Chúa Nhật

19/6: Thánh Juliana (1270-1341)

Sáng lập dòng Chị Em Dòng Tôi Tớ Đức Mẹ,

chuyên lo giáo dục trẻ em và chăm sóc bệnh nhân.

Năm 15 tuổi, mặc áo dòng các nữ tu Servites,

Nữ tu viện thánh nhân lãnh đạo 40 năm được mang danh “chị em áo choàng”.

 


CHÚA NHẬT XII QUANH NĂM



BÀI ĐỌC I: Jer 20:10-13

“Người đã cứu thoát mạng sống người bất hạnh khỏi tay kẻ dữ”
Bài trích sách Tiên tri Giêrêmia.

Ta đã từng nghe nhiều người thóa mạ và chế nhạo rằng: “Người nầy gieo khủng bố khắp nơi: Hãy tố cáo nó, chúng ta hãy tố cáo nó”. Tất cả bạn hữu tôi rình tôi vấp ngã mà nói rằng: “Ước gì nó bị lừa dối để chúng ta thắng nó và sẽ trả thù nó”. Nhưng Chúa ở cùng tôi như người lính chiến hùng dũng; vì thế, những kẻ bắt bớ tôi sẽ ngã quỵ và kiệt sức: Chúng sẽ thất bại bẽ bàng, chuốc lấy sự hổ nhục muôn đời, không bao giờ quên được. Còn Chúa, lạy Chúa các đạo binh, Đấng xét xử người công chính, thấu suốt tâm can, lạy Chúa, ước gì tôi sẽ được thấy Chúa trả thù nó cho tôi, vì tôi đã tỏ bày công việc tôi cho Chúa. Hãy hát mừng Chúa, hãy ca tụng Chúa, vì Người đã cứu thoát mạng sống người bất hạnh khỏi tay kẻ dữ.

Lời của Chúa.


Đáp Ca: (Xin mời Cộng đoàn thưa)

Lạy Chúa, xin nhậm lời tôi theo lượng cả đức từ bi.

1.      Sở dĩ vì Chúa mà tôi chịu nhục, và thẹn thò làm nhơ nhuốc mặt tôi. Tôi bị những người anh em coi như khách lạ, bị những người cùng con một mẹ xem như kẻ ngoại lai. Sự nhiệt tâm lo việc nhà Chúa khiến tôi mòn mỏi, điều tủi nhục người ta nhục mạ Chúa đổ trên mình tôi.

2.      Nhưng, lạy Chúa, tôi dâng lời nguyện cầu lên Chúa, ôi Thiên Chúa, đây là lúc biểu lộ tình thương. Xin nhậm lời tôi theo lượng cả đức từ bi, theo ơn phù trợ trung thành của Chúa. Lạy Chúa, xin nhận lời tôi vì lòng khoan nhân trắc ẩn, theo lượng cả đức từ bi xin nhìn đến tấm thân tôi.

3.      Các bạn khiêm cung, hãy nhìn coi và hoan hỉ, các bạn tìm kiếm Chúa, lòng các bạn hãy hồi sinh: vì Chúa nghe những người cơ khổ và không chê bỏ con dân Người bị bắt cầm tù. Hãy ngợi khen Chúa, hỡi trời và đất, biển khơi và muôn vật sống động bên trong.


BÀI ĐỌC II: Rom 5:12-15

“Không phải như tội phạm thế nào, thì ơn ban cũng thế ấy đâu”
Bài trích thơ Thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, cũng như do một người mà tội lỗi đã nhập vào thế gian, và do tội lỗi mà có sự chết, và thế là sự chết đã truyền tới mọi người, vì lẽ rằng mọi người đã phạm tội. Trước khi có lề luật, đã có tội trên thế gian; nhưng tội không bị bắt lỗi, khi không có lề luật. Nhưng từ Ađam cho đến Môisen, sự chết ngự trị cả trên những kẻ không phạm tội giống như sự lỗi phạm của Ađam, hình ảnh của người đến sau. Nhưng không phải như tội phạm thế nào, thì ơn ban cũng thế ấy đâu, vì nếu do tội của một người mà nhiều người phải chết, thì ơn nghĩa của Thiên Chúa và ân huệ ban do ơn một người là Đức Giêsu Kitô, làm cho nhiều người được ơn dư đầy hơn bội phần.

Lời của Chúa.


 (Xin mời Cộng đoàn đứng)
Alleluia, alleluia. --- Chúa phán: “Lời Cha là chân lý; xin hãy thánh hóa chúng trong sự thật”. --- Alleluia.


PHÚC ÂM: Mt 10:26-33

“Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác”
Bài trích Phúc Âm theo Thánh Matthêô.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Các con đừng sợ những người đó, vì không có gì che giấu mà không bị thố lộ; và không có gì kín nhiệm mà không hề hay biết. Điều Thầy nói với các con trong bóng tối, hãy nói nơi ánh sáng; và điều các con nghe rỉ tai, hãy rao giảng trên mái nhà. Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn: Các con hãy sợ Đấng có thể ném cả xác lẫn hồn xuống địa ngục. Nào người ta không bán hai chim sẻ với một đồng tiền đó sao? Thế mà không con nào rơi xuống đất mà Cha các con  không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi. Vậy các con đừng sợ: các con còn đáng giá hơn chim sẻ bội phần. Vậy ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Thầy là Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ chối nó trước mặt Cha Thầy là Đấng ngự trên trời” .

Phúc Âm của Chúa.


 

SUY NIỆM LỜI CHÚA
 


“Kẻ gieo khủng bố khắp nơi”

 


Phụng Vụ Lời Chúa, nhất là bài Phúc Âm, cho Chúa Nhật XII Thường Niên Năm A hôm nay tiếp tục bài Phúc Âm tuần trước về đề tài truyền giáo. Tuần trước Chúa Giêsu triệu tập 12 tông đồ và sai các vị đi đến với chiên lạc Nhà Yến Duyên để rao giảng đề tài “Nước Thiên Chúa đã đến”, với tinh thần phục vụ vô tư “đã lãnh nhận nhưng không thì cũng cho đi nhưng không”. Xin lưu ý ở đây là Giáo Hội bỏ nhiều chi tiết (17 câu Phúc Âm) khác trong cùng Bài Huấn Dụ Truyền Giáo Chúa Giêsu muốn căn dặn các tông đồ được Phúc Âm Thánh Mathêu ghi lại, giữa câu kết thúc bài Phúc Âm tuần trước (10:8) và câu mở đầu của bài Phúc Âm tuần này (10:26). Những chi tiết bị bỏ qua ở đây, một số đã được Phúc Âm Thánh Luca nhắc đến trong Chúa Nhật Thường Niên XIV Năm C, liên quan đến hành trang truyền giáo và tư cách truyền giáo. Tuần này, qua bài Phúc Âm, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến việc truyền giáo ở ba điều chính yếu sau đây: Thứ nhất, về vấn đề truyền giáo: “Những gì các con nghe trong tăm tối hãy nói giữa ban ngày. Những gì các con nghe trong âm thầm, hãy rao giảng trên mái nhà”. Thứ hai, về vấn đề tinh thần truyền giáo: “Các con đừng sợ những kẻ chỉ sát hại được thân xác… đừng sợ bất cứ điều gì”. Thứ ba, về vấn đề mục đích truyền giáo là tỏ Thày ra, bằng cách “nhận biết Thày trước mặt con người”.

“Những gì các con nghe…”

Thật ra, vấn đề truyền giáo được Chúa Giêsu căn dặn các tông đồ trong bài Phúc Âm tuần này cũng chỉ là phụ diễn hay khai triển chủ đề truyền giáo nồng cốt chính yếu là “Triều Đại Thiên Chúa đã đến!” được Phúc Âm tuần trước nhắc đến mà thôi. Đúng thế, “những gì các con nghe trong tăm tối hãy nói giữa ban ngày. Những gì các con nghe trong âm thầm, hãy rao giảng trên mái nhà” đây là gì, nếu không phải là chính Nước Trời, là chính Chúa Giêsu Kitô, là chính Mạc Khải Thần Linh Thiên Chúa muốn tỏ cho con người. Đó là lý do, sau khi giảng dạy dụ ngôn Nước Trời cho chung dân chúng nghe, Chúa Giêsu còn cắt nghĩa riêng cho các tông đồ hiểu rõ hơn về Mầu Nhiệm Nước Trời (xem Mt 13:34-43). Đó cũng là lý do, như chính lời Chúa Giêsu thưa cùng Cha của Người: “Những gì Cha đã giấu những kẻ khôn lanh thông thái thì Cha lại tỏ những con trẻ bé mọn nhất biết” (Lk 10:21). Đó còn là lý do, để trắc nghiệm xem trình độ đức tin hay kiến thức thần linh của thành phần chứng nhân tiên khởi là các tông đồ này ra sao, Chúa Giêsu có lần đã hỏi: “Phần các con, các con cho rằng Thày là ai?” (Mt 16:15). Phải, chủ đề Nhóm 12 được Chúa Kitô triệu tập và sai đi rao giảng đây là “Triều Đại Thiên Chúa đã đến” cũng là Đấng Thiên Sai đã đến, một Đấng Thiên Sai không phải ai cũng có thể tự động nhận ra, nếu không có Thần Linh Thiên Chúa, nếu không được Người tự tỏ mình ra cho: “Không ai biết Con trừ ra Cha, và không ai biết Cha trừ ra Con và những ai Con muốn tỏ ra cho biết” (Lk 10:22).

