|
CHÚA NHẬT II
MÙA CHAY-C
BÀI ĐỌC I: Gen 15:5-12, 17-18
“Thiên Chúa đă thiết lập giao ước với Abraham”
Bài trích sách Sáng Thế.
Trong những ngày ấy, Thiên Chúa dẫn Abram ra ngoài
và nói với ông: “Ngươi hăy ngước mắt lên trời, và nếu có thể được, hăy đếm các
ngôi sao”. Rồi Chúa nói tiếp: “Miêu duệ của ngươi sẽ đông đảo như thế”. Abram
tin vào Thiên Chúa và v́ đó, ông được công chính. Và Chúa lại nói: “Ta là Chúa,
Đấng dẫn dắt ngươi ra khỏi thành
Ur của dân Calđê, để ban
cho ngươi xứ này làm gia nghiệp”. Abram thưa rằng: “Lạy Chúa là Thiên Chúa, làm
sao tôi có thể biết tôi sẽ được xứ đó làm gia nghiệp?” Chúa đáp: “Ngươi hăy bắt
một con ḅ cái ba tuổi, một con dê cái ba tuổi, một con cừu đực ba tuổi, một con
chim gáy mái và một con bồ câu non”. Abram bắt tất cả những con vật ấy, chặt ra
làm đôi, đặt phân nữa nầy đối diện với phân nữa kia; nhưng ông không chặt đôi
các con chim. Các mănh cầm lao xuống trên những con vật vừa bị giết, song ông
Abram đuổi chúng đi. Lúc mặt trời lặn, Abram ngủ mê; một cơn sợ hăi khủng khiếp
và u tối bao trùm lấy ông. Khi mặt trời lặn rồi, bóng tối mịt mù phủ xuống, có
một chiếc ḷ bốc khói và một khối lửa băng qua giữa những phần con vật bị chia
đôi. Trong ngày đó, Chúa đă thiết lập giao ước với Abram mà nói rằng: “Ta ban xứ
này cho miêu duệ ngươi, từ sông Ai Cập cho đến sông Euphrát”.
Lời của Chúa.
Đáp ca: (Xin mời Cộng đoàn thưa)
Chúa là sự sáng, là Đấng cứu độ, tôi sợ chi ai?
1.
Chúa là sự sáng, là Đấng cứu độ, tôi sợ chi ai? Chúa là Đấng phù trợ đời tôi,
tôi sợ ǵ ai?
2.
Lạy Chúa, xin nghe tiếng tôi kêu cầu, xin thương xót và nhậm lời tôi. Về Chúa,
ḷng tôi tự nhắc lời: “Hăy t́m ra mắt Ta”.
3.
Và lạy Chúa, tôi t́m ra mắt Chúa, xin Chúa đừng ẩn mặt xa tôi, xin đừng xua đuổi
tôi tớ Ngài trong cơn thịnh nộ. Chúa là Đấng phù trợ, xin đừng hất hủi tôi.
4.
Tôi tin rằng tôi sẽ được nh́n xem những ơn lành của Chúa trong cơi nhân sinh.
Hăy chờ đợi Chúa, hăy sống can trường, hăy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa!
BÀI ĐỌC II: Phil 3:17 — 4:1
“Chúa Kitô sẽ biến đổi thân xác chúng ta nên giống thân xác hiển vinh của
Người”
Bài trích thơ Thánh
Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Philipphê.
Anh em thân mến, anh em hăy bắt chước tôi, và hăy
để mắt nh́n coi những người ăn ở theo như mẫu mực anh em thấy nơi chúng tôi. Bởi
chưng như tôi đă thường nói với anh em và giờ đây tôi đau ḷng ứa lệ mà nói lại,
có nhiều người sống thù nghịch với thập giá Đức Kitô. Chung cuộc đời họ là hư
vong, chúa tể của họ là cái bụng, và họ đặt vinh danh của họ trong những điều ô
nhục; họ chỉ ưa chuộng những cái trên cơi đời nầy. Phần chúng ta, quê hương
chúng ta ở trên trời, nơi đó chúng ta mong đợi Đấng Cứu Chuộc là Đức Giêsu Kitô,
Chúa chúng ta. Người sẽ biến đổi thân xác hèn hạ của chúng ta nên giống như thân
xác hiển vinh của Người, nhờ quyền lực mà Người vẫn có, để bắt muôn vật suy phục
Người. Bởi thế, anh em thân mến và yêu quư, anh em là niềm hoan lạc và triều
thiên của tôi, anh em thân mến, hăy vững vàng trong Chúa.
Lời của Chúa.
CÂU XƯỚNG TRƯỚC PHÚC ÂM: (Xin mời Cộng đoàn đứng)
Từ trong đám mây sáng chói, có tiếng Chúa Cha phán rằng: “Đây là Con Ta
yêu dấu, các ngươi hăy nghe lời Người”.
PHÚC ÂM: Lc 9:28b-36
“Đang khi cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi khác thường”
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô
theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê và Gioan lên
núi cầu nguyện. Và đang khi cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi khác thường và
áo Người trở nên trắng tinh sáng láng. Bổng có hai vị đàm đạo với Người. Đó là
Môisen và Êlia, hiện đến uy nghi, và nói về sự chết của Người sẽ thực hiện tại
Giêrusalem. Phêrô và hai bạn ông đang ngủ mê, chợt tỉnh dậy, thấy vinh quang của
Chúa và hai vị đang đứng với Người. Lúc hai vị từ biệt Chúa, Phêrô thưa cùng
Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, chúng tôi được ở đây th́ tốt lắm, chúng tôi xin làