|
CHÚA NHẬT XXVI QUANH NĂM
BÀI ĐỌC I: Ez 18:25-28
“Nếu
kẻ gian ác bỏ đàng gian ác nó đă đi, nó sẽ được sống”
Bài trích sách Tiên tri Êgiêkiel.
Đây
Chúa phán: “Các ngươi đă nói rằng: “Đường lối của Chúa không chính trực”. Vậy
hỡi nhà Israel, hăy nghe đây: “Có phải đường lối của Ta không chính trực ư? Hay
trái lại đường lối của các ngươi không chính trực? Khi người công chính từ bỏ lẽ
công chính và phạm tội ác, nó phải chết, chính v́ tội ác nó phạm mà nó phải chết.
Nếu kẻ gian ác bỏ đàng gian ác nó đă đi, và thực thi công b́nh chính trực, nó sẽ
được sống. Nếu nó suy nghĩ và từ bỏ mọi tội ác nó đă phạm, nó sẽ sống chớ không
phải chết”.
Lời của Chúa.
Đáp Ca: (Xin mời Cộng đoàn thưa)
Lạy Chúa, xin hăy nhớ
ḷng thương xót của Chúa.
1.
Lạy Chúa, xin chỉ cho
tôi đường đi của Chúa; xin dạy bảo tôi về lối bước của Ngài. Xin hướng dẫn tôi
trong chân lư và dạy bảo tôi, v́ Chúa là Thiên Chúa cứu độ tôi, và tôi luôn luôn
cậy trông vào Chúa.
2.
Lạy Chúa, xin hăy nhớ
ḷng thương xót của Ngài, ḷng thương xót tự muôn đời vẫn có.
3.
Xin đừng nhớ lỗi lầm
khi tôi c̣n trẻ và tội ác, nhưng hăy nhớ tôi theo ḷng thương xót của Ngài, v́
ḷng nhân hậu của Ngài, thân lạy Chúa.
4.
Chúa nhân hậu và công
minh, v́ thế Ngài sẽ dạy cho tội nhân biết đường lối. Ngài hướng dẫn kẻ khiêm
cung trong đức công minh, dạy bảo người khiêm cung đường lối của Ngài.
BÀI ĐỌC II: Phil 2:1-11
“Anh em hăy cảm nghĩ
trong anh em điều đă có trong Đức Giêsu Kitô”
Bài trích thơ Thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Philipphê.
Anh
em thân mến, nếu có sự an ủi nào trong Đức Kitô, nếu có sự khích lệ nào trong
đức mến, nếu có sự hiệp nhất nào trong Thánh Thần, nếu có ḷng thương xót nào,
th́ anh em hăy làm cho tôi được trọn niềm hân hoan, để anh em hưởng cùng một
niềm vui, được cùng chung một ḷng mến, được đồng tâm nhất trí với nhau, chớ làm
điều ǵ bởi ư cạnh tranh, hay bởi t́m hư danh, nhưng hăy lấy ḷng khiêm nhường
mà coi kẻ khác vượt trổi hơn ḿnh, mỗi người đừng chỉ nghĩ đến những sự thuộc
về ḿnh, nhưng hăy nghĩ đến những sự thuộc về kẻ khác. Anh em hăy cảm nghĩ trong
anh em điều đă có trong Đức Giêsu Kitô: Người tuy là thân phận Thiên Chúa, đă
không nghĩ phải dành cho được ngang hàng với Thiên Chúa: trái lại, Người hủy bỏ
chính ḿnh mà nhận lấy thân phận tôi đ̣i, đă trở nên giống như loài người với
cách thức bề ngoài như một người phàm. Người đă tự hạ ḿnh mà vâng lời cho đến
chết, và chết trên thập giá. V́ thế, Thiên Chúa đă tôn vinh Người, và ban cho
Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe tên Giêsu, mọi loài
trên trời dưới đất và trong hỏa ngục phải quÉ gối xuống và mọi miệng lưỡi phải
tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Chúa để Thiên Chúa Cha được vinh quang.
Lời của Chúa.
(Xin mời Cộng đoàn đứng)
Alleluia, alleluia. --- Nếu ai yêu mến Thầy, th́ sẽ giữ
lời Thầy, và Cha Thầy yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy.
--- Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 21:28-32
“Nó hối hận và đi làm. Những
người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông”
Bài trích Phúc Âm theo Thánh Matthêô.
Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng các thượng tế và các kỳ lăo trong dân rằng: “Các ông
nghĩ sao? Người kia có hai người con. Ông đến với đứa con thứ nhất và bảo: “Này
con, hôm nay con hăy đi làm vườn nho cho cha!”. Nó thưa lại rằng: “Con không đi”.
Nhưng sau nó hối hận và đi làm. Ông đến gặp đứa con thứ hai và cũng nói như vậy.
Nó thưa lại rằng: “Thưa cha, vâng, con đi”. Nhưng nó lại không đi. Ai trong hai
người con đă làm theo ư cha ḿnh? Họ đáp: Người con thứ nhất. Chúa Giêsu bảo họ:
Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa
trước các ông. V́ Gioan đă đến với các ông trong đường công chính, và các ông
không tin ngài; nhưng những người thu thuế và gái điếm đă tin ngài. C̣n các ông,
sau khi xem thấy điều đó, các ông cũng không hối hận mà tin ngài.