Và đường lối để Thiên Chúa tỏ mình ra cho con người đó là “trong tăm tối” và “trong âm thầm”. “Trong tăm tối” là ở chỗ cả khi Người đã tỏ ra cho họ biết rồi mà họ cũng không hiểu được chính thực tại mạc khải của Người. Đến nỗi, một số đã cảm thấy “những lời đó chói tai ai nghe cho lọt” rồi bỏ Người mà đi sau khi nghe Bài Giảng Về Bánh Hằng Sống của Người (x Jn 6:60-61). Hay như trường hợp chính vị tông đồ Phêrô ngay sau khi được Thày khen về lời tuyên xưng “Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa” (Mt 16:16) của ngài, liền bị Thày quở trách nặng lời: “Hỡi Satan, hãy xéo đi cho khuất mắt Ta” (Mt 16:23). Hoặc như trường hợp “tất cả đều bỏ Người mà chạy thoát thân” (Mk 14:50) khi các tông đồ thấy Đấng Thiên Sai Thày mình bị bắt giải đi trong Vườn Cây Dầu sau Bữa Tiệc Ly. “Trong âm thầm”, ở chỗ Mạc Khải Thần Linh được tỏ cho từng người hay từng nhóm người được tuyển chọn. Như trường hợp Chúa Giêsu âm thầm tỏ mình với riêng người đàn bà Samaritanô bên bờ giếng Giacóp vào một buổi trưa mùa hè. Hoặc như trường hợp Chúa Kitô Phục Sinh âm thầm tỏ mình với riêng hai môn đệ trên đường đi Emmau trong lúc các vị đang bối rối về sự kiện Thày mình thực sự đã chết mà lại được tin Người sống lại rồi. Hay như trường hợp Chúa Kitô Phục Sinh âm thầm tỏ mình với riêng các tông đồ vào tối ngày thứ nhất trong tuần, để tái sinh các vị bằng “phép rửa trong Thánh Linh” (Jn 1:33; x. 20:22), nhất là với chung các vị vào tám ngày sau để tỏ mình cho riêng tông đồ Tôma (x. Jn 20:26-29).

“Các con đừng sợ …”

Mục đích của việc Lời Nhập Thể là Chúa Giêsu Kitô tỏ mình ra cho riêng một số người, đặc biệt là thành phần tông đồ của Người, không phải chỉ là để cho các vị tin vào Người, ở chỗ: “Giờ đây Thày nói cho các con biết trước khi nó xẩy ra, để khi nó xẩy ra thì các con tin Thày Là Ai?” (Jn 13:19), song còn để các vị nhờ tin mà trở thành “những nhân chứng về điều ấy” (Lk 24:48), tức “các con là những chứng nhân của Thày… cho đến tận cùng trái đất” (Acts 1:8). Đó là lý do, sau khi được Cảm Nghiệm Thần Linh: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi” (Jn 20:28), như tông đồ Tôma trước Đấng Thiên Sai Phục Sinh, các tông đồ đã thực sự trở thành những chứng nhân tiên khởi của Đấng Thiên Sai Lời Nhập Thể, đúng như người tông đồ được Chúa Giêsu yêu chân thành chia sẻ: “Đây là những gì chúng tôi loan báo cho anh em: những gì có từ ban đầu, những gì chúng tôi đã nghe, những gì chúng tôi đã tận mắt thấy, những gì chúng tôi đã chiêm ngắm và đã đụng chạm đến… để anh em cũng được chia sẻ sự sống với chúng tôi” (1Jn 1:1,3).

Thế nhưng, chính vì nội dung của những gì được tỏ ra cho các vị “trong tối tăm” và “trong âm thầm” này mà các vị đã bị chống đối, bắt bớ và sát hại. Bởi vì, Thực Tại Thần Linh nơi những mạc khải này chính là Lời Nhập Thể Thiên Sai, một Đường Lối thế gian không thể chấp nhận được, một Sự Thật thế gian không thể hiểu thấu nổi, và là một Sự Sống thế gian không thể nào thừa hưởng. Đúng thế, vì “con người yêu chuộng tối tăm hơn ánh sáng” (Jn 3:19), mà “ai hành ác thì ghét ánh sáng; họ không đến gần ánh sáng, vì sợ các việc họ làm bị lộ tẩy” (Jn 3:20), trong khi đó, Lời Nhập Thể chính là “ánh sáng thật chiếu soi mọi người đã đến trong thế gian” (Jn 1:9), nên con người thế gian rất sợ Người. Bởi đến với Người thì phải từ bỏ, và theo Người thì phải vác thập giá (x Mt 16:24). Do đó, họ đã tìm cách chẳng những sát hại Người mà còn truy sát cả những sứ giả hay thừa sai rao giảng về Người nữa. Đó là lý do, ngay thời Cựu Ước, các vị tiên tri cũng đã bị bắt bớ. Trong bài đọc thứ nhất hôm nay, tiên tri Giêrêmia đã cho biết: “Tôi đã nghe thấy nhiều người thóa mạ và chế nhạo rằng: ‘Người này gieo khủng bố khắp nơi: Hãy tố cáo nó, chúng ta hãy tố cáo nó’ Tất cả bạn hữu của tôi rình tôi vấp ngã mà nói rằng: ‘Ước gì nó bị lừa dối để chúng ta thắng nó và sẽ trả thù nó’”.

