiên Sai và Cha là Đấng đă sai Người, th́ người mù từ lúc mới sinh hôm nay, qua những minh chứng hùng hồn theo lư lẽ tự nhiên cùng với cảm nghiệm thần linh của anh trước nhóm Pharisiêu thông luật, quả thực đă tin tưởng đúng như những ǵ Chúa Giêsu muốn đến để làm chứng: “Nếu người này không từ Thiên Chúa mà đến th́ không thể nào làm được một việc như vậy” (Jn 9:33).

 

Vấn đề thực hành sống đạo: Mùa Chay là thời điểm hướng về Biến Cố Vượt Qua và sửa soạn cho Biến Cố Vượt Qua, bằng những việc củng cố Đức Tin, những tác động làm cho Kitô hữu nhờ đó có thể hiệp thông với Chúa Kitô Phục Sinh hơn. Bởi vậy, Mùa Chay sẽ chẳng có nghĩa ǵ, thậm chí những việc hy sinh hăm ḿnh, chay tịnh phạt xác, ăn năn thống hối cũng chẳng có nghĩa lư ǵ, nếu con người không nhờ đó mà tin tưởng hơn, gắn bó với Chúa Kitô hơn, theo sát Người hơn, cảm thấy vinh dự v́ thập giá của Người hơn. Đúng thế, chỉ có đức tin trưởng thành và mănh liệt như thế, con người môn đệ Chúa Kitô mới thực sự là những chứng nhân sống động của Người và cho Người đến tận cùng trái đất mà thôi (xem Lk 24:48).  

 

 

 

 

CHÚA KITÔ LÀ ĐƯỜNG DẪN ĐẾN ÁNH SÁNG, LÀ SỰ THẬT VÀ LÀ SỰ SỐNG

 

(Thánh Âu Quốc Tinh: Bài giảng về Phúc Âm Thánh Gioan: Tract. 34:8-9: CCL 36:315-316)

 

 

Chúa nói với chúng ta rằng: Thày là ánh sáng thế gian; ai theo Thày sẽ không đi trong tăm tối, song sẽ được ánh sáng sự sống. Qua mấy lời này, Người đă ban bố một lệnh truyền và đưa ra một lời hứa hẹn. Chúng ta hăy làm theo những ǵ Người truyền khiến để chúng ta khỏi bị hổ thẹn v́ ham hố những ǵ Người hứa hẹn rồi nghe Người phán trong ngày phán xét rằng: 'Ta đă ra một số điều kiện để giúp chiếm được những lời hứa của Ta. Vậy các người đă làm trọn những điều kiện ấy chưa?' Nếu anh em nói: 'Chúa đă truyền khiến những ǵ cơ, Lạy Chúa là Thiên Chúa của chúng tôi?' Người sẽ bảo anh em rằng: 'Ta đă truyền các người hăy theo Ta. Các người đă tham vấn về cách nào để được hưởng sự sống. Sự sống ấy là ǵ, nếu không phải là sự sống đă được chép là nguồn mạch sự sống ở nơi Người hay sao?'

 

Giờ đây chúng ta hăy làm theo những ǵ Người truyền khiến chúng ta. Chúng ta hăy bước theo chân Chúa. Chúng ta hăy chặt đứt xiềng xích trói buộc không cho chúng ta theo Người. Ai có thể chặt đứt những mắt xích này mà không cần đến sự trợ giúp của Đấng đă nói những lời này: Ngài đă bẻ gẫy xiềng xích cho tôi? Bài Thánh Vịnh khác nói về Người: Chúa giải thoát những ai bị xiềng xích, Chúa nâng kẻ ê chề lên.

 

Những ai đă được giải thoát và được nâng lên th́ bước theo ánh sáng. Ánh sáng họ bước theo nói với họ rằng: Tôi là ánh sáng thế gian; ai theo Tôi sẽ không đi trong tăm tối. Chúa ban ánh sáng cho người mù ḷa. Hỡi anh em, ánh sáng ấy giờ đây chiếu trên chúng ta, v́ đôi mắt của chúng ta đă được xức thứ thuốc chữa mắt đức tin. Nước miếng của Người đă trộn với đất để bôi lên người mù từ lúc mới sinh. Chúng ta là gịng dơi của Adong, bị mù từ lúc mới sinh; chúng ta cần Người ban cho chúng ta ánh sáng. Người đă trộn nước miếng với đất như đă được tiên phán: Chân lư từ đất nở ra. Chính Người cũng đă phán: Thày là đường, là sự thật và là sự sống.