Phúc Âm của Chúa.
Chia Sẻ Lời Chúa
Người Con Thừa Hưởng Vương Quốc Của Thiên Chúa
Từ bài Phúc Âm tuần trước, đến bài Phúc Âm tuần sau, kể cả
bài Phúc Âm tuần này, Giáo Hội có ư chọn các bài Phúc Âm liên quan đến chủ đề
Giáo Hội. Bài Phúc Âm tuần trước về dụ ngôn thợ làm vườn nho, một vườn nho nếu
ám chỉ Giáo Hội th́ thành phần thợ làm vườn nho là thành phần lănh đạo Giáo Hội
với quyền linh thánh chức, và nếu ám chỉ thế gian đă được Chúa Kitô cứu chuộc
th́ thành phần thợ vườn nho bao gồm tất cả mọi thành phần môn đệ Chúa Kitô, nhất
là thành phần giáo dân sống giữa ḷng đời như men trong bột. Bài Phúc Âm Chúa
Nhật tuần này cũng về việc đi làm vườn nho, nhưng việc làm vườn nho trong bài
Phúc Âm tuần này chỉ giành riêng cho thân phận con cái chứ không cho thành phần
thuê mướn. Thế nhưng, vấn đề ở đây là vai tṛ người con cả và người con thứ.
Theo các bản dịch Việt Ngữ, cả trong Sách Bài Đọc cũng như các cuốn Thánh Kinh,
người con cả là người con lúc đầu không chịu đi làm vườn nho như cha bảo, song
sau đó hối hận đă đi, c̣n người con thứ thoạt đầu nói đi song sau lại không đi
nữa. Cũng có một số bản dịch Tiếng Anh, cả trong Sách Bài Đọc (như cuốn New…
Saint Joseph Sunday Missal) lẫn Thánh Kinh (như bộ Revised English Bible), th́
lại ngược hẳn, người con cả ban đầu nói đi rồi lại không đi, c̣n người con thứ
lúc đầu nói không đi rồi sau đó lại đi. Không biết tại sao có sự khác biệt nhau
nơi các bản dịch này, phải chăng v́ tính cách tiêu biểu của hai người con trong
dụ ngôn này hay chăng? Vậy Chúa Giêsu muốn ám chỉ người con cả đây là ai và
người con thứ đây là ai?
Biểu Hiệu nơi Hai Người Con Trai
Trước hết, nếu đối tượng của dụ ngôn Chúa Giêsu muốn nói này là thành phần “các
trưởng tế và kỳ lăo trong dân”, và nếu theo đường lối “kẻ nhất sẽ xuống chót và
kẻ chót sẽ lên nhất” được Chúa Giêsu nhắc đến ở cuối bài Phúc Âm tuần trước khi
áp dụng vào nhóm thợ đầu ngày và cuối ngày, nhất là nếu hai người con trai này
cũng là hai người con trai trong dụ ngôn đứa con phung phá ở Phúc Âm Thánh Luca
đoạn 15 từ câu 11 đến hết câu 32, th́ người con cả trong bài Phúc Âm hôm nay
chắc Chúa Giêsu có ư ám chỉ thành phần thính giả đang nghe Người bấy giờ là “các
trưởng tế và kỳ lăo trong dân”, c̣n người con thứ là thành phần tội nhân, như
hạng thu thuế và gái điếm, được Chúa Giêsu so sánh một cách thẳng thắn với thành
phần lănh đạo trong dân.
Ngoài ra, c̣n một lư do nữa để có thể suy đoán người con thứ là thành phần tội
nhân, đó là, cũng căn cứ vào lời Chúa Giêsu kết luận trong bài Phúc Âm hôm nay,
v́ “những người thu thuế và giái điếm vào vương quốc của Thiên Chúa trước quí vị”.
Trạng từ “trước” ở đây là ǵ, nếu không phải là từ ngữ về vị trí cho thấy thành
phần là hạng vốn đứng “sau”, theo thứ tự giai cấp vốn là em ra “sau” anh chị và
theo “sau” anh chị của ḿnh, nay lại “vào trước” qua mặt anh chị là người đi
“trước” ḿnh, đến “trước” ḿnh. Yếu tố quyết liệt làm cho thành phần tội nhân
vốn là em này có thể qua mặt anh chị của ḿnh đó là đức tin của họ, như Chúa
Giêsu tiết lộ trong bài Phúc Âm hôm nay: “Khi Gioan đến rao giảng đường lối nên
thánh th́ quí vị đă không tin vào người; c̣n những người thu thuế và gái điếm
lại tin vào người”.