Đúng thế, con người là loài có lý trí và lương tri, lúc nào cũng hướng về và tìm kiếm chân lý. Thế nhưng, ngược đời thay, họ lại rất sợ chân lý, nên khi vừa trông thấy chân lý từ xa trong tâm trí của mình (trước khi chọn lựa và tác hành chẳng hạn), hay khi đã thấy rõ chân lý ngay trong lương tâm của mình (sau khi vấp phạm chẳng hạn), đã cố tránh né chân lý, chối bỏ chân lý, phủ lấp chân lý, hay thay thế chân lý (lập luận trấn an lương tâm). Trước tâm trạng sợ hãi chân lý như thế, thì đối với thế gian, thành phần sứ giả và thừa sai rao giảng Chân Lý Thần Linh quả thực chính là thành phần “gieo khủng bố khắp nơi”. Trong Tân Ước cũng thế, vì không thể chối cãi được thực tại những gì tông đồ Phêrô và Gioan làm nhân danh Chúa Giêsu Phục Sinh, Hội Đồng Do Thái đã dùng quyền hành của mình để cấm đoán không cho các ngài rao giảng về Người nữa: “Chúng ta phải làm gì với những người này đây. Mọi người ở Giêrusalem đều biết được những gì xẩy ra một cách lạ lùng bởi quyền năng của họ. Chúng ta không thể phủ nhận được điều ấy. Để chặn đứng cho nó khỏi lan truyền sâu rộng hơn, chúng ta phải nghiêm ngặt cảnh cáo họ không bao giờ được đề cập đến tên ấy cho bất cứ ai nữa” (Acts 4:15-17).


“Nhận biết Thày trước mặt con người”

Hiện tượng và sự kiện thành phần sứ giả hay thừa sai rao giảng Chân Lý Thần Linh bị thế gian chống đối, bắt bớ và sát hại cho thấy mối liên hệ sâu xa giữa họ, tác nhân truyền giáo, với sứ điệp truyền giáo, hay với chính Đấng đã sai các vị. Ở chỗ, thành phần sứ giả hay thừa sai này đều là những chứng nhân của Đấng đã sai họ và cho Đấng đã sai họ. Đó là lý do, trước Hội Đồng Do Thái, “thành phần thất học hạ lưu” (Acts 4:13) Phêrô và Gioan đã hiên ngang lên tiếng: “Các ngài hãy thử xét xem trước mặt Thiên Chúa chúng tôi phải vâng lời các ngài hơn là vâng lời Thiên Chúa hay sao. Chúng tôi thực sự không thể nào không nói về những gì chúng tôi đã nghe và đã thấy” (Acts 4:19-20).

Thật vậy, việc tông đồ truyền giáo chính là việc làm chứng cho chân lý, hay chứng tỏ niềm tin chân thực bất khả biến của mình. Bởi thế, con người không thể truyền giáo, không thể làm chứng cho chân lý, cho Đấng đã sai mình, nếu họ không thâm tín chân lý, không thực sự nhận biết Đấng sai mình. Tuy nhiên, để có thể thực sự Cảm Nghiệm Thần Linh, cảm nghiệm được “Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn 4:24), con người trước hết phải khao khát, tìm kiếm và chấp nhận chân lý, chứ đừng sợ hãi khi thấy chân lý. Có cởi mở như thế, khi Chân Lý Thần Linh là ánh sáng chiếu tỏ cho họ thấy “trong tăm tối” và “trong âm thầm”, con người mới được thực sự biến đổi, mới có thể sống trong chân lý, mới được “chân lý giải phóng cho” (Jn 8:32), mới không còn “ngồi trong bóng tối và trong bóng sự chết” (Lk 1:79), trái lại, được biến thành một tấm gương phản chiếu “ánh sáng thế gian” (Jn 8:12), để bản thân cũng được trở thành “ánh sáng thế gian” (Mt 5:14).

Theo tu đức, tiến trình phát triển Đức Tin Thần Linh, hay tiến trình tiến đến trạng thái Cảm Nghiệm Thần Linh siêu đẳng, làm con người “thuộc hạ giới” được hoàn toàn thần hiệp với những gì “thuộc thượng giới” (Jn 8:23), con người thường phải trải qua những cuộc thử thách đức tin, được gọi là Đêm Tối Tăm. Nơi mỗi một linh hồn, Thiên Chúa sẽ tỏ mình ra cho họ một cách riêng tư, tùy theo hoàn cảnh của họ, ơn gọi của họ. Nhưng tựu kỳ trung, Thiên Chúa sẽ làm cho họ cảm thấy thân phận của họ, rồi từ đó và nhờ đó họ mới có thể nhận ra tình thương của Ngài, đúng như những gì Thánh Phaolô xác tín trong bài đọc thứ hai hôm nay về tội lỗi và ân sủng: “Nếu do tội của một người mà nhiều người phải chết, thì ơn nghĩa của Thiên Chúa và ân huệ ban do ơn một người là Đức Giêsu Kitô, làm cho nhiều người được ơn dư đầy hơn bội phần”. Phải, chỉ khi nào con người cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa nơi bản thân mình, họ mới có thể yêu thương tha nhân, mới có thể làm chứng cho tình yêu của Ngài, bằng việc “yêu thương nhau như Thày đã yêu thương các con” (Jn 15:12), và chỉ có duy dấu hiệu yêu thương này, họ mới thực sự là chứng nhân và trở thành nhân chứng: “Tất cả mọi người sẽ nhận biết các con là môn đệ của Thày ở chỗ các con yêu thương nhau” (Jn 13:35).

Như thế, làm tông đồ truyền giáo chính là sống yêu thương trọn lành, là làm chứng cho “Đấng trọn lành ở trên trời” (Mt 5:48), là phản ảnh “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Jn 4:8,16), là hiện thân của Chúa Giêsu Kitô Thiên Chúa Làm Người, một cuộc sống yêu thương dù không thực sự là nhà thừa sai Kitô hữu môn đệ chúng ta ai cũng có thể truyền giáo ở mọi nơi và trong mọi lúc.



(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)
 



2 CON SẺ



“Hai con sẻ mới bán được một xu.
Thế mà không con nào rơi xuống đất ngoài tôn ý Cha các con”
(Mt 10:29).

 


Trần Mỹ Duyệt
 



Một hôm trên đường chở con tôi tới trường, tôi đã ghé vào một cây xăng để đổ xăng. Tình cờ con tôi nhìn thấy một xu tiền cắc rớt ở dưới đất, nó liền bảo tôi:
- Bố! Tiền đó bố, mình lấy lên đi.
- Một xu ăn nhằm gì mà lấy con. Thôi đừng nhặt lên làm chi.
Nhưng con tôi vẫn cúi xuống nhặt đồng xu lên, và mơn trớn trên tay như tôi mơn trớn tờ giấy 100$ vậy. Điều làm tôi suy nghĩ mãi là câu nói của con tôi lúc bấy giờ:
- Bố biết không một xu cũng là tiền! Tiền là tiền!
Mẩu đối thoại trên đã đem lại cho tôi một phút suy tư về cuộc đời. Tôi thấy giá trị của cuộc đời tôi. Tôi thấy mình phấn khởi, và hy vọng trước những khó khăn đang vây quanh cuộc sống qua những câu nói vô tư của con tôi, và qua một xu bạc cắc nằm ở cạnh một góc cây xăng.
Tôi chợt nhớ lại, thường ngày, trong một số dịp khác, tôi cũng thấy một vài đồng tiền xu rơi rớt đó đây. Trong những trường hợp đó, tôi ít để ý tới một xu nằm trên mặt đường hay cạnh một cống rãnh nào đó, bụi bậm và rỉ sét. Tôi không mấy quan tâm đến những đồng xu đó, vì tôi nhìn đồng xu với giá trị là phải 10 xu mới được một đồng 10 xu, và mười lần như vậy cộng lại mới thành 1$. Hôm nay tôi đã nhìn một xu bằng một nhãn quan khác.
“Một xu cũng là tiền!” Đúng vậy, một xu cũng có giá trị của tiền. Giá trị đó là ở chỗ nếu góp nhiều xu lại, tôi sẽ có một số tiền lớn tùy vào số lượng nhiều hay ít các xu bạc cắc mà tôi có.
Trong thực tế, nhiều khi chỉ cần một xu mà đã có những khác biệt rất rõ ràng. Chuyện xẩy ra cũng lại ở một cây xăng. Hôm đó, tôi chở con tôi ra cây xăng cạnh nhà mua một bình xăng để chạy máy cắt cỏ. Giá một gallon xăng lúc đó là 1 đồng 31 xu. Nhưng tôi tìm kiếm trong túi quần, túi áo, trong hộc để tiền cắc ở xe cũng chỉ được 1 đồng 30 xu tiền cắc. Thiếu một xu nên tôi không thể dùng số tiền cắc trên được, đành phải đưa hai tờ giấy 1$ cho người bán xăng để họ trả lại 69 xu trước khi bơm một gallon xăng vào bình. Tiền là tiền! Dù một xu, một đồng, một trăm, hay một ngàn đồng người ta cũng gọi là tiền.
Tương tự như thế, tôi là tôi. Dù thế nào đi nữa, dù nghèo, dù thiếu may mắn, dù không nắm giữ chức vụ nào quan trọng, dù sao đi nữa, trong mọi trường hợp tôi vẫn chính là tôi. Tôi có giá trị riêng của mình như Đức Kitô đã đề cập tới trong Tin Mừng khi nói về giá trị riêng của từng người trong nhân loại. Ngài nói: “Các con tốt số hơn chim sẻ nhiều” (Mt 10:31). Lý do, vì hai con chim sẻ mới chỉ bán được một xu, nhưng Thiên Chúa “không để một con nào rơi xuống ngoài tôn ý Cha” (Mt 10:29). Ý nghĩa của một xu bạc cắc là ở chỗ đó. Không phải vì nó chỉ nguyên mang ý nghĩa tiền, mà vì qua nó, tôi nhận ra bàn tay quan phòng Thiên Chúa trên mọi biến cố của đời mình.
Cũng như những bí ẩn của sợi tóc trong toàn bộ cuộc sống con người, câu chuyện những con chim sẻ nhiều lúc cũng đem lại cho tôi những suy tư về vũ trụ, về con người, và về cuộc đời trước mặt. Nhiều lần nó đã khơi lại trong tôi những thắc mắc về sự có mặt của tôi trên trái đất, về giá trị đời tôi.
Nếu điều Đức Kitô nói là đúng, có nghĩa là con người giá trị hơn những con chim sẻ, và không một con sẻ nào rơi xuống ngoài tôn ý Cha trên trời, thì làm thế nào tôi có thể giải thích được những cảnh tượng hàng ngàn, hàng vạn, và hàng triệu con người bị gục ngã vì đói khát, chiến tranh và bệnh tật?
Tại sao lại có những trường hợp chiến tranh, chém giết, đói khổ, và bất công như thế xẩy ra cho con người, nếu thực sự con người có giá trị hơn loài chim sẻ? Tại sao Chúa nuôi sống chim sẻ mà để con người phải chết đói?
Nhiều mẩu tin và mẩu quảng cáo do những cơ quan từ thiện thường xuất hiện trên các chương trình truyền hình làm tôi phải nhắm mắt vì không đủ can đảm để xem. Thí dụ, những cảnh con người bị chết vì đói ăn. Có những em bé tôi thấy cái đầu to còn toàn thân thể nhỏ xíu, và mọi đốt xương được phơi bầy ra dưới làn da đen đủi, bệnh hoạn. Tôi sợ nhất khi nhìn thấy cảnh một em nhỏ nằm bệnh, đói lả với bầy ruồi bu quanh đậu đầy trên miệng, trên mắt, trên tai, và cơ thể em như đang muốn rúc rỉa cái thân xác hoi hóp chờ chết của em. Còn em đã không tự sức mình giơ tay đuổi được đàn ruồi đó đi.
Những hình ảnh đói khổ tại Phi Châu hay Ấn Độ như thế đã giúp tôi mường tượng được phần nào sự đau khổ thê lương của hàng triệu người Việt Nam trong trận đói xẩy ra năm 1945 tại miền Bắc nước Việt Nam. Một trận đói đã giết chết hơn một triệu người. Trong những ngày tang thương đó, nhiều người kể lại đã nhìn thấy những em nhỏ lây lất bên đường, tìm tòi núm vú mẹ để cố kiếm ra một giọt sữa. Nhưng làm gì có sữa. Mẹ các em đã chết vì đói.
