|
BÀI ĐỌC I: Is 35:4-7a
“Tai người điếc sẽ mở ra
và người câm sẽ nói được” Các ngươi hăy nói với những tâm hồn xao xuyến: Can đảm lên, đừng sợ! Nầy đây Thiên Chúa các ngươi đến để phục thù. Chính Người sẽ đến và cứu thoát các ngươi. Bấy giờ mắt người mù sẽ sáng lên, và tai người điếc sẽ mở ra. Bấy giờ người què sẽ nhảy nhót như nai, và người câm sẽ nói được, v́ nước sẽ chảy lên nơi hoang địa, và suối nước sẽ chảy nơi đồng vắng. Đất khô cạn sẽ trở thành ao hồ, và hoang địa sẽ trở nên suối nước. Lời của Chúa.
Linh hồn tôi ơi, hăy ngợi khen Chúa. 1. Thiên Chúa trả lại quyền lợi cho người bị ức, và ban cho những người đói được cơm ăn. Thiên Chúa cứu gỡ những người tù tội. 2. Thiên Chúa mở mắt những kẻ đui mù, Thiên Chúa giải thoát những kẻ bị kḥm lưng khuất phục, Thiên Chúa yêu quư các bậc hiền nhân. Thiên Chúa che chở những khách kiều cư. 3. Thiên Chúa nâng đỡ những người mồ côi quả phụ, và làm rối loạn đường nẻo đứa ác nhân. Thiên Chúa sẽ làm vua tới muôn đời, Sion hỡi, Thiên Chúa của ngươi sẽ làm vua tự đời nầy sang đời khác.
“Không phải Thiên Chúa đă
chọn người nghèo để hưởng nước Người đó sao?” Anh em thân mến, anh em là những người tin vào Đức Giêsu Kitô vinh hiển, Chúa chúng ta, anh em đừng thiên vị. Giả sử trong lúc anh em hội họp, có người đi vào, tay đeo nhẫn vàng, ḿnh mặc áo sang trọng; lại cũng có người nghèo khó đi vào, áo xống dơ bẩn, nếu anh em chăm chú nh́n người mặc áo rực rở mà nói: “Xin mời ông ngồi chỗ danh dự nầy”. C̣n với người nghèo khó th́ anh em lại nói rằng: “C̣n anh, anh đứng đó”, hoặc: “Anh hăy ngồi dưới bệ chân tôi”. Đó không phải là anh em xét xử thiên vị ở giữa anh em và trở nên những quan xét đầy tà tâm đó sao? Anh em thân mến, xin hăy nghe: Không phải Thiên Chúa chọn người nghèo trước mắt thế gian, để nhờ đức tin, họ trở nên giàu có và được hưởng nước Người đă hứa cho những kẻ yêu mến Người đó sao? Lời của Chúa.
“Người làm cho kẻ điếc
nghe được và người câm nói được” Khi ấy, Chúa Giêsu từ địa hạt Tyrô, qua Siđon, đến gần biển Galilêa giữa miền thập tỉnh. Người ta đem một kẻ câm điếc đến cùng Người và xin Người đặt tay trên kẻ ấy. Người đem anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh ta. Đoạn ngước mắt lên trời, Người thở dài và bảo: Ephpheta, nghĩa là “hăy mở ra”, tức th́ tai anh ta mở ra, và lưỡi anh ta được tháo gỡ và anh nói được rơ ràng. Chúa Giêsu liền cấm họ đừng nói điều đó với ai. Nhưng Người càng cấm, th́ họ càng loan truyền mạnh hơn. Họ đầy ḷng thán phục mà rằng: “Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được”. Phúc Âm của Chúa.
----------------------------------
Không phải chúng ta tự ḿnh nghe được lời Chúa mà là chính Lời Chúa làm cho chúng ta nghe được Lời Người
Bài Phúc Âm Chúa Nhật XXIII Thường Niên Năm B tuần này tŕnh thuật việc Chúa chữa lành cho một người câm điếc ở miền Thập Thành. Nếu chủ đề của Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh là Mầu Nhiệm Chúa Kitô Sự Sống Tái Sinh th́ phép lạ chữa lành câm điếc của Chúa Giêsu có liên hệ như thế nào? Trước hết, chúng ta chẳng những cần phải nhớ lại ư nghĩa của bệnh hoạn tật nguyền với tội lỗi, sau đó phải c̣n để ư tới tiến tŕnh và cách thức chữa lành của Chúa Giêsu nữa.
Về ư nghĩa của bệnh nạn tật nguyền liên quan đến tội lỗi, chúng ta vẫn được Giáo Lư dạy cho biết đau khổ và sự chết nơi thân xác là hậu quả của tội lỗi, của nguyên tội. Tuy nhiên, bệnh nạn tật nguyền, t́nh trạng bất toàn về sự sống thể lư và không toàn vẹn của thân xác con người, chẳng những là thực tại của đau khổ và là hiện thân của sự chết thể lư, mà c̣n là tiêu biểu cho tội lỗi nữa. Thật thế, những thứ tật nguyền như mù ḷa, câm điếc, bất toại, kể cả chính t́nh trạng tột cùng tối hậu của đau khổ là chết chóc, thậm chí cả t́nh trạng bị quỉ ám, cũng đều nói lên ư nghĩa và tác dụng của tội lỗi nơi con người.
Con người tội lỗi không phải là con người mù ḷa hay sao, và tội lỗi không làm cho con người càng bị mù ḷa hay sao? Đó là lư do Chúa Giêsu đă nói với viên chức trong Hội Đồng Do Thái là ông Nicôđêmô rằng: “Con người chuộng tối tăm hơn ánh sáng, v́ các việc họ làm đều gian ác. Ai làm điều gian ác th́ ghét ánh sáng; họ không đến gần ánh sáng v́ sợ các việc làm của họ bị bại lộ” (Jn 3:19-20). Trong trường hợp chữa lành cho một người mù từ lúc mới sinh, sau khi nghe Chúa Giêsu khẳng định: “Tôi đến thế gian để phân rẽ thế gian, để làm cho kẻ mù được thấy c̣n kẻ thấy bị mù”, các người Pharisiêu nói với Người rằng: “Thế th́ ông cho chúng tôi toàn là những kẻ mù hay sao?”, nên đă được Người xác nhận: “Nếu quí vị mù th́ quí vị vô tội, đằng này quí vị nói ‘chúng tôi thấy’ nên tội của quí vị vẫn c̣n đó” (Jn 9:39-41). Nguyên tội chính là tác động mù ḷa đầu tiên của con người, ở chỗ, con người đă bỏ Đấng Tạo Hóa của ḿnh để đi nghe theo tên cám dỗ bùi tai, và sau khi đă phản bội Chúa là Thiên Chúa của ḿnh rồi, con người đă đâm ra mù quáng, không biết giơ tay hái cây trường sinh cũng được Thiên Chúa trồng ở giữa vườn cùng với cây biết lành biết dữ (x Gen 2:9) mà ăn để tự giải độc gây ra bởi trái cấm oan nghiệt, lại cuống lên sau khi mở mắt ra thấy ḿnh trần truồng liền ẩn trốn và đổ thừa cho nhau (x Gen 3:7,12-13).
Con người tội lỗi không phải là con người câm điếc hay sao, và tội lỗi không làm cho con người càng trở thành câm điếc hay sao? Thật ra, ngay từ ban đầu con người không phải là thành phần câm điếc bẩm sinh, v́ ngay sau khi nghe tên cám dỗ xui dại, miệng con người c̣n nhắc lại những ǵ tai họ đă nghe thấy chính Chúa là Thiên Chúa của ḿnh dặn bảo (x Gen 3:2-3), những ǵ đă được Ngài in ấn hay ghi khắc sâu xa trong lương tâm làm người của họ. Và sau khi con người đă sa ngă phạm cái tội đầu tiên được gọi là nguyên tội ấy, con người vẫn c̣n nghe thấy tiếng Chúa di động trong vườn địa đường như tiếng lương tâm ray rứt, và đă trả lời những vấn đề được Ngài đặt ra (x Gen 3:8-13). Thế nhưng, việc nghe được tiếng Chúa mà c̣n phạm tội không phải là dấu chứng tỏ con người chủ động muốn trở thành câm điếc hay sao, ở chỗ họ đă muốn bịt tai trước tiếng nói của lương tâm để có thể âm thầm làm theo ư riêng của ḿnh? Ngày nay con người đă đến bậc câm điếc rối loạn, đến nỗi chẳng những không nghe được tiếng lương tâm, ở chỗ đă mất ư thức tội lỗi, nhưng lại nghe được những tiếng quái gở khác, được thể hiện điển h́nh qua các việc họ cho phép hôn nhân đồng tính và tạo sinh ngoại nhiên.
Con người tội lỗi không phải là con người bất toại hay sao, và tội lỗi không làm cho con người càng trở thành bất toại hay sao? Thật vậy, ngay từ ban đầu, con người đă tỏ ra bất lực trước những ǵ ḿnh biết là tốt, là sự sống mà không làm theo, không làm nổi, trái lại, làm theo những ǵ sai trái, những ǵ mang lại chết chóc cho ḿnh. Hậu quả ngay sau nguyên tội là con người đă không có đủ can đảm để nhận sự thật, lại đi đổ lỗi cho nhau. Nghĩa là, cho dù có thể làm được (theo quyền năng tự do) những ǵ không được làm (vô luân và tội lỗi) nhưng con người thật sự bị bất toại trước sự lành và hoàn toàn trở thành bất toại trước sự thật. Bởi đó, tự do không phải là muốn làm ǵ th́ làm, mà là làm những ǵ hợp với sự thật để có thể đạt được sự thiện, tức làm những ǵ khiến con người nên hoàn thiện hơn, đạt được cùng đích chân thật của ḿnh, bằng không, nó sẽ làm cho con người trở thành một thứ nô lệ phục vụ đam mê nhục dục, làm tay sai của sự dữ, làm hiện thân của tử thần. Một con người nghiện ngập không thể chừa bỏ không phải là một kẻ bất toại hay sao?
Con người tội lỗi không phải là con người bị chết chóc hay sao, và tội lỗi không làm cho con người càng bị chết chóc hay sao? Đúng thế, tội lỗi được thể hiện rơ nhất nơi t́nh trạng chết chóc của thân xác. Nếu chết là trường hợp linh hồn ĺa xác, hay xác trở thành vô hồn, th́ một khi con người phạm tội là con người không c̣n được Thiên Chúa hằng hữu ở với họ nữa, nghĩa là một khi Thiên Chúa là nguyên lư hiện hữu của con người và nơi con người không c̣n ở với họ nữa th́ toàn thể hữu thể của họ trở thành như một cái xác vô hồn, mang đầy những tính chất chết chóc, cho tới ngày họ thực sự là bụi đất trở về với đất bụi (x Gen 3:19). Thực tế cho thấy, sau nguyên tội, thậm chí kể cả sau khi lănh nhận Bí Tích Rửa Tội tái sinh, con người vẫn c̣n ở trong tội lỗi, vẫn mang trong ḿnh những dấu vết của tội lỗi, mầm mống của tội lỗi, vẫn đầy những tính mê nết xấu trong tâm hồn, và vẫn phải chịu đau khổ rồi chết đi nơi thân xác. Nếu chết là t́nh trạng phân ly giữa hồn và xác th́ cuộc sống con người là một cái chết liên lỉ về tâm linh, ở chỗ, như Thánh Phaolô cảm nghiệm những ǵ tôi muốn th́ tôi không làm, c̣n cái ǵ tôi ghét th́ tôi lại làm (x Rm 7:15), tôi không làm điều lành tôi muốn làm mà là điều xấu tôi không muốn làm (x Rm 7:19). Nếu hiện tượng lạnh ngắt, cứng đơ và nặng trịch nơi thi thể của người chết là dấu hiệu cho thấy sự sống không c̣n nơi họ thế nào, th́ con người c̣n sống động nơi thân xác đây thật sự cũng mang trong ḿnh những tính chất hay dấu vết của sự chết thiêng liêng như vậy. Dấu vết chết chóc về tâm linh thứ nhất nơi con người đó là tâm hồn con người “lạnh ngắt” và dửng dưng trước t́nh trạng cùng khổ của tha nhân, kể cả người thân yêu nhất của ḿnh; việc các cường quốc thực hiện mưu đồ tân thực dân đối với các nhược quốc trong thế giới ngày nay, cùng với trào lưu ly dị và phá thai hiện tại không phải là hiện tượng lạnh ngắt ḷng người hay sao? Dấu vết chết chóc về tâm linh thứ hai nơi con người đó là phản ứng của con người “cứng đơ” trước tiếng lương tâm, ở chỗ họ không thể đáp lại sự thật tối cao và sự thiện chân chính là những ǵ làm cho họ hoàn toàn sống tự do và hạnh phúc trường sinh vinh phúc. Dấu vết chết chóc về tâm linh thứ ba nơi con người đó là hành động của con người “nặng trịch” trước việc làm lành lánh dữ.
Con người tội lỗi không phải là con người bị quỉ ám hay sao, và tội lỗi không làm cho con người càng trở thành ô uế hay sao? Sự kiện hay hiện tượng con người bị quỉ ám là dấu chứng tỏ rơ ràng nhất cho thấy con người không c̣n sự sống thần linh là Thiên Chúa ở nơi bản thân họ. Con người của họ đă bị thần dữ chiếm đoạt và làm chủ, xui khiến họ làm những ǵ bất xứng với phẩm giá của họ, và họ trở thành dụng cụ, thành tay sai hay thừa sai gieo rắn “văn hóa sự chết” cho hắn. Ngoài trường hợp bị quỉ ám thực sự, b́nh thường con người c̣n bị các thứ thần ô uế ám nữa. Đó là các thứ đam mê nhục dục, tính mê nết xấu nơi họ, nhất là các thứ ngẫu tượng do họ tạo ra, như đă được đề cập đến trong bài chia sẻ tuần trước về “bảy thần ô uế khác”. Trường hợp bị quỉ ám hay các thứ thần ô uế ám là trường hợp con người c̣n bị chi phối và điều khiển bởi “quyền thống trị của tối tăm” (Col 1:13), “quyền lực sự chết” (Heb 2:14), “quyền lực tội lỗi” (Rm 3:9), “quyền lực của tên gian ác” (1Jn 5:19).
Tóm lại, việc trừ thần ô uế, hồi sinh kẻ chết và việc chữa lành các thứ tật nguyền bệnh hoạn, như việc chữa lành cho một người câm điếc trong bài Phúc Âm tuần này, chúng ta thấy Chúa Giêsu, đúng như lời Thánh Gioan xác tín: “Con Thiên Chúa tỏ ḿnh ra là để phá hủy các việc làm của ma quỉ” (1Jn 3:8), tức là Người đến để cứu con người khỏi tội lỗi và sự chết, đúng hơn Người đến là để tái sinh con người “bởi trên cao” (Jn 3:3), “bởi nước và Thần Linh” (Jn 3:5), nhất là bằng Cuộc Vượt Qua của Người, ở chỗ Người chết đi để tiêu diệt sự chết và sống lại để phục hồi sự sống. Như thế, nơi mỗi phép lạ, cách riêng phép lạ chữa lành, đều có hai phần, phần Chúa tỏ ḿnh ra và phần con người nhận biết, chẳng khác ǵ như việc ánh sáng chiếu trong tăm tối và xua tan tối tăm vậy. Nếu con người, nhất là thành phần nạn nhân của tật nguyền bệnh hoạn, như người câm điếc trong bài Phúc Âm tuần này, nhờ thân xác họ được chữa lành mà tâm linh họ nhận biết “Thiên Chúa, Đấng cứu chuộc tôi” (Lk 1:47), th́ không phải là họ được Lời Nhập Thể là Chúa Kitô tái sinh hay sao? V́ “sự sống đời đời” chính là ở chỗ nhận biết Chúa là Thiên Chúa của ḿnh (Jn 17:3), là trở về với nguyên lư hiện hữu tối cao của ḿnh.
Chưa hết, trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, chúng ta c̣n thấy cách thức Chúa Giêsu chữa lành ngươiøi câm điếc nữa. Vẫn biết, với quyền năng vô hạn của ḿnh, Chúa Kitô có thể chữa lành bằng bất cứ cách nào dễ nhất và nhàn nhất, chẳng hạn phán một lời “Ephrata”, “hăy mở ra” cũng đủ, đằng này, trước khi phán lời quyết liệt đó, Người c̣n phải dẫn anh ta ra khỏi đám đông, rồi đặt các ngón tay vào lỗ tai của anh ta và bôi nước bọt lên miệng anh ta nữa mới được. Nếu từng tác động Chúa Giêsu làm đều không phải là vô nghĩa th́ những tác động Người chữa lành câm điếc cho nạn nhân của bài Phúc Âm Chúa Nhật này cũng phải có một ư nghĩa nào đó? Trước hết, Chúa Giêsu không chữa lành câm trước mà là điếc trước. Bởi v́, b́nh thường người bị điếc bẩm sinh sẽ là người cũng bị câm luôn, v́ một khi bộ phận tiếp nhận âm thanh của họ là đôi tai bị hỏng th́ bộ phận phát thanh của họ là miệng lưỡi của họ cũng bị tịt luôn. Đó là lư do Chúa Giêsu đă chữa thính giác của nạn nhân đă rồi mới tới khả năng phát ngôn của anh ta. Phúc Âm đă ghi lại rơ ràng thứ tự này như sau: “Tức th́ tai anh ta mở ra… và bắt đầu nói năng b́nh thường”. Ở đây chúng ta thấy rằng cần phải nhận được mạc khải đă mới có thể loan truyền mạc khải. Chắc hẳn người câm điếc được chữa lành này không hề nghe thấy lời Chúa Giêsu phán “hăy mở ra”, nhưng chính quyền năng của lời này đă làm cho tai anh ta mở ra và nghe thấy. Ở đây chúng ta c̣n thấy một điều quan trọng khác nữa, đó là không phải chúng ta tự ḿnh nghe được lời Chúa mà là chính Lời Chúa làm cho chúng ta nghe được Lời Người.
Sau nữa, ba cử chỉ Chúa Giêsu làm nơi nạn nhân trước khi Người phán lời “hăy mở ra” mang ư nghĩa ǵ, nếu không phải đều là những ǵ cần thiết để nạn nhân có thể được chữa lành sau lời truyền phán “hăy mở ra” của Người. Tự Người không cần phải làm thêm ba cử chỉ này, nhưng sở dĩ Người làm như thế là v́ để sửa soạn cho nạn nhân câm điếc, thành phần cần hội đủ ba điều thiết yếu ấy để có thể nghe thấy và nói được. Tu đức đă cho thấy rơ ba tác động cần thiết đối với một tâm hồn vốn bị câm điếc trước mạc khải thần linh, ba tác động có thể giúp họ chẳng những nghe được tiếng Chúa mà c̣n đáp ứng lời Chúa là ở chỗ, họ cần phải sống yên tĩnh, xa lánh t́nh trạng ồn ào của thế gian, để nhờ đó chuyên chú lắng nghe Chúa nói qua những ǵ Người đă dùng ngón tay của Người ghi khắc trong ḷng họ (x Rm 2:15), và sau đó sẵn sàng loan truyền những ǵ (như nước miếng chẳng hạn) “phát ra từ miệng Thiên Chúa” (Mt 4:4).
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
---------------------------------------------- Ephepheta – Hăy mở ra!
Trần Mỹ Duyệt
Chỉ một câu nói đơn giản “ephpheta” – Hăy mở ra, Chúa Giêsu có thể “thông” được lỗ tai điếc và “mở” trói cho chiếc lưỡi ngọng cứng của một người. Nếu Chúa Giêsu hôm nay có mặt trên trái đất như đă có mặt tại không gian và thời gian Do Thái trước đây 2000 năm. Nếu ngài mở một bệnh viện chuyên trị “câm và điếc” với bài thuốc rất đơn giản “Ephpheta” th́ chắc chắn ngài sẽ được trao giải thưởng Nobel và nhiều giải thưởng cao quí khác thuộc ngành y khoa. Và một điều cũng rất hiển nhiên nữa là bệnh viện ngài không cần quảng cáo nhưng số bệnh nhân sẽ không bao giờ hết.
Qua trích đoạn Tin Mừng mà Thách Marcô tường thuật hôm nay, khiến chúng ta h́nh dung ra một bậc thầy, một bác sỹ ngoại hạng, mà nếu có mặt ở đây và ngay lúc này th́ dù có phải lấy hẹn, xếp hàng dài đến đâu, các bênh nhân câm và điếc cũng sẽ cố gắng chờ đợi để được ngài chữa trị.
Đối với những người mù, việc tiếp cận với thế giới bên ngoài là đôi tai và đôi tay. Họ cảm nhận bằng âm thanh hoặc bằng cách đụng chạm đến người khác hay các đồ vật. Sự mất mát thị giác làm cho thế giới bên ngoài của họ hoàn toàn bị giới hạn.
Với những người câm và điếc th́ thế giới bên ngoài lại được họ tiếp nhận bằng cặp mắt, nhưng lại không hề cảm nhận được âm thanh và do đó, sự hiểu biết về thế giới quanh họ cũng bị giới hạn.
Riêng tâm trạng của những người câm có thể phần nào được diễn tả tương tự qua hội chứng Autism, một hội chứng chỉ phát hiện khi em bé lên 2 tuổi. Hội chứng này được chẩn đoán dưa trên 3 yếu tố: Khả năng ngôn ngữ, khả năng giao tiếp xă hội, và tâm tính bất thường của em bé. Yếu tố này quyện lẫn yếu tố kia, nhưng có lẽ điều làm cho một em nhỏ hay một người bị Autism cảm thấy khó chịu nhất là khả năng ngôn ngữ bị giới hạn. Người bệnh không nói và diễn tả cảm nghĩ của ḿnh được, ngoại trừ lặp đi lặp lại vài chữ, hoặc một vài tiếng nghe được như một con vẹt.
Nhưng một hiện tượng khác trái ngược, là có rất nhiều bệnh nhân câm điếc tâm linh mà không hề quan tâm lo lắng chữa chạy, mặc dù ở phương diện này đang có sẵn một bậc thầy, một lương y toàn năng chỉ cần nói một câu “Ephpheta” – Hăy mở ra, là lập tức tai và lưỡi người bệnh được tháo gỡ, và bệnh nhân nói và nghe được. Nói một cách khác, họ sẵn sàng chịu câm và điếc mà không muốn để ai chữa trị, dù là chữa trị miễn phí.
Thực tế cho thấy có rất nhiều người không bao giờ được nghe nói đến Thiên Chúa, đến Tin Mừng của ngài, đến Giáo Hội ngài, đến những chân lư vĩnh cửu. Ngược lại, tai họ đă hầu như bị điếc bởi những tiếng căi vă, chửi bới, những tiếng hoan hô, đả đảo, những tiếng oán than, trách móc. Nhiều người tuy không bẩm sinh bị điếc, nhưng cũng đă trở thành điếc đối với thế giới âm thanh đạo đức. V́ không phát triển đúng mức khả năng nghe của ḿnh, do đó, việc chuyển dịch và thấu triệt được ư nghĩa của chân lư, của Tin Mừng cứu độ, của những giá trị cuộc đời nơi họ hoàn toàn như không có.
Không những không nghe được và nghe quen những lời nói, âm thanh đạo đức, công lư, ḥa b́nh, bác ái, các bệnh nhân này c̣n trở nên câm. Họ không nói được hoặc không bao giờ nói những ngôn ngữ ấy. Bùi lại, v́ đă nghe quen và quen nghe những âm thanh tục tằn, thô bỉ, gian dối, lừa đảo, và lộng ngôn, nên họ cũng chỉ nói được và xử dụng được những ngôn từ đó. Những âm thanh và từ ngữ như phá thai, ly di, đồng tính, hôn nhân đồng tính, ma túy, rượu, hoặc những tiếng khác như giầu có, địa vị, quyền chức, hối lộ, tham nhũng...
V́ những ngôn ngữ ấy đă len lỏi trong tim óc và đă được nói ra từ cửa miệng của nhiều người, nên đă khiến cho những giao tiếp giữa con người với con người trở thành khó hiểu và khó chấp nhận. Nó thôi thúc và khiêu khích sự tham lam, lừa đảo, giận dữ, thù nghịch, tranh chấp, và hiểu lầm. Và từ đó dẫn đến thanh toán, chém giết, khủng bố, và khống chế lẫn nhau khiến cuộc sống trở nên căng thẳng, khó khăn, và buồn nản.
Làm sao con người có thể thoát ra ngoài triệu chứng câm điếc tâm linh này? Và ai có thể chữa lành, chữa dứt những triệu chứng ấy? Câu trả lời đă được Thánh Kư Marcô cho biết, chỉ có Đức Kitô. Nhưng nếu muốn ngài chữa khỏi, th́ ít nhất phải có hai điều kiện:
1) Như người câm và điếc kia, con người phải kêu cầu đến Thiên Chúa. Phải được giới thiệu với ngài, v́ trong trường hợp này, kẻ bệnh làm sao có thể diễn tả được điều ḿnh cần và mong muốn. Trong trường hợp bệnh nhân có thể đến với Chúa ở đây, những kẻ đem bệnh nhân đến đó chính là cha mẹ, anh chị em, những người quen thân, những người có trách nhiệm về đời sống tâm linh của bệnh nhân. Có nghĩa là họ phải giới thiệu bệnh nhân với Chúa Giêsu. Đem họ đến với Chúa Giêsu, và phải xin với Chúa Giêsu chữa lành họ. Sự cộng tác của những người thân là bước đầu và hết sức cần thiết.
Vai tṛ người giới thiệu ở đây cũng nhắc nhở mọi Kitô hữu chúng ta về đời sống truyền đạo, và gương sống chứng nhân của ḿnh. Kitô hữu chúng ta cần phải hỏi ḿnh, tôi đă làm ǵ để thu hút và đem người khác đến với Chúa Giêsu và Giáo Hội của ngài?
2) Phải được Chúa ra tay chữa cho khỏi. Ngài phải đặt tay, phải động chạm đến bệnh nhân. Ngài sẽ dùng thần khí ngài để nói lời chữa lành “Ephpheta”.