Chưa hết, lư do thứ ba để đi đến chỗ khẳng định người con cả là thành phần lănh
đạo dân Do Thái, c̣n người con thứ là thành phần tội nhân trong dân nếu áp dụng
đứa con thứ vào vị thế của thành phần Dân Ngoại. Bởi v́, thành phần tội nhân nói
chung là thành phần ô uế nhơ nhớp. Trong dân Do Thái th́ thành phần thu thuế và
gái điếm là thành phần nhơ nhớp đáng ghê tởm. Ngoài dân Do Thái th́ thành phần
Dân Ngoại cũng là hạng người nhơ nhớp (xem Acts 10:9-23), v́ không được cắt b́.
Phải chăng, theo chiều hướng ư hệ này của dân Do Thái, trong Bài Giảng Phúc Đức
của Người, Chúa Giêsu đă đặt thành phần Dân Ngoại ngang hàng với thành phần thu
thuế (xem Mt 5:46-47)? Vậy nếu thành phần thu thuế và gái điếm, tức thành phần
tội nhân, được vào vương quốc Thiên Chúa trước thành phần Dân Chúa, th́ không
phải Dân Ngoại đă được vào vương quốc của Thiên Chúa trước dân Do Thái hay sao?
Mà Dân Ngoại đây là ai, nếu không phải là thành phần làm nên Giáo Hội Chúa Kitô,
một Giáo Hội Công Giáo được Người thiết lập trên Tảng Đá Phêrô nói riêng và Tông
Đồ Đoàn nói chung ngay tại Giêrusalem là khu vực Người đă Nhập Thể và Vượt Qua
để Cứu Thế, một Cộng Đồng Tân Ước bao gồm tất cả mọi dân nước trên thế giới cho
đến tận cùng trái đất.
Lịch Sử về Hai Người Con Trai
Thật vậy, Lịch Sử Cứu Độ đă cho thấy rơ điều này, dân Do Thái là người con cả,
và Dân Ngoại hay Giáo Hội Chúa Kitô là người con thứ. Trước hết, cả hai đều là
con trong nhà, con một Cha trên trời, nghĩa là đều được quyền thừa tự gia sản
thần linh của Cha trên trời. Gia Sản Thần Linh này chính là Lời Nhập Thể, Đấng
đă được Thiên Chúa hứa ban cho chung loài người ngay từ ban đầu (xem Gen 3:15),
mà dân Do Thái, với tư cách là anh, đă nhận lănh qua cha ông tổ phụ của họ
(Abraham, Isaac, Jacob và David) dưới h́nh thức Lời Hứa của Thiên Chúa, và đă
được các vị ngôn sứ (nhất là tiên tri Isaia) lập lại, cho đến khi Lời Hứa Thần
Linh này được thực sự và hoàn toàn thể hiện nơi Con Người Giêsu Nazarét. Bởi đó,
Chúa Giêsu đă khẳng định với người phụ nữ Samaritanô bên bờ giếng Giacóp rằng:
“Dầu sao th́ ơn cứu độ cũng được bắt nguồn từ dân Do Thái” (Jn 4:22). Tuy nhiên,
v́ “Thiên Chúa muốn tất cả mọi người được cứu độ và nhận biết chân lư” (1Tim
2:4), mà Gia Sản Thần Linh Giêsu này cũng thuộc về Dân Ngoại nữa. Thế nhưng, dù
Dân Ngoại hay Dân Chúa, thành phần nào cũng phải có đức tin mới “có quyền trở
nên con Thiên Chúa” (Jn 1:12), tức mới được thừa hưởng “vương quốc của Thiên
Chúa”. Thực tế cho thấy, hiện nay, thành phần Dân Ngoại làm nên Giáo Hội Chúa
Kitô, đă “được vào vương quốc của Thiên Chúa trước (Dân Chúa)”.
Đúng thế, nếu thành phần Dân Chúa đă lănh nhận Lời Hứa Thần Linh và đă cố gắng
giữ Lề Luật Thần Linh, như thái độ người con cả đồng ư đi làm vườn nho cho cha,
song sau đó lại quay ra không đi, ở chỗ đă phủ nhận Đấng “đến không phải để phá
lề luật và lời các tiên tri song để làm cho nên trọn” (Mt 5:17), th́ thành phần
Dân Ngoại làm nên Giáo Hội Chúa Kitô sau thành phần Dân Chúa, theo Phúc Âm cho
thấy, ban đầu đă từ chối không chịu đi làm vườn nho theo lời cha mời gọi, ở chỗ,
đă mù quáng đi tôn thờ tà thần và ngẫu tượng, không nhận biết Vị Thiên Chúa chân
thật duy nhất của ḿnh, như Ngài tỏ ḿnh ra cho dân Do Thái, song sau đó lại đi,
ở chỗ, đă “tin vào Phúc Âm và chịu phép rửa” (Mk 16:16). V́ Giáo Hội, Dân Tân
Ước, được làm nên bởi Dân Ngoại, thành phần không cắt b́ và ô nhơ như thế, mà
“Chúa Kitô đă hiến ḿnh cho Giáo Hội, làm cho Giáo Hội nên thánh thiện, thanh
tẩy Giáo Hội bằng quyền năng lời Người trong bể nước rửa, cống hiến cho Người
một Giáo Hội hiển vinh, thánh thiện và vô nhiễm” (Eph 5:25-27).