Chim sẻ ăn ít hơn con người, nhưng con người có trí khôn biết lo toan và dự trữ cho tương lai. Chim sẻ không phải chết đói, nhưng nhiều người chết vì thiếu ăn. Hai con chim sẻ mới trị giá một xu, nhưng không một con nào rơi xuống ngoài tôn ý Cha trên trời. Con người quí giá hơn con sẻ lại bị bỏ chết vì đói ăn. Những hình ảnh đối nghịch như thế xem ra rất xung khắc nhau, và không thỏa mãn được lý trí ưa lý luận của con người. Nhiều lúc chúng cũng làm cho lý trí tôi căng thẳng, đầu óc tôi rối loạn và hoang mang. Có những chuyện xẩy ra trước mắt, chung quanh tôi, và cho chính cuộc đời tôi khiến tôi không thể nào không băn khoăn về ngày mai, về tương lai, và về cuộc đời.
Cũng có thể lý do đưa đến việc hàng triệu người chết đói là vì thái độ ích kỷ, lòng tham lam, và hận thù của chính con người gây ra cho con người! Nó tới từ thái độ của tôi, của bạn đã khóa chặt lòng mình, trái tim mình trước những túng thiếu của anh chị em đồng loại.
Trong thực tế, nhiều lần tôi cũng đã ích kỷ, nhắm mắt làm ngơ trước những anh chị em mình đang cần sự giúp đỡ của tôi như thế. Tôi đã viện dẫn hàng trăm lý do để khỏi phải móc túi, khỏi phải dừng xe, khỏi phải đến gần những người vô gia cư, những người bệnh tật, những trẻ em bơ vơ đang ngồi đó bên vệ đường, hay một góc phố chìa bàn tay van xin sự thương xót của tôi.
Nhưng những sự việc xẩy ra cho chính cuộc đời tôi thì sao? Mặc dù tôi tin mình có giá hơn những con chim sẻ, và mặc dù tôi tin mình được săn sóc kỹ hơn loài chim, nhưng vẫn có những vấn nạn đến với tôi mỗi ngày trong cuộc sống khiến tôi phải vất vả lắm mới tin rằng mình được Thiên Chúa yêu thương và săn sóc.
Làm sao tôi có thể nhởn nhơ, tung tăng vui vẻ như những con chim sẻ được, trong khi tôi và gia đình tôi đang phải đối đầu với những bài toán hóc búa của tương lai, của nghề nghiệp, và của sự sống còn nữa. Tôi nhận thấy rõ điều đó, vì tôi thường ngày vẫn phải chiến đấu với trăm thứ rắc rối, trăm thứ thử thách, và những đau khổ, khiến không thể nào vui tươi và nhí nhảnh được. Nhiều khi tôi thấy thèm số phận những con chim đó, ít là chúng không bị giằn vặt, và không phải suy nghĩ như tôi. Nhưng tôi lại sợ nếu mình không tin tưởng vào Thiên Chúa, thì tôi làm Ngài không vui. Phải chăng đây cũng chính là cái giá của hạnh phúc đời tôi, và tôi không thể không có Chúa ở bên cạnh mình.
Nhìn những con chim nhỏ bé bay lượn vui tươi, nhí nhảnh, và ca hát líu lo vào những buổi bình minh lên khơi, hay những lúc chiều tà trong những bụi cây quanh nhà, tôi thấy chúng rất vô tư, và không tỏ vẻ sợ hãi như tôi thường sợ hãi về cuộc đời trước mặt. Tôi không biết những con chim kia có biết đến sự quan phòng của Thiên Chúa dành cho chúng hay không? Tôi cũng không biết chúng đã được sinh ra, lớn lên, và được nuôi sống như thế nào giữa bầu trời lồng lộng quanh tôi. Nhưng tôi thấy chúng dường như hạnh phúc.
So sánh cuộc sống của những con chim được chăm sóc bởi Thiên Chúa và những con chim được chăm sóc bởi con người cũng cho tôi thấy sự khác biệt rất rõ ràng. Những con chim tôi nuôi trong lồng, hoặc được bày bán trong các tiệm buôn bán thú vật, khác hẳn nhau. Một đàng không có những chiếc lồng xanh, đỏ, không có sẵn thức ăn và nước uống được chuẩn bị đầy đủ nhưng thấy chúng sinh động, vui vẻ, và ca hát. Một đàng được nuôi nấng và chuẩn bị kỹ lưỡng nhưng vẫn thấy buồn buồn, ngao ngán. Nhìn chúng phải được giữ lại bằng chiếc lồng, bằng sợi giây xích, hoặc bị cắt lông cánh thì đủ rõ chúng không thiết tha gì với cảnh sống như thế.
Một hôm, hai con tôi và mẹ chúng mua một con két trắng giá 75$, với một chiếc lồng đẹp và những thức ăn được bầy bán trong tiệm. Nhưng khi về đến nhà, con két không chịu ăn. Nó nhất định không để cho hai con tôi, hoặc tôi đụng đến người của nó. Nó đã chết sau đó một tuần lễ. Xác nó nằm cứng đờ trong chiếc lồng được sửa soạn đẹp đẽ, bên ống thức ăn và nước uống. Các con của tôi đã nói, con chim nó không thích ở với mình.
Trước sự kiện đó, tôi thấy xuất hiện một hình ảnh rõ ràng về tương quan của tôi với cuộc sống hiện tại và tương lai. Mỗi khi tôi cố dùng trí khôn và tài năng của mình để ước tính hoặc dự trù cho tương lai, tôi đều cảm thấy mình là người chủ những con két trong lồng kia. Tài trí, khả năng, và sự giầu có của tôi không ngoài việc sắm cho nó một chiếc lồng, một gói đồ ăn, và một ống nước. Tôi cũng không biết mình có khả năng cung cấp những thứ đó cho nó đến bao lâu, nếu thật sự chính tôi không được Thiên Chúa nuôi nấng như tôi đang nuôi con chim đó.
Nhưng Thiên Chúa lại khác. Kho tàng mênh mông và giầu có của thiên nhiên không những đủ nuôi một con két, mà là toàn thể thụ tạo, trong đó có tôi. Cũng chính vì thế, trước những lo lắng và toan tính về tương lai của tôi, Đức Kitô đã bảo tôi: “Đừng băn khoăn chi cho ngày mai” (Mt 6:34). Ngay cả đến bất trắc và thử thách là những gì tôi khiếp sợ nhất, Ngài cũng căn nhặn: “Sự khó ngày nào, đủ cho ngày ấy” (Mt 6:34).
Rõ ràng là Thiên Chúa đã biết trước tôi sẽ làm gì? Sẽ đi về đâu? Sẽ gặp những thử thách nào? Và sẽ phản ứng ra sao trước những bất ngờ của cuộc sống. Trước sự quan phòng của Thiên Chúa dành cho tôi như thế, tác giả Thánh Vịnh đã phải thốt lên:

“Tôi có thể đi đâu để tránh mặt Ngài?
Nếu tôi lên trời, Chúa có ở đó.
Nếu tôi xuống lòng đất, cũng có mặt Ngài.
Nếu tôi chắp đôi cánh hừng đông mà bay xa tít tới bờ
đại dương. Ở đó cánh tay Ngài vẫn hướng dẫn tôi”
(Ps 144: 7-10).

Đưa cánh tay quyền uy của Ngài hướng dẫn tôi, Thiên Chúa không muốn làm tôi hoảng sợ. Ngài không muốn nhìn thấy tôi đau khổ. Ngài cũng không phải vô tình trước những đau khổ, thử thách của bất cứ ai, nhưng là quan phòng và tiên liệu trước tất cả. Ngài chỉ muốn con người, muốn tôi được hạnh phúc, và được mọi may lành. Còn những bất trắc rủi ro, những đau khổ và thử thách dĩ nhiên cần phải có trong cuộc đời như những bài trắc nghiệm niềm tin của tôi nơi Ngài, chỉ là những chuyện chẳng đặng đừng Ngài cho phép xẩy ra để nhắc nhở và mời gọi tôi đến với Ngài. Nhưng dù là thử thách, những thử thách này vẫn không vượt quá sức chịu đựng của một người.
Đức Kitô đã quả quyết: “Chim trời không gieo gặt, thu tích vào kho lẫm; vậy mà Cha trên trời vẫn nuôi sống chúng” (Mt 6:26). Để tôi vững tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa, Đức Kitô nói thêm: “Các con lại không quan trọng hơn những con chim kia sao?” (Mt 6:26). Chính vì tôi có giá trị, nên tôi được săn sóc kỹ lưỡng hơn loài chim, dù tôi biết tới hay không biết tới điều này, đến độ nếu tôi không tin như thế, tôi sẽ trở thành “kẻ hèn tin” (Mt 6:30).
Như những sợi tóc làm tăng vẻ đẹp của con người, những con chim nhỏ bé kia cũng đang nói cho tôi biết về vẻ đẹp tuyệt vời của tình thương Thiên Chúa, và sự quan phòng đầy khôn ngoan của Ngài. Các thánh nhân đã nhân cách hóa những bông hoa, những con chim, những tạo vật quanh mình để ca tụng tình yêu của Thiên Chúa. Thánh Philípphê Nêri đã dùng cây gậy khua nhẹ vào những bông hoa nhỏ bên đường và nói: “Thôi im đi, tôi biết rồi, đừng lớn tiếng chê bai tôi không biết ca tụng Thiên Chúa nữa”.
Thánh Phanxicô Assisi đã gọi những con chim, mặt trời, mặt trăng, ngôi sao, bông hoa...là anh hay chị, vì Ngài nhìn thấy tình yêu thương của Thiên Chúa qua những tạo vật đó.


 

(Trích trong CON BIẾT CHÚA NGHE CON của cùng tác giả
do Nguyệt San Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp xuất bản, 1996).