Chúa Nhật

11/7: Thánh Biển Đức (480-547)

Thành lập đan viện Biển Đức đầu tiên ở Montecassino.

Thực hiện khẩu hiệu “Cầu Nguyện và Làm Việc” ở khắp Âu Châu.

Bảo tồn văn chương và nghệ thuật, canh nông và lề luật.

Đức Phaolô VI gọi ngài là “Người Cha của Âu Châu”,

Quan Thày của Tây Phương hay Âu Châu.

 


CHÚA NHẬT XV QUANH NĂM



BÀI ĐỌC I: Deut 30:10-14
“Lời ở sát bên các ngươi, để các ngươi thực thi”

Bài trích sách Nhị Luật.

Môisen nói cùng dân chúng rằng: “Nếu các ngươi nghe tiếng Chúa là Thiên Chúa các ngươi, hăy tuân giữ các giới răn và huấn thị của Người đă được ghi chép trong sách Luật này, hăy trở về cùng Chúa là Thiên Chúa các ngươi hết ḷng và hết linh hồn các ngươi. Thánh chỉ ta truyền cho các ngươi hôm nay không quá khó khăn cũng không quá sức các ngươi. Nó không phải ở đâu trên trời, để các ngươi có thể nói: “Ai trong chúng tôi có thể lên trời mang luật xuống giảng cho chúng tôi nghe để chúng tôi thực hành được?” Nó cũng không phải ở bên kia biển, để các ngươi viện lẽ nói rằng: “Ai trong chúng tôi có thể vượt biển, và mang nó về cho chúng tôi, để chúng tôi được nghe và thực hành điều đă truyền dạy?” Nhưng lời ở sát bên các ngươi, nơi miệng các ngươi, trong ḷng các ngươi, để các ngươi thực thi”.

Lời của Chúa.


Đáp ca: (Xin mời Cộng đoàn thưa)
Các bạn khiêm cung, các bạn t́m kiếm Chúa, ḷng các bạn hăy hồi sinh.

1.      Lạy Chúa, tôi dâng lời nguyện cầu lên Chúa, ôi Thiên Chúa, đây là lúc biểu lộ t́nh thương. Xin nhậm lời tôi theo lượng cả đức từ bi, theo ơn phù trợ trung thành của Chúa. Lạy Chúa, xin nhậm lời tôi v́ ḷng khoan nhân trắc ẩn, theo lượng cả đức từ bi, xin nh́n đến tấm thân tôi.

2.      Phần tôi, tôi đau khổ cơ hàn, lạy Chúa, xin gia ân phù trợ bảo toàn thân tôi. Tôi sẽ xướng bài ca ngợi khen danh Chúa, và tôi sẽ chúc tụng Ngài với bài tri ân.

3.      Các bạn khiêm cung, hăy nh́n coi và hoan hỉ, các bạn t́m kiếm Chúa, ḷng các bạn hăy hồi sinh: v́ Chúa nghe những người cơ khổ và không chê bỏ con dân của Người bị bắt cầm tù.

4.      V́ Thiên Chúa sẽ cứu độ Sion, Người sẽ tái thiết thành tŕ của Giuđa, con cháu của bầy tôi Chúa sẽ thừa hưởng đất nầy, và tại đây những người yêu danh Chúa sẽ định cư.


BÀI ĐỌC II: Col 1:15-20
“Mọi vật đă được tạo thành nhờ Ngươi và trong Người”

Bài trích thơ Thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Côlôssê.

Đức Giêsu Kitô là h́nh ảnh của Thiên Chúa vô h́nh là trưởng tử mọi tạo vật; v́ trong Người muôn loài trên trời dưới đất đă được tác thành, mọi vật hữu h́nh và vô h́nh, dù là các Bệ thần hay là Quản thần, dù là Chủ thần hay là Quyền thần: Mọi vật đă được tạo thành nhờ Người và trong Người. Và Người có trước mọi loài và mọi loài tồn tại trong Người. Người là đầu thân thể tức là Hội Thánh, là nguyên thủy và là trưởng tử giữa kẻ chết, để Người làm bá chủ mọi loài. V́ chưng, Thiên Chúa đă muốn đặt tất cả viên măn nơi Người, và Thiên Chúa đă giao ḥa vạn vật nhờ Người và v́ Người; nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa ban ḥa b́nh trên trời dưới đất.