Thánh Âu-Quốc-Tinh, đă cho thấy Giáo Hội được hiện thân nơi người phụ nữ
Samaritanô ngoại lai tội lỗi bên bờ giếng Giacóp với Chúa Giêsu như thế này:
“’Có một người phụ nữ đến’. Chị là h́nh ảnh tiêu biểu cho một Giáo Hội chưa được
làm cho nên công chính mà là sắp được công chính hóa. Sự công chính theo sau
việc hoán cải cuộc đời. Chị đến mà chẳng biết ǵ, chị gặp được Chúa Kitô, và
Người đă đối thoại với chị. Chúng ta hăy xem như thế nào, hăy xem tại sao ‘một
chị phụ nữ Samaritanô đến kín nước’. Những người Samaritanô không thuộc về thành
phần dân Do Thái: họ là những kẻ ngoại bang. Sự kiện chị đến từ một dân tộc
ngoại bang là yếu tố nơi cái ư nghĩa biểu hiệu, v́ chị là h́nh ảnh biểu hiệu của
Giáo Hội. Giáo Hội phát xuất từ Dân Ngoại, từ một chủng tộc khác với những người
Do Thái”. (Tract 15, 10-12, 16-17. CCL 36, 154-156 trích dịch từ The Office Of
Readings, St Paul Edition, 1983, trang 397).
Thân Mệnh của Hai Người Con Trai
Điểm cuối cùng cần bàn đến ở đây là “vườn nho” Chúa Giêsu có ư nói đến trong dụ
ngôn về người cha kêu gọi hai người con trai đi làm cho ḿnh đây là ǵ? Nếu hai
người con cả và người con thứ đây là biểu hiệu cho Dân Chúa và Dân Ngoại, và nếu
ai việc tin tưởng và làm theo ư cha sẽ “được vào vương quốc của Thiên Chúa”, th́
vườn nho đây chính là Nước Trời trên trần gian, một Nước Trời đă được Thiên Chúa
gieo văi như một hạt giống trên thế gian ngay từ Lời Hứa Ban Đầu (xem Gen 3:15),
một hạt giống đă được chính Ngài vun xới trong Lịch Sử Cứu Độ của Dân Do Thái
nơi Mảnh Đất Hứa, cho tới khi thành Cây Thập Giá, một Cây Sự Sống trổ sinh muôn
vàn Hoa Trái Cứu Độ cho muôn dân, và việc đi làm vườn nho là Nước Trời trên trần
gian đây tức là việc làm cho “Nước Cha trị đến”, việc truyền bá Phúc Âm hóa, để
muôn dân được hưởng Hoa Trái Cứu Độ cho tới khi Chúa Kitô lại đến trong vinh
quang vậy. Ư nghĩa Chứng Từ Giáo Hội, chủ đề của Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh
là ở chỗ này.
Ngoài ra, vấn đề của bài Phúc Âm hôm nay c̣n ở chỗ, một khi biết rơ ư Chúa,
chúng ta có thực sự làm theo ư Chúa hay chăng, hay chỉ có ư định làm hay chỉ có
ước muốn làm mà thực tế lại không làm. V́ “đức tin không việc làm là đức tin
chết” (James 2:17). Và chỉ khi nào chúng ta làm theo ư Chúa, chúng ta mới thực
sự kết hợp với Chúa, mới được nên một với Ngài, nghĩa là mới “được vào vương
quốc của Thiên Chúa”, và nhớ đó mới có thể thực sự làm chứng nhân cho Ngài.
Trường hợp của những người Chúa Giêsu muốn dùng dụ ngôn để nói đến trong bài
Phúc Âm hôm nay là “các trưởng tế và kỳ lăo trong dân” thông thuộc và giảng dạy
lề luật nhưng không thực hành lề luật th́ chẳng khác ǵ như đóng vai người con
cả thưa vâng mà lại không làm.