Một khi đă được tiếp xúc với Chúa Giêsu rồi, bệnh nhân phải ngoan ngoăn theo ngài xa rời khỏi đám đông, tức là ra khỏi t́nh trạng cuộc sống hiện tại của ḿnh. Ra khỏi môi trường dẫn ḿnh đi vào những lư do để tai và lưỡi ḿnh bị trói buộc. Nhất là phải để Chúa Giêsu nói và nghe Chúa nói. Thiên Chúa động chạm đến linh hồn, và nếu linh hồn cộng tác với ơn của ngài, th́ ngài sẽ dùng thần khí mà chữa lành bệnh câm điếc cho linh hồn.
Tóm lại, khi đă là bệnh nhân hoặc tự nhận ḿnh có bệnh, th́ điều kiện trước hết, chúng ta phải cần đến là người giới thiệu, hướng dẫn để t́m gặp Chúa Giêsu. Những người đó là cha mẹ, anh chị em, bạn bè thân quen, những vị lănh đạo tinh thần. Đặc biệt, chúng ta phải cần đến Đức Trinh Nữ Maria, người mẹ dịu dàng hằng luôn săn sóc, cầu bầu và lo lắng cho đời sống tâm linh của mỗi người chúng ta.
Rồi sau khi đă được giới thiệu đến với Chúa Giêsu, th́ chúng ta phải theo ngài ra khỏi đám đông. Phải để ngài dẫn chúng ta đến nơi mà ngài muốn chữa lành. Đó là từ bỏ những đam mê, tật xấu, và những lư do đưa đến căn bệnh của linh hồn.
Và sau cùng là để bàn tay Chúa đụng chạm đến chúng ta, có nghĩa là để Chúa sửa sai, uốn nắn, và chỉnh đốn lại cuộc đời mỗi người chúng ta. Điều này có thể là rất khó chịu, như việc ngài lấy nước bọt bôi vào lưỡi người bệnh mà Tin Mừng đă tường thuật, một hành động coi có vẻ thiếu vệ sinh và gây khó chịu.
Ephpheta – Hăy mở ra. Bạn và tôi chúng là những người có bệnh. Ít nhiều ǵ, tất cả mọi người chúng ta cũng mang hội chứng câm điếc. Không nghe được lời Thiên Chúa là điếc. Không chuyển dịch và hiểu lời ngài; nhất là không nói được về ngài, không làm chứng nhân cho ngài là câm. Một h́nh thức câm và điếc tâm linh. Mà v́ là những bệnh nhân, nên tất cả mọi người chúng ta đều cần đến sự chữa trị của bậc thầy và danh y Giêsu.
Lậy Chúa, xin hăy nói lời “Ephpheta” với con để tai và miệng con được mở ra để nghe và hiểu lời ngài. Và để đời con là một lời tri ân, cảm tạ t́nh yêu vô biên của ngài giữa thế giới hôm nay.
ÂN HUỆ: NGHE VÀ NÓI
Cách đây ít lâu tôi đến thăm một gia đ́nh có một anh bị câm chỉ nói ú ớ được ít lời. Dường như anh sung sướng khi có người đến thăm. Anh cố gắng nói tôi cố gắng nghe nhưng chẳng hiểu được. Anh lấy tất cả các h́nh anh chụp được cho tôi xem và chúng tôi liên lạc với nhau bằng chữ viết. Ít nhất anh c̣n nghe được điều tôi nói. Giả sử anh không nói được không nghe được th́ tội nghiệp biết chừng nào. Bài tin mừng hôm nay đề cập đến việc Chúa chữa lành một người bị câm và điếc. Đặt ḿnh vào hoàn cảnh của người đó chắc chúng ta sẽ đau khổ nhiều. Người ta bảo yếu tố quan trọng nhất trong việc tạo dựng hạnh phúc gia đ́nh là thông cảm đối thoại, nhưng nếu không nói được, không nghe được, làm sao đối thoại thông cảm? Chúng ta nói được nghe được, đó là quà tặng quí giá mà Thiên Chúa trao ban. Đứng trước quà tặng này chúng ta được mời gọi cám tạ ơn Chúa và dùng những quà tặng này như ư Chúa muốn. Kiểm điểm lại cuộc sống có lẽ chúng ta phải khiêm nhượng nh́n nhận rằng chúng ta đă lạm dụng ơn Chúa quá nhiều. Thay v́ nói lời yêu thương xây dựng, nhiều lần chúng ta lại dùng lời nói để chửi nhau, để phê b́nh nói hành nói xấu nhau. Tôi c̣n nhớ năm 1974 khi c̣n là tập sinh trong thời gian đi thử ở Phanrí, Việt Nam. Chung quanh nhà ḍng là nhà dân chúng. Một sáng nọ không hiểu có chuyện ǵ mà hai bà chửi nhau quá lẽ không phải trong ít phút mà là từ sáng cho đến tối, hai bà chửi nhau từ sáng đến tối với các danh từ có thể nghĩ được từ đèo ngang, đèo cả, đèo ngoạn mục, đèo hải vân và vân vân, đều được đem ra sử dụng cả. Lúc đó tôi đang chuẩn bị khấn và không cần phải suy nghĩ nhiều đă quyết định chọn đời tu v́ sợ rằng chẳng may mà vớ phải một bà vợ chằng như vậy th́ thà chết sớm c̣n thoải mái hơn. Just kidding. Người ta bảo văn là người. Những lời chúng ta viết, những lời chúng ta nói tỏ cho biết giá trị thật của con người chúng ta, bày tỏ tư cách của con người chúng ta ra sao, và ai trong chúng ta lại muốn để cho người khác nhận xét chấm điểm chúng ta là những con người có tư cách tầm thường thiếu giáo dục? Thứ đến, vấn đề phê b́nh, chúng ta dễ phê b́nh nói xấu nhau nhất là ở đất nước tự do này. Một điều cần được để ư đến đó là luật của tiếng dội tiếng vang, luật echo nói ǵ vang lại tiếng đó. Tôi đă từng nghe từng chứng kiến một vị hay phê b́nh hết người này đến người kia, nhưng khi tôi gặp các người khác th́ lại nghe họ phê b́nh về vị này nhiều điều. Đúng lời Chúa nói: Đong đấu nào sẽ bị đong lại đấu ấy. Tiếp đến, sống trong một đất nước tự do với nhiều loại văn hóa, tư tưởng, ư kiến, quan điểm, đường lối, cách thức suy nghĩ làm việc khác nhau, càng để tâm để ư suy nghĩ nhận xét, chúng ta càng thấy sự tương đối của các vấn đề, và đầy phức tạp khó khăn khi phải đưa ra những nhận xét tốt xấu đúng sai. Cho phép tôi nêu lên một h́nh ảnh: Ngày xưa các trường học ở Mỹ này có thói quen đọc kinh cầu nguyện với Chúa trước giờ học, nhưng nay đă bị băi bỏ. Nhiều người muốn trở lại việc cầu nguyện này, cho rằng v́ thiếu cầu nguyện nên đă làm cho các giá trị tinh thần giảm sút, các học sinh hư hỏng nhiều. Tuy nhiên, những người vô thần không tin Chúa lại lư luận rằng: "Con em chúng tôi không tin có Chúa, vậy nếu nhà trường bắt con em chúng tôi phải cầu nguyện với Chúa, phải chăng nhà trường đă đang áp đặt niềm tin tôn giáo trên con em chúng tôi dù chúng không muốn. Nếu chúng ta có tự do tôn giáo th́ xin đừng dùng tôn giáo của quí vị mà áp đặt niềm tin trên chúng tôi." Mặc dù chúng ta những Kitô hữu mong muốn cho các em học sinh cầu nguyện, tuy nhiên, chúng ta cũng phải nh́n nhận rằng những người không tin Chúa, lư luận của họ cũng vững vàng. V́ vậy đ̣i hỏi mỗi người chúng ta cần nhiều suy nghĩ cẩn thận cân nhắc kỹ càng khi phải đưa ra những nhận xét phê b́nh, đặc biệt những nhận xét phê b́nh tiêu cực về người khác. Năm 2005 tôi đang theo học ở Roma, được hân hạnh viếng xác và tham dự nghi lễ an táng tiễn biệt Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thật trang trọng và đầy cảm động, tôi suy nghĩ nhiều về sự chết và người ta bảo là cuộc đời của mỗi người được ví như một cuốn sách để viết. Mỗi một ngày qua đi là một trang sử được lật qua, chết là trang sử cuối cùng. Cuốn sách đời người được đóng lại. Chúng ta hănh diện sung sướng hay lại ngượng ngùng xấu hổ v́ trong sách đó chứa nhiều lời chửi tục, những lời nói phê b́nh nói hành nói xấu? Cuốn sách của Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đă hoàn tất, dù tốt hay xấu cũng không thể viết thêm ǵ được nữa, nhưng cuốn sách cuộc đời của chúng ta chưa hoàn thành chúng ta có thể sửa đổi và viết thêm. Mỗi người được mời gọi lắng nghe tiếng Chúa và nói với Chúa, xin Ngài hướng dẫn giúp đỡ để chúng ta viết cuốn sách đời ḿnh đầy ư nghĩa đáng đọc.
Lm. Louis Minh Nhiên, CMC |