Lời của Chúa.


(Xin mời Cộng đoàn đứng)
Alleluia, alleluia. — Chúc tụng Đức Vua, Đấng nhân danh Chúa mà đến, b́nh an trên trời và vinh quang trên các tầng trời. — Alleluia.


PHÚC ÂM: Lc 10:25-37
“Ai là anh em của tôi”

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, có một người thông luật đứng dậy hỏi thử Chúa Giêsu rằng: “Thưa Thầy, tôi phải làm ǵ để được sự sống đời đời”. Người nói với ông: “Trong Lề Luật đă chép như thế nào? Ông đọc thấy ǵ trong đó?”. Ông trả lời: “Ngươi hăy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết ḷng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi, và hăy thương mến anh em như chính ḿnh”. Chúa Giêus nói: “Ông đă trả lời đúng, hăy làm như vậy và ông sẽ được sống”. Nhưng người đó muốn bào chữa ḿnh, nên thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Nhưng ai là anh em tôi?” Chúa Giêsu nói tiếp: “Một người đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, và rơi vào tay bọn cướp; chúng bóc lột người ấy, đánh nhừ tử rồi bỏ đi, để người ấy nửa sống nửa chết. T́nh cờ một tư tế cũng đi qua đường đó, trông thấy nạn nhân, ông liền đi qua. Cũng vậy, một trợ tế khi đi đến đó, trông thấy nạn nhân, cũng đi qua. Nhưng một người xứ Samaria đi đường đến gần người ấy, trông thấy và động ḷng thương. Người đó lại gần, băng bó vết thương, xức dầu và rượu, rồi đỡ nạn nhân lên lừa ḿnh, đưa về quán trọ săn sóc. Hôm sau, lấy ra hai quan tiền, ông trao cho chủ quán mà bảo rằng: “Ông hăy săn sóc người ấy và ngoài ra c̣n tốn phí hơn bao nhiêu, khi trở về, tôi sẽ trả lại ông”. Theo ông nghĩ, ai trong ba người đó là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?” Người thông luật trả lời: “Kẻ đă tỏ ḷng thương xót với người ấy”. Và Chúa Giêsu bảo ông: “Ông cũng hăy đi và làm như vậy”.

Phúc Âm của Chúa.

 

SUY NIỆM


SỐNG ĐẠO THỰC HÀNH

 

“Giêsu-Maria-Giuse! Lậy Chúa tôi, thầy ấy, cha ấy thánh thiện quá.”
“Chúa ơi! Ông ấy, bà ấy đạo đức, sốt sắng quá. Đi lễ, đi lậy suốt ngày.”
“Chúa Mẹ ơi! Ông ấy, bà ấy có phúc quá. Chúa ban cho mọi điều may mắn như ư muốn.”

Có thật vậy không? Có thật hễ là thầy, là cha th́ thánh thiện. Hễ siêng năng đi lễ, đi lậy là người đạo đức, sốt sắng. Và hễ được Chúa Mẹ thương th́ phải được muôn điều may mắn như ư? Nếu vậy, những người không phải là thầy, là cha th́ không thánh thiện. Những ai không đi lễ, đi lậy mỗi ngày th́ không là người sốt sắng. Và những ai không được mọi ơn lành là những người bị Chúa Mẹ hất hủi và ruồng bỏ.

Ít hôm trước tôi được hai linh mục ghé thăm. Chúng tôi đă lâu không gặp nhau nên có nhiều truyện để nói. Nhưng thỉnh thoảng câu truyện bị cắt quăng v́ người vợ của một anh bạn, người đă chở các vị linh mục tới thăm hôm ấy. Chị ta lúc lúc lại thêm vào: “Làm cha th́ sướng quá. Làm cha tốt lành quá. Làm cha th́ thánh thiện quá.”

Khi nói những câu ấy, rơ ràng là chị ta muốn ám chỉ một h́nh ảnh tương phản về người chồng đang ngồi bên chị. Xem như chị ngầm nói với chúng tôi và chồng chị rằng: “Anh coi! Người ta làm cha trông hiền lành, tử tế, đạo hạnh. Làm cha sung sướng thế kia. C̣n anh.....Lấy anh, tôi....khổ quá!”.

Nếu chị này ở vào thời điểm Chúa Giêsu đang rao giảng Tin Mừng cách đây hơn 2000 năm, chị ta chắc chắn cũng thuộc thành phần những người hỏi Ngài câu hỏi mà Thánh Kư Luca đă ghi lại hôm nay: “Ai là anh em tôi?” (Lc 10:29). Hay bằng lối diễn nghĩa và cái nh́n của một người vợ, th́ “ai là người chồng đạo đức. Ai là người chồng tử tế, và có thể làm cho vợ hạnh phúc?”. Và câu trả lời của Chúa cũng sẽ không khác hơn với câu trả lời mà Ngài đă nói với người luật sỹ đă hỏi Ngài hôm ấy. Câu trả lời ấy là: “Hăy về mà theo gương ấy” (L 10: 37). Hoặc: “Nếu chị muốn có một người chồng tử tế, đàng hoàng, tốt bụng và lo lắng đến hạnh phúc của chị, th́ chị hăy làm những cái đó cho chồng chị. Hăy bắt chước những người vợ đạo hạnh, nhẫn nại và tế nhị với chồng con mà thực hành giống họ.”

Dù theo ơn gọi nào cũng vậy, tu hành hay hôn nhân gia đ́nh, đời sống con người vẫn là những thách đố, những khó khăn, những vất vả. Đời chỉ có ư nghĩa thực sự khi ta chấp nhận và trực diện với những thử thách ấy, và làm thăng hoa cuộc sống ḿnh bằng những cố gắng dựa vào ḷng tin và ư thức sống đạo của ḿnh. Đối tượng của niềm tin và hành động sống đạo ấy chính là anh chị em quanh ḿnh: Đó là chồng, là vợ, là con, là người bạn cùng sở, là những người mà ḿnh hằng ngày giao tiếp. Họ là những đối tượng của đức ái thực hành của ta.

Trong câu truyện nạn nhân bị cướp hôm nay, Chúa Giêsu đă đưa ra 3 mẫu người qua đường, nhưng phản ảnh đức tin hành động th́ qui về hai trạng thái: Thực hành và không thực hành. Ba người đi qua cùng một quăng đường nhưng hai đă ngoảnh mặt làm ngơ, bỏ đi không thương tiếc; chỉ có một người sau cùng dừng bước giúp đỡ.

“Hăy về mà theo gương ông”. Kết luận câu truyện như vậy, Chúa Giêsu như muốn nói với những người thường hay thắc mắc về thành quả sống đạo; nhất là muốn chứng tỏ cho mọi người rằng ḿnh là người hiểu biết, đạo đức, tốt lành như người luật sỹ nọ. Cũng qua câu trả lời ấy, Chúa Giêsu rơ ràng muốn ta đi vào với tâm đạo bằng hành động sống đạo của ḿnh.

Theo khảo cứu của tâm lư học, khi tai nạn xảy ra cho một người nào th́ có hai điều kiện để nạn nhân dễ nhận được sự giúp đỡ, đó là nơi chốn và hoàn cảnh xẩy ra tai nạn. Nơi chốn thường là nơi vắng vẻ. Hoàn cảnh thường chỉ là một hay hai người qua lại lúc bấy giờ. Nếu tai nạn xảy ra ở giữa thị thành, hay lúc có đông người qua lại th́ tâm lư sợ dư luận, trốn trách nhiệm sẽ đẩy lui ḷng thương xót, để rồi ai cũng dừa cho nhau, mà cuối cùng th́ không ai muốn “ách giữa đàng quàng vào cổ”. Nhưng nếu tai nạn xẩy ra nơi một chỗ vắng, và chỉ một người qua lại th́ cảm t́nh xúc động và thương xót sẽ thôi thúc người qua đường dừng lại mà giúp đỡ nạn nhân.