Thế nhưng, vấn đề của bài Phúvc Âm ở đây c̣n là việc làm theo ư cha ở chỗ nào
nữa? Theo bài Phúc Âm, là ở chỗ làm vườn nho cho cha. Tức ai không làm vườn nho
cho cha là không theo ư cha. Nói cách khác, có giữ lề luật mấy đi nữa, như
trường hợp người Pharisiêu lên đền thờ cầu nguyện kể lể cho Chúa nghe những việc
hắn làm theo lề luật dạy (xem Lk 18:12), nhưng chưa chắc đă chu toàn ư cha, v́ ư
của cha là đi làm vườn nho cho ngài, tức, như trên đă nói, ở tại việc làm cho
“Nước Cha trị đến”, hay ở tại trước hết tin Chúa hơn cậy ḿnh. Chính v́ người
thu thuế lên đền thờ cầu nguyện với ḷng khiêm hạ trước nhan Chúa (xem Lk
18:13), một thái độ phản ảnh tinh thần hạ ḿnh tự hủy của Chúa Kitô được Thánh
Phaolô khuyên giục Kitô hữu Philiphê bắt chước trong bài đọc thứ hai hôm nay, mà
người thu thuế này đă làm cho “Nước Cha trị đến” nơi chính bản thân ḿnh, đă
“được vào vương quốc của Thiên Chúa trước (người Pharisiêu)”, như lời Chúa Giêsu
khẳng định: “Người này ra khỏi đền thờ được nên công chính, c̣n người kia th́
không” (Lk 18:14). Đó là đường lối của Thiên Chúa, như được tiên tri Êzêkiên
nhắc lại trong bài đọc thứ nhất hôm nay, một đường lối có vẻ bất công trước mắt
người Do Thái, thành phần đóng vai người con cả, vất vả và tỉ mỉ tuân giữ lề
luật Chúa mà lại vào vương quốc của Thiên Chúa sau bọn thu thuế và gái điếm.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
NHỮNG CÔ GÁI ĐIẾM
Trần Mỹ Duyệt
“Như trời xanh cao vượt hơn trái đất bao nhiêu th́ tư
tưởng của Ta cũng khác với tư tưởng các ngươi như vậy”. Thiên Chúa có những cái
nh́n và hành động mà trí khôn con người không sao thấu hiểu nổi. Điển h́nh là
trong trích đoạn Tin Mừng của Chúa Nhật tuần này khi nghe Ngài khẳng định: “Bọn
phần thu và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21: 31). Đĩ điếm,
đầu trộm, đuôi cướp lại được vào Thiên Đàng trước những thầy thông giáo, kinh sư,
và tư tế - Những kẻ nắm giữ và cắt nghĩa lề luật Chúa, có cơ duyên hiểu biết,
gần gũi và thân mật hơn với Ngài. Không những khi sống, mà trước khi tắt thở
trên thập giá, Chúa Giêsu vẫn c̣n nghĩ đến và dành cảm t́nh đặc biệt cho bọn
người bị xă hội coi thường và khinh miệt ấy. Ngài đă long trọng hứa nước trời
cho một anh cướp: “Hôm nay anh sẽ lên Thiên Đàng với Ta” (Luc 23:43).
Nói về Nước Trời, về Thiên Đàng th́ Chúa Giêsu nói chung và giảng chung cho mọi
người, nhưng khi hứa Nước Trời và phần thưởng Nước Trời th́ Ngài đă ban cho một
tên cướp. Đây cũng lại là một hành động mà trí khôn con người không hiểu nổi.
Cũng như trong trích đoạn Tin Mừng của Chúa Nhật tuần trước, qua h́nh ảnh của
ông chủ, Thiên Chúa đă trả công cho những kẻ theo Ngài, Ngài bắt đầu từ những
người sau chót (x Mt 20:1-16).
Điều làm nhiều người thấy khó chịu là tại sao những người được coi là cặn bă xă
hội, là thừa thăi, và tệ hơn là ung nhọc của xă hội lại được Thiên Chúa ưu đăi.
Điều này có làm cho đức công b́nh của Ngài bị hiểu lầm không? Hay nói theo tư
tưởng của Têrêsa Hài Đồng Giêsu là “Chúa không biết làm toán”, nên không biết ai
lỗi nhiều, nợ nần Chúa nhiều hay ít.
Thật ra, khó ai có thể giải thích hoặc cắt nghĩa được là tại sao những người bị
coi là tội lỗi, họ đă xa Chúa hoặc bỏ Ngài v́ lư do ǵ?! Nhưng chắc chắn một
điều là trong thâm tâm họ vẫn không hẳn hoàn toàn chối bỏ được t́nh thương Ngài,
do đó, khi có cơ hội thuận tiện những người này cũng đă quay về và đón nhận t́nh
yêu Thiên Chúa. Chính do thái độ tin nhận ấy mà Chúa thương cảm họ, và cũng do
cuộc sống khổ sở của họ đă lôi kéo Ngài từ trời xuống thế, rao giảng Tin Mừng
giải thoát, và chấp nhận chết cho họ. Ngài nói: “V́ Gioan đă đến chỉ đường công
chính cho các ngươi, mà các ngươi không tin; c̣n những người thu thuế và gái
điếm lại tin” (Mt 21:32).
Thật vậy, phần đông nhân loại vẫn là những người nghèo khổ, đói ăn, thiếu mặc.
Con số những người nghèo luôn luôn đông hơn những người giàu, ngay cả tại những
quốc gia văn minh nhất thế giới như tại Hoa Kỳ. Ngoài ra, thành phần thiếu học,
thiếu hiểu biết về Nước Trời vẫn đông hơn một số nhỏ được coi như hiểu biết và
thâm hiểu ư nghĩa Tin Mừng, ư nghĩa Phúc Aâm. Cũng chính v́ thế, mà Thiên Chúa
không xét việc, không xét bên ngoài bằng cách xét đến tấm ḷng của mỗi người.
Truyện kể rằng một người tên James v́ nghèo nàn, thất học nên anh biết rất ít về
giáo lư, về Thánh Kinh, và về đạo giáo. Bù lại, anh có một tâm hồn rất đơn sơ và
ḷng mến rất đầy đặn. Mỗi lần khi có dịp đi qua một thánh đường, anh luôn ghé
lại ít phút và vào trong thánh đường, đến gần cung thánh, nh́n lên Nhà Tạm và
chỉ nói với Chúa một câu: “Giêsu ơi! James đây! James đến chào Giêsu đây!”. Nói
rồi anh đi. Ngày qua ngày, một hôm lúc đă tuổi già, ông James phải vào nhà
thương, và ông đă xin y tá kê thêm một chiếc ghế để Chúa Giêsu đến ngồi. Tự thâm
tâm ông, ông luôn tin tưởng cách đơn sơ và thành thật rằng, Chúa Giêsu sẽ đến
thăm ông như ông đă từng thăm Chúa. Oâng lư luận cách đơn sơ: “Bạn hữu mà! Có lẽ
nào thấy bạn đau yếu mà không đến thăm”. Quả như ông tin tưởng, Chúa Giêsu đă
tới và cũng nói với ông một câu rất chân thành như ông đă từng nói với Ngài:
“James ơi! Giêsu đây. Giêsu đến để đem James về Thiên Đàng đây”. Và ông đă tắt
thở trong lúc tâm hồn tràn ngập niềm vui Thiên Đàng.
Có biết bao nhiêu tâm hồn bề ngoài bị coi thường và khinh miệt, nhưng thật sự
chính do họ mà Chúa được vui. Nếu Chúa không vui sao Ngài lại hứa nước Thiên
Đàng cho họ. Và nếu Chúa không vui sao Ngài lại dành ưu tiên Nước Trời cho họ.
Thật vậy, con mắt chúng ta v́ bị bao che bởi đa nghi, tự phụ, tự kiêu, và ích kỷ
hẹp ḥi, nên ta thường hay đoán xét và phê phán người này, người khác qua nhăn
quan của riêng ḿnh. Nhiều khi, ta tự cho ḿnh là nhất, chỉ ḿnh mới có độc
quyền yêu Chúa, và nói về Chúa. Người khác không được như vậy. Đó là thái độ của
những kinh sư dài ḍng kinh kệ, những Pharisiêu cao ngạo, những tư tế chỉ biết
đứng trên toà Maisen giảng cho người khác giữ. Chính Chúa Giêsu đă nói về những
người này là: “Họ chất những gánh nặng cồng kềnh trên vai kẻ khác, c̣n ḿnh th́
không động ngón tay vào” (Mt 23:4).
Lời Chúa hôm nay đă mở ra một nhăn quan mới cho những ai bị đời bạc đăi, khinh
chê. Cho những số kiếp mà con người cho là đọa đầy. Cho những thành phần thấp cổ,
bé miệng. Những thành phần đầu trộm, đuôi cướp, măi dâm và đĩ điếm. Đối với
Thiên Chúa tất cả đều là con cái, và tất cả đều được đón nhận ḷng khoan hồng
của Ngài như nhau. Nhưng nếu Thiên Chúa có thiên vị đôi chút, th́ chính là Ngài
dành t́nh thương và sự thông cảm đối với những người mà thiên hạ coi thường và
khinh bỉ: “Ta bảo thật với các ông, bọn phần thu và gái điếm sẽ vào nước Thiên
Chúa trước các ông” (Mt 21: 31).
Cha vẫn chờ
Mỗi người chúng ta không ai lại
không có kinh nghiệm về “ cái sai” trong cuộc đời ḿnh. Có khi chỉ là một nước
cờ sai, một lời nói sai, một suy nghĩ sai, hay một dự tính sai, thậm chí cũng có
cả một cách sống sai, cho dù điều sai ấy ở mức độ thấp nhất, chẳng phương hại ǵ
máy.
Lời Chúa của CN 26 TN vẽ nên bức tranh tương phản với những hệ qủa tất yếu của
hai thái độ, hai hành động trái ngược nhau. Người con thứ nhất trong du ngôn của
Đức Giêsu sớm nhận ra thái độ không đúng khi khước từ yêu cầu chính đáng của cha
mẹ, anh đă quyết tâm khắc phục ngay sau đó, người con ấy chính là h́nh ảnh của
những người thâu thuế và những cô gái điếm. C̣n người con thứ hai th́ mau mắn
đón nhận ư cha nhưng không thục hiện và đó là h́nh ảnh của người Biệt Phái Do
thái.
Thật ra Đức Giêsu không có ư ủng hộ cách sống của người thâu thuế và những cô
gái điếm, song Ngài tin tưởng vào thiện chí lắng nghe lời Chúa của họ và nhờ đó
mà canh tân đời sống. Đồng thời, Ngài cảnh tỉnh thái độ chủ quan trong lời thưa
“ vâng” nhưng lại” không làm” của người Do thái , thái độ ỷ lại của “ ḍng dơi
được tuyển chọn” của họ. Họ có thể rất thông thạo luật Chúa, tuân giữ cặn kẽ và
ăn chay cẩn thận nhưng lại quên đi cốt lơi của luật là t́nh yêu thương : Yêu
Chúa và yêu người để mỗi ngày nhờ vào những giới luật của t́nh yêu mà họ sẽ trở
nên đồng h́nh đồng dạng với Đấng tác tạo họ. Do đó, họ sử dụng sự công chính của
riêng họ để mưu danh - cầu vị, để phô trương thế thượng phong của ḿnh của ḿnh
và tự cho ḿnh có quyền phê phán cách sống của người khác, và như thế họ khó mà
nh́n ra được cái không đúng trong cách sống đạo của ḿnh, thậm chí cũng chẳng
bao giờ nghĩ rằng ḿnh sai và cần phải sửa sai.
Trong khi đó, Thiên Chúa – Đấng có tên là T́nh yêu vẫn có đủ kiên nhẫn chờ đợi
sự hoán cải của con người, chấp nhận những sai lỗi của họ, miễn là họ quyết tâm
hoán cải tận căn, sẵng sàng ban sự sống cho “ kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó làm,
mà thi hành điều chính trực công minh” ( Ed 18, 27) và Ngài cũng vô phương không
thể cứu giúp “ người công chính từ bỏ lẽ công chính mà làm điều bất chính” ( Ed
18, 27). Đó cũng chính là đường lối ngay thẳng của Thiên Chúa mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en
diễn tả.
Với những “ đua tranh” của cuộc sống hôm nay, việc sống Lời Chúa của người Kitô
hữu quả kông đơn giản, nhất là sống sựcông chính mà Thánh Phaolô khuyên nhủ : “
Đừng làm chỉ v́ ganh tỵ, hăy lấy ḷng khiêm nhường mà coi người khác hơn ḿnh,
đừng t́m lợi ích riêng ḿnh nhưng hăy t́m lợí ích cho người khác” (Pl 2, 3---4)
Do sự lựa chọn của Kitô hữu luôn bị đặt giữa sự giằng co của một bên là công
chính của Thiên Chúa và một bên là xu thế tư lợi, nên chỉ có những ai thực sự
cảm nghiệm được t́nh yêu phụ tử Cha, có được một niềm tin mạnh mẽ và hạnh phúc
mai hậu mới dám đánh đổi những tư lợi trong xă hội hiện tại, để sống sự công
chính của Đấng vừa là nguyên thuỷ vừa là cùng đích của muôn loài.
Nữ tu Anna Phạm Thị Bích Hằng
Ḍng Đa Minh Tam Hiệp
TRONG
NƯỚC TRỜI
Trần Mỹ Duyệt
Một Kitô hữu b́nh thường
vẫn được dậy dỗ và đă thuộc ḷng chân lư này, đó là: Thiên Đàng - Nước Trời - là
nơi Thiên Chúa thưởng kẻ lành, và hỏa ngục là nơi Ngài phạt kẻ dữ. Do đó, trong
nước Thiên Chúa chắc chắn sẽ không có thành phần đầu trộm, đuôi cướp, và đĩ điếm.
Nhưng Chúa Giêsu đă nói với các luật sỹ, Pharisiêu, và các thượng tế thời Ngài
như sau: “Tôi bảo thật, những kẻ thu thuế và gái điếm sẽ vào Nước Trời trước các
ngươi” (Mt 21:31). Và điều này hẳn làm cho nhiều người vốn nghĩ về Nước Trời –
Thiên Đàng với ư niệm và thâm tín như trên cảm thấy khó chịu và thất vọng.
Chúa nói rồi Chúa làm.
Và cũng qua Tin Mừng thuật lại, chúng ta đă thấy trong nước của Ngài, ít nhất
cũng đă có mấy người mà bọn luật sỹ, Pharisiêu và thượng tế không muốn nh́n thấy
ở đó là: Mađalêna, một cô điếm nổi danh ở Giêrusalem. Máthhêu, nhân viên thu thế.
Giakêu. Và tên cướp cùng bị đóng đanh bên phải Chúa trên đồi Golgotha. Saolê hay
cũng được gọi là Phaolô, vị Tông Đồ Dân Ngoại sau này. Danh sách này chắc c̣n
dài và nhiều lắm, v́ cũng chính Chúa Giêsu đă có lần nói: “Ta đến không phải để
kêu gọi những người công chính, nhưng là kẻ tội lỗi”. Trong danh sách dài những
người như vậy được vào Nước Trời gần với chúng ta nhất là Augustine, chàng trai
phóng đăng, kiêu căng đă bị Chúa chinh phục, đă t́m gặp Ngài và trở nên đại
thánh.
Điều này chứng tỏ ở
trong Nước Thiên Chúa không phải chỉ có những thành phần thánh thiện, đạo đức và
tốt lành, nhưng là có cả những thành phần mà như Chúa Giêsu vừa đề cập đến tức
là gồm cả kẻ tội lỗi, xấu nết. Và nó cũng cho chúng ta biết thêm về một chân lư
này, đó là, chúng ta tất cả cũng chỉ là những tội nhân trước mặt Thiên Chúa.
Những con nợ, những kẻ làm công ế ẩm đáng thương mà nếu ông chủ nhân lành không
rộng răi tha cho, hoặc ban cho một cơ may được làm việc trong vườn nho của ông,
th́ cũng đành mắc nợ trọn đời, hoặc chết đói v́ túng thiếu.