 

Chúng ta sẽ chiếm hữu được chân lư khi chúng ta được diện kiến. Người đă hứa với chúng ta điều này. Ai dám hy vọng những ǵ Thiên Chúa không muốn hứa hay ban theo ḷng thiện hảo của Ngài?

 

Chúng ta sẽ được diện kiến. Thánh Tông Đồ viết: Giờ đây tôi biết được một phần nào thôi, mờ mờ như qua một gương soi, rồi mới được diện kiến. Thánh Gioan tông đồ viết ở một trong các lá thư của ngài là: Các con yêu dấu, chúng ta giờ đây là con cái Thiên Chúa, và những ǵ chúng ta là th́ chưa được tỏ hiện. Chúng ta biết rằng khi Người tỏ hiện chúng ta cũng sẽ được giống như Người, v́ chúng ta sẽ được thấy Người như Người là. Đó là một lời hứa hẹn trọng đại.

 

Nếu các con yêu mến Thày th́ hăy theo Thày. Anh em cự nự: ‘Tôi quả có yêu Thày, nhưng tôi theo Thày như thế nào đây?’ Nếu Chúa là Thiên Chúa của anh em nói với anh em rằng: ‘Thày là sự thật và là sự sống’ nơi ḷng anh em khát muốn sự thật, nơi ḷng anh em yêu chuộng sự sống, chắc chắn anh em sẽ xin Người hăy tỏ cho anh em cách thức tiến tới những điều ấy. Anh em sẽ nói với ḿnh rằng: ‘Sự thật là một thực tại cao cả, sự sống là một thực tại trọng đại; chỉ cần linh hồn có thể t́m thấy chúng!’.

 

(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ The Office of Readings, Saint Paul Editions, 1983, trang 418-419)

 

ANH MÙ

Trần Mỹ Duyệt


Nhân dáng Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế và Cứu Chuộc nhân trần đang được từ từ hiển lộ; đặc biệt, vào thời điểm Ngài sắp sửa chấp nhận chịu chết để hoàn thành sứ mạng. Trước hết, Ngài hiển lộ với các Tông Đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan trên núi cao. Tiếp đến, Ngài xuất hiện trước người thiếu phụ Samaria bên giếng Giacob. Và lần này với anh mù từ lúc lọt ḷng mẹ.

Tùy theo tầm mức và đối tượng, Chúa hiển lộ theo một cách thức khác nhau và mục đích khác nhau. Với các Tông Đồ Phêrô, Giacôbê, và Gioan, Ngài phải dẫn các ông lên núi cao, và cho các ông thấy vinh quang Ngài. Một vinh quang thực của Ngài sau cái nhân dáng b́nh thường mà các ông vẫn thường nh́n thấy, động chạm, và rờ mó được. Đó là Con Thiên Chúa, luôn luôn làm đẹp ḷng Chúa Cha, mọi người phải nghe Ngài. Ngài làm thế, v́ sau này chính các ông – những người đă theo Ngài – sẽ là những chứng nhân cho Ngài. Mà v́ cuộc đời chứng nhân ấy đ̣i hỏi nhiều thử thách, hy sinh và tử đạo, nên Ngài đă khích lệ các ông cũng như tất cả những ai sẽ tin theo lời chứng các ông sau này bằng vinh quang phục sinh mà điển h́nh là trạng thái vinh hiển mà các ông đă thấy trên núi hôm đó.

Nhưng có lẽ phần đông nhân loại sống trong ơn gọi hôn nhân, gia đ́nh. Một cuộc đời vất vả, bon chen, và phải vật lộn với thực tế cuộc sống. Ơn gọi này tuy thánh thiện, nhưng cũng nhiều thử thách, và cám dỗ được nh́n thấy qua h́nh ảnh người thiếu phụ Samaria. Họ là những chiên lạc, những con chiên đang lang thang trong sa mạc cuộc đời cần được Ngài t́m kiếm và đem về. Do đó, Chúa đă đến với người thiếu phụ Samaria bằng h́nh ảnh một giếng nước. Nhu cầu thiết thân với con người và cuộc sống. Nhưng không phải là nước kín lên từ giếng Giacob hay bất cứ giếng nước nào. Chúa Giêsu chính là giếng nước hằng sống, giếng nước vọt lên trong ḷng người uống mạch nước hằng sống sẽ được khải mở trên núi Sọ khi trái tim Ngài bị lưỡi đ̣ng của Longchinô đâm thủng.

Và hôm nay, với thành phần cùng khổ của xă hội, thành phần bị xă hội bỏ rơi, quên lăng là những người mù ḷa, tàng tật, bệnh tật thân xác và tâm hồn mà anh mù từ lúc mới sinh này là một đại diện. Chúa cũng đă đến với họ, v́ họ cũng là con của Ngài, và cũng có trong danh sách những người mà Ngài sẽ đổ máu ra cho họ. Sự mở mắt thể xác cho anh là một h́nh ảnh mở mắt tâm linh cho những tội nhân, những người chưa một lần nh́n ánh sáng cứu độ. Và đó là lư do Ngài đă đụng chạm, đă hướng dẫn anh và đă chữa lành anh.

Tóm lại, dù là Tông đồ, dù là tội nhân, hay dù là bất cứ ai khác trong nhân loại, tất cả đều là đối tượng của t́nh thương Ngài. Đều là mục đích của cuộc giáng trần, và biến cố đổ máu của Ngài trên đỉnh núi Sọ. Và người mà các Tông Đồ, người thiếu phụ Samaria, và anh mù đă thấy đó chính là Chúa Giêsu.

Nhưng qua biến cố Chúa chữa lành anh mù từ lúc mới sinh đây, một điều làm cho Kitô hữu chúng ta cần phải suy nghĩ và tự vấn, đó là câu hỏi mà chính Chúa Giêsu đă hỏi anh: “Anh có tin kính Con Người không?” (Gio 9:35), và câu trả lời của anh: “Ngài là ai để tôi tin kính Ngài” (Gio 9:36). V́ qua mẩu đối thoại này, ta có thể nhận ra rằng anh mù này mù thật và rất cần được mở mắt. Thực tế, anh đă kêu xin Chúa mở mắt cho anh lúc anh c̣n đang mù. Anh đă đi rửa mắt ở suối Siloam nơi Ngài bảo anh đi. Anh đă được sáng mắt. Thế mà khi anh đối diện với Đấng đă chữa anh khỏi mù, anh lại không biết. Mù th́ nhận ra Chúa, nhưng khi được Ngài khai mở con mắt cho lại không nh́n ra Ngài. Phải chăng đó cũng là trạng thái sống và suy nghĩ của nhiều người trong chúng ta.

Nhiều lần và trong nhiều trường hợp, chúng ta nghe, chúng ta nói, chúng ta đọc và viết về Ngài. Nhiều lần Ngài đă làm những phép lạ lớn lao trong đời sống chúng ta như đă chữa lành anh mù từ lúc mới sinh, nhưng khi đối diện với Ngài, chúng ta cũng không nhận ra Ngài. Đó là những lúc chúng ta được nghe nói về Ngài, say sưa về những ơn lành Ngài ban tặng, cũng như ngỡ ngàng và sửng sốt trước những phép lạ Ngài thực hiện cho chính ḿnh, người thân trong gia đ́nh, nhưng rồi chúng ta đă không nhận ra bàn tay quan pḥng và t́nh thương Ngài. Những lúc chúng ta nghi ngờ về t́nh thương và quan pḥng của Ngài. Những lúc như thế, dù Ngài đứng trước mặt chúng ta, chúng ta cũng đă không nhận ra Ngài.

Mù th́ nhận ra Chúa, nhưng lúc sáng lại không nhận ra. Đau khổ th́ đi t́m Chúa, nhưng lúc được Ngài an ủi, vỗ về th́ lại quên Ngài. Do đó, chúng ta cần phải bắt chước anh mù để khiêm tốn nhận ra sự mù ḷa của ḿnh bằng cách hỏi Ngài: “Ngài là ai để tôi tin kính Ngài?”. Và chính nhờ câu nói này, anh mới thực sự được chữa lành. Lúc đó, mắt anh mới thật sự sáng để nhận ra người đang đứng trước mặt ḿnh là Con Người, và đă qú gối trước mặt Ngài với ḷng tin kính như anh đă tuyên xưng trước đó: “Lậy Chúa con tin, và anh sấp ḿnh thờ lậy Ngài” (Gio 9:38).

H́nh ảnh anh mù, và đường lối t́m hiểu, tuyên xưng Con Thiên Chúa chính là h́nh ảnh, lối sống và cách tin nhận của mỗi Kitô hữu chúng ta. Chúng ta phải chấp nhận sự mù ḷa tâm linh ḿnh, và phải ngỏ lời kêu van Thiên Chúa chữa lành. Nhất là chúng ta phải t́m kiếm để nhận ra sự hiện diện Ngài, nhận ra những dấu lạ Ngài thực hiện trong đời sống chúng ta. Và như anh mù, chúng ta cần phải qú lậy và tuyên xưng những phép lạ ấy trong cuộc đời ḿnh bằng cách biết ơn, tin kính và sống lời Ngài, làm chứng nhân cho Ngài ngay trong cuộc đời và ơn gọi của mỗi người.