Qua tai nạn người bị cướp trấn lột hôm nay, Chúa Giêsu đă đặt nạn nhân vào hoàn cảnh và nơi chốn được giúp đỡ. Lần lượt nơi quăng đường thanh vắng ấy chỉ có một người đi qua, nhưng kết quả thật xung khắc, hai người trước đă không hề xúc động. Như vậy, phải hiểu là ḷng người, và tâm trạng ích kỷ của những người này đă làm cho họ đóng chặt ḷng ḿnh. Bởi đó, khi kết luận câu truyện, Chúa Giêsu đă hỏi ngược lại người đă hỏi Ngài rằng: “Theo ư kiến anh, ai trong ba người ấy là anh em của nạn nhân?” (Lc 10:39). Hỏi như vậy, Ngài muốn cho mọi người hay rằng, chả lẽ những người suốt ngày đọc lề luật, nói lề luật, giảng giải lề luật như các tư tế và phó tế mà lại không hiểu rằng hành động bác ái, thương người chính là luật sống đạo cách đầy đủ và cao quí sao. Rơ ràng là Ngài muốn cho ta hiểu rằng không phải cái vẻ bên ngoài, cũng không phải là thuộc lầu nguyên tắc đạo đức hay lề luật làm nên giá trị của một đời sống tâm linh thực sự. Để được gọi là người công chính, phải hiểu đạo, sống đạo và hành đạo. Riêng phần sống đạo xem ra khó khăn hơn mà lại cao quí hơn, bởi v́ hiểu đạo và hành đạo là những cái bề ngoài, c̣n sống đạo tức là thực hành điều ḿnh hiểu và rao giảng.

Hành động sống đạo của người Samaria là lối sống đạo thực hành. Nó hoàn toàn trái ngược với lối sống đạo h́nh thức, mầu mè, và lư thuyết. V́ nếu không sống thật với niềm tin của ḿnh bằng hành động th́ bằng cách này hay cách khác, niềm tin và những lời chúng ta nói cũng chỉ là một mớ lư thuyết suông không đủ khả năng thuyết phục, không đem lại cho ta sự sống đời đời. Rất may, trong đời sống thường ngày, đó đây quanh ta vẫn luôn luôn thấy những đối tượng của đức ái thực hành. Và đó cũng là lư do tại sao Chúa Giêsu muốn ta bắt chước hành động thực tế của người Samaria.

 

Trần Mỹ Duyệt

 

“Ai là tha nhân của tôi?” - một con ma!...


 

Trong bài Phúc Âm của Chúa Nhật XV Mùa Thường Niên Năm C tuần này, qua cuộc vấn đáp giữa một nhà thông luật và Chúa Giêsu, Mạc Khải Thần Linh cho chúng ta thấy rơ hai chân lư liên quan đến phần rỗi của chung loài người và của riêng Kitô hữu chúng ta: thứ nhất là chân lư về đường lối để được sự sống đời đời, và chân lư thứ hai về chân dung của thành phần được gọi là tha nhân.

Trước hết, chân lư về đường lối để được sự sống đời đời, khi công nhận câu đối đáp của nhà thông luật “Ông đă trả lời đúng. Hăy làm như vậy th́ ông sẽ được sống”, Chúa Giêsu đă cho nhà thông luật thắc mắc: “Tôi phải làm ǵ để được sự sống đời đời?” biết rằng, đó là “Ngươi phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa của ngươi hết ḷng muốn, hết linh hồn, hết sức lực và hết trí khôn ngươi, cũng như hăy yêu thương tha nhân như chính bản thân ngươi”. Như thế, yên mến Thiên Chúa hết ḿnh và yêu thương tha nhân như ḿnh chính là đường lối để được sự sống đời đời vậy. Căn cứ vào chân lư này, nói một cách phủ định hơn, nghĩa là, ai không mến Chúa hết ḿnh và yêu người như ḿnh chắc chắn sẽ không được sự sống đời đời, tức bị hư đi đời đời. Tuy nhiên, tới đây, nhà thông luật của chúng ta tỏ ra không có vấn đề ǵ với Thiên Chúa cho bằng với tha nhân. Bởi thế, ông không hỏi Chúa Giêsu “Thế nhưng Chúa là Thiên Chúa của tôi là Đấng nào?”, mà lại đặt vấn đề “tha nhân của tôi là ai?” hay “ai là tha nhân của tôi?” Do đó mới có chân lư thứ hai, chân lư về chân dung của thành phần được gọi là tha nhân.

Theo quan niệm b́nh thường, trước hết, “tha nhân” tức là một người không phải là ḿnh, hoàn toàn khác với ḿnh. Sau nữa, đối với liên hệ trong gia đ́nh huyết tộc, “tha nhân” cũng không phải là thành phần thuộc về thân nhân ruột thịt hay họ hàng nghĩa thiết với ḿnh. Sau hết, thành phần “tha nhân” lắm khi c̣n bị tâm lư giao hữu loại trừ ra khỏi bờ cơi cận nhân nữa, ra khỏi phạm vi thân thiết bạn bè, nghĩa là, trở nên một thành phần hoàn toàn lạ mặt, xa cách với ḿnh, thành phần ḿnh không hề quen biết tí nào.

Tuy nhiên, thực tế và tâm lư b́nh thườụng cũng cho thấy một sự thật không ai có thể chối căi được là, có những lúc chính thân nhân và thân hữu của ḿnh lại là những kẻ không thể đội trời chung với ḿnh, bị chúng ta đẩy đi lưu đầy xa khuất khỏi mắt của chúng ta, tức ở ngoài cả biên giới “tha nhân” xa lạ nữa. Trong trường hợp này, “tha nhân” đột nhiên và nghiễm nhiên trở thành gần gũi, thành cận nhân với chúng ta hơn cả thành phần vốn là thân nhân và thân hữu của chúng ta trước kia. Quả thật, vào những lúc đó, những lúc chúng ta đang bị thân nhân hất hủi hay hiểu lầm, đang hận thù oán ghét cha mẹ hay vợ chồng của ḿnh, th́ một “tha nhân” nào đó tỏ ra thông cảm với chúng ta và ngả về phía của chúng ta, vị “tha nhân” ấy, dù trước kia có những bất đồng với chúng ta, thậm chí đối nghịch với chúng ta, bấy giờ họ cũng sẽ trở thành thân thiết với chúng ta. Điển h́nh là trường hợp của quận vương Hêrôđê với tổng trấn Philatô, sau khi Hêrôđê được Philatô cho giải Chúa Giêsu đến để Hêrôđê phân xử, th́ hai nhân vật này đă được Phúc Âm Thánh Luca thuật lại ở đoạn 23 câu 12 như sau: “Hêrôđê và Philatô trước kia vốn đối nghịch với nhau từ đó lại trở thành bạn bè”. Nếu cứ theo tâm lư chủ quan của con người chúng ta như thế, th́ “tha nhân” phải nói là người bị tha hóa, tức thành phần không c̣n là họ nữa, mà là những ǵ chúng ta tạo ra hay tùy ư biến thành.

Như thế, nếu xẩy ra t́nh trạng này th́ quả nhiên, như thực tế đă cho chúng ta thấy, nhiều khi chính những người vốn thân yêu nhất của chúng ta từ trước đột nhiên trở thành những con ma quái, những con ma ban ngày, những con ma làm cho chúng ta hăi sợ, lúc nào chúng ta cũng muốn tránh mặt, không dám gặp mặt, không dám đối diện và không c̣n thích gần gũi hay t́m đến như xưa nữa. T́nh trạng “tha nhân” trở thành những con ma đối với chúng ta như thế c̣n chứng tỏ tâm trạng yếu bóng vía của chúng ta, nghĩa là t́nh trạng chúng ta chưa sống thực, t́nh trạng chúng ta c̣n trẻ con, chưa trưởng thành cả về tâm linh lẫn đức tin liên quan đến Thiên Chúa nữa.

Đúng thế, nếu “tha nhân” không thực sự là một con người, mà chỉ là một cái ǵ do chúng ta tạo ra hay biến thành như thế, tùy theo ư nghĩ và ư thích của ḿnh, th́ quả thực chúng ta không phải chỉ có vấn đề với “tha nhân” mà c̣n với cả “Chúa là Thiên Chúa” nữa. Bởi v́, chỉ khi nào chúng ta tôn thờ “ngẫu tượng”, tức tôn thờ vị Thiên Chúa do chúng ta chủ trương, do chúng ta tự tưởng tượng vẽ vời ra, như trường hợp dân Do Thái tôn thờ ḅ vàng trong sa mạc được Sách Xuất Hành thuật lại ở đoạn 32 câu 4, chứ không phải vị Thiên Chúa đích thực, như Ngài tỏ ḿnh ra cho chúng ta biết như được Thánh Kinh ghi nhận, chúng ta mới có thái độ bóp méo h́nh ảnh của Ngài là “tha nhân” và nơi “tha nhân” như thế. Lư do là v́ chúng ta chưa biết Ngài thực sự, nên chúng ta cũng không nhận ra những ǵ thuộc về Ngài. Đó là lư do tại sao Chúa Kitô, trong Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 15 câu 21 hay đoạn 16 câu 3, đă vạch rơ căn nguyên thế gian bách hại môn đệ của Người như sau: “Họ làm cho các con tất cả những điều ấy là v́ họ chẳng nhận biết Cha cũng không nhận biết Thày”. Đó cũng là lư do chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa hết ḿnh trước rồi mới có thể yêu thương tha nhân như bản thân ḿnh được.