Nếu ai đă từng đọc qua
cuộc khảo cứu của một linh mục Ḍng Phanxicô nổi tiếng về khoa chiết tự học, sẽ
nhận ra chân lư trên. Vị linh mục này được trao cho việc khảo cứu và phân tích
tự bút – chữ viết - của hơn 20 vị thánh. Nhưng để khách quan và chuyên nghiệp,
ông đă không được thông báo và cho biết những chữ viết ấy là của ai và xuất xứ
từ đâu. Và sau đó, kết quả được tŕnh với các vị có thẩm quyền. Theo đó, chỉ có
2 vị trong số những thánh nhân lẫy lừng của Giáo Hội ở vào thời đại gần đây, c̣n
lưu lại được chữ viết, là có căn tính, có khuynh hướng, và có tâm hồn đạo hạnh
từ thuở nhỏ. Ngược lại những vị như Tiến sĩ Têrêsa D’avilla, cải tổ ḍng kín
Camêlô. Tiến sĩ Têrêsâ Hài Đồng Giêsu. Inhaxiô, sáng lập ḍng Tên. Phanxicô,
sáng lập ḍng Phanxicô. Đaminh, sáng lập ḍng Đaminh. Gioan Bosco, sáng lập ḍng
Don Boscô, và đông đảo trong số c̣n lại đều có những khuynh hướng, và cá tính
tầm thường, ngược lại với đời sống đạo hạnh như ghen tương, đa mê nhục dục, ham
danh lợi, chủ quan, bủn xỉn, và hẹp ḥi... Hai vị có bản chất đạo đức đó là
Thánh Giáo Hoàng Piô X, và Đaminh Saviô.
Qua kết quả cuộc khảo
cứu trên, chứng tỏ rằng những người đă vào và sống trong Nước Trời, không phải
là những người sinh ra với bản tính, tâm thức thánh thiện, hoàn hảo. Họ không
nên thánh từ lúc mới sinh. Nhưng như bất cứ ai khác, họ cũng mang trong ḿnh
những khuyết điểm, những yếu đuối, và lỗi lầm.
Điều mà Chúa Giêsu nói
với người Do Thái thời đó, cách riêng, cho những thượng tế, Pharisiêu, và luật
sĩ, Ngài cũng muốn nhắn gửi mọi Kitô hữu sau này về thái độ và lề thói phán đoán,
xét xử người này, người khác dựa vào ngoại h́nh, thái độ và địa vị. Một sự so
sánh, đáng giá nhằm thỏa măn sự kiêu căng và tự phụ của họ. Thực tế, họ lại
không hơn ǵ những người mà họ cho là đĩ điếm, trộm cướp, v́ tấm ḷng của những
người này không hẳn như thế, và hoàn cảnh đưa đẩy những người ấy vào những việc
làm như thế đôi khi ngoài sự kiểm soát và ước muốn của họ. Tuy nhiên, những
người này không vào Thiên Đàng, không tham dự bàn tiệc Nước Chúa với danh nghĩa
một tên cướp, một cô gái điếm, hay một chàng sở khanh, lường gạt. Nhưng bằng tấm
ḷng tan nát khiêm cung, và cậy dựa vào ḷng nhân từ của Thiên Chúa.
Dụ ngôn người chủ vườn
ra thuê thợ cho thấy điều này, ông chủ v́ muốn tạo công ăn việc làm, và v́
thương những người đứng chờ đợi cả ngày mà không ai thuê họ. Dụ ngôn ông vua
nhân từ đă tha cho tên đầy tới bất lương một số nợ, mà dù có bán y, vợ con y, và
gia tài y cũng không đủ để trả. Việc Chúa đón nhận Matthêu, Giakêu, tên cướp
thống hối, Mađalêna, hay mọi người chúng ta hôm nay trong Giáo Hội của Ngài, cho
được tham dự bàn tiệc Thánh Thể và Lời Chúa đă nói lên rằng không ai có thể vào
Thiên Đàng, vào Nước Chúa với khả năng và sức lực của ḿnh. Và thông điệp mà
Chúa muốn nhắn gửi mọi Kitô hữu qua trích đoạn Tin Mừng hôm nay là:
-
Ḷng nhân lành của
Thiên Chúa vượt xa mọi tội lỗi của con người. Không ai được thất vọng, và từ
chối sự tha thứ của Ngài.
-
Chúng ta không được
phê b́nh, đoán xét, hoặc kết án anh chị em ḿnh dù họ là bất cứ ai. Hăy để
việc đoán xét, kết án cho Chúa. Phần chúng ta hăy đối xử thân t́nh và coi mọi
người là anh chị em.
-
Tất cả chúng ta, mỗi
người đều phải chấp nhận thân phận yếu hèn của ḿnh. Tuy nhiên, không ai được
quyền dừng lại ở những khuyết điểm ấy, mà phải vươn lên, phải chỗi dậy như
người con đi hoang, đă can đảm chỗi dậy và về cùng cha anh.
|