Nếu chúng ta chưa thực sự nhận biết Thiên Chúa, chúng ta cũng không thể yêu thương tha nhân như Ngài muốn và như Ngài đă tỏ ra nơi bản thân đích thực của Ngài là Lời Nhập Thể và Tử Giá. Ngược lại, chúng ta có thể hay có lúc sẽ đi đến chỗ gián tiếp hận ghét Ngài, khi chúng ta không thích bất cứ một con người “tha nhân” nào. Chẳng hạn, nếu chúng ta đang hận thù một ai, nhất định không chịu đội trời chung với họ, th́ chắc chắn chúng ta không bao giờ lại muốn lên thiên đàng với họ. Tức là nếu họ xuống hỏa ngục chúng ta mới chịu vào thiên đàng, bằng nếu họ ở trên thiên đàng th́ chúng ta xuống hỏa ngục vậy! Đó là lư do, một ngày kia, lên thiên đàng, vừa trông thấy có một hay mấy nhân vật khét tiếng lịch sử, thành phần “tha nhân” chúng ta tự nhiên vốn cảm thấy tuyệt đối hận thù hay nghi kị, như Hitler (lănh tụ Đảng Nazi Đức Quốc Xă sát hại 6 triệu dân Do Thái), Stalin (lănh tụ sắt máu của Khối Cộng Sản Liên Sô Nga), Osama Bin Laden (chúa trùm tổ chức khủng bố quốc tế Al Qaeda), Mahommed (giáo tổ Hồi Giáo thuộc thế giới Ả Rập), Luthêrô (nhà cách mạng Kitô giáo), hay Hồ Chí Minh (trùm đảng cộng sản Việt Nam) v.v. liệu chúng ta có vui mừng tiến vào hay chăng?

Chính v́ “tha nhân” không phải những ǵ chúng ta chủ quan nghĩ ra, những nhân vật do chúng ta bày tạo ra, mà là một con người thực sự, một con người như chủ thể yêu và phải được chủ thể yêu yêu thương như chính bản thân của chủ thể yêu mà, trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu không trực tiếp trả lời cho nhà thông luật “tha nhân của tôi là ai?”, song Người đă lật ngược vấn đề, qua câu hỏi gợi ư: “Ai trong ba người này (vị tư tế, thày Lêvi, và người Samariatanô) là tha nhân của người bị rơi vào tay bọn cướp?” Thế rồi, sau khi nhà thông luật trả lời: “Chính là người tỏ ḷng thương cảm hắn”, Chúa Giêsu liền nói với ông ta: “Vậy th́ anh hăy đi mà làm như thế”.

Thật vậy, theo tinh thần Chúa Giêsu dạy trong bài Phúc Âm hôm nay, một khi yêu thương nhau và trong việc yêu thương nhau, không nên, đúng hơn, không được, đặt vấn đề phân biệt và chọn lựa: “ai là tha nhân của tôi”. Bởi v́, một khi đă phân biệt và chọn lựa, th́ theo tâm lư tự nhiên, ḿnh chỉ yêu ai ḿnh thích, thích ai hợp với ḿnh, và mến ai làm vừa ḷng ḿnh v.v. Nếu yêu thương theo kiểu này là yêu thương ḿnh hơn là tha nhân, và biến tha nhân thành sở hữu, thành thuộc hạ của ḿnh hơn là coi họ như chính bản thân ḿnh, để có thể yêu họ như chính bản thân ḿnh. Bởi thế, vấn đề yêu thương chân chính hay Đức Ái trọn hảo theo Chúa Kitô trong bài Phúc Âm hôm nay là vấn đề ḥa đồng và đại kết, ở chỗ, “tôi cần phải là tha nhân của mọi người, cần phải trở nên như mọi người”: “Ai trong ba người này là tha nhân của người bị rơi vào tay bọn cướp?” là ở chỗ đó. Chỉ có thế chúng ta mới chẳng những không có ai là kẻ thù, hay không bao giờ gặp kẻ thù, dù thực sự có bị bất cứ ai thù ghét và tác hại, trái lại, chúng ta c̣n có thể “trở nên mọi sự cho mọi người”, như tinh thần của vị Tông Đồ Dân Ngoại chia sẻ trong thư Thứ Nhất gửi Giáo Đoàn Côrintô đoạn 9 câu 22.

Chính tinh thần bác ái làm cho con người yêu thương trở thành quốc tế như thế, “trở nên mọi sự cho mọi người” như thế, họ mới thực sự là một nhà truyền giáo và mới có đủ khả năng truyền giáo. Bởi v́, nếu vai tṛ của nhà thừa sai, như bài Phúc Âm Chúa Nhật XIV Mùa Thụng Niên Năm C tuần trước cho thấy họ được sai đi trước đến những nơi Chúa Giêsu sẽ đến, nghĩa là đi mở đường, để qua việc họ làm, hay qua đức ái làm nên bản chất và chân dung của người môn đệ Chúa Kitô nơi họ (xem Jn 13:35), thế gian có thể nhận biết Thày họ là Đấng Thiên Sai đến sau họ. Ư nghĩa bài Phúc Âm Chúa Nhật XV Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh Năm C tuần này, một thời điểm Giáo Hội cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô tỏ ḿnh ra qua chứng tá Giáo Hội của Người trên thế gian cho đến tận thế, là ở chỗ này, ở chỗ, Chúa Kitô tỏ ḿnh ra qua thành phần chứng nhân của Người, hay qua t́nh họ yêu thương trọn lành “trở nên mọi sự cho mọi người”, một t́nh yêu thương “đi khắp thế gian (và) cho mọi tạo vật” (Mk 16:15), chứ không phải cho riêng một dân nước nào, hay cho riêng một thành phần nào, một t́nh yêu hoàn toàn phản ảnh Đấng “muốn chứng tỏ ḷng yêu thương đến cùng của ḿnh” (Jn 13:1), qua việc Người “đă đến không phải để được phục vụ mà là phục vụ, để hiến mạng sống ḿnh làm giá chuộc nhiều người” (Mt 20:28; xem 1Tim 2:6).

Tuy nhiên, nếu “tha nhân” trở nên mọi sự như ư nghĩ, ư muốn hay ư thích chủ quan của con người chúng ta, như trên đă nhận định, họ trở thành một con người bị tha hóa đối với chúng ta là chủ thể yêu thương, vậy th́, ngược lại, nếu chúng ta “trở nên mọi sự cho mọi người” th́ bản thân chúng ta có bị họ tha hóa hay chăng, có bị trở thành một khối giống như loài vật không, có mất đi ngôi vị của ḿnh không, v́ chúng ta không c̣n là chúng ta nữa, mà là bị mọi người đồng hóa, hay bị đồng hóa với mọi người mất rồi?

Câu trả lời ở đây là một đàng th́ bị bắt buộc và một đàng hoàn toàn tự nguyện. Việc ép con người phải bỏ mọi sự làm của chung, ngược với quyền sở hữu của họ, hoàn toàn khác với việc các Kitô hữu tiên khởi ở Giêrusalem tự nguyện “bỏ mọi sự làm của chung”, như Sách Tông Vụ thuật lại ở đoạn 2 câu 44. Sở dĩ thành phần Kitô hữu tiên khởi của chúng ta có thể thực hiện được việc này là v́ họ hoàn toàn hiệp nhất với nhau, như Sách Tông Vụ c̣n thuật lại ở đoạn 4 câu 32: “Cộng đồng tín hữu đồng tâm nhất trí. Không ai lấy ǵ làm của riêng ḿnh, mọi sự được lấy làm của chung”, một t́nh trạng chứng tỏ cá nhân con người đă đạt đến tầm vóc hoàn toàn của ḿnh nơi cộng đồng xă hội, và cộng đồng xă hội cũng đạt đến tầm vóc thiện hảo của ḿnh đúng như ư muốn của Thiên Chúa, một ư muốn được bộc lộ qua Lời Nguyện Tiệc Ly của Chúa Kitô ở Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 17 câu 22: “Cho tất cả được nên một như chúng ta là một”, một mối hiệp thông có tác dụng truyền thông Thần Linh, như Người c̣n đề cập đến ở câu 23 ngay sau đó: “để thế gian nhận biết rằng Cha đă sai Con”. Như thế, yêu nhau chính là đạt đến tầm vóc nhân bản và thần linh đích thực của ḿnh vậy.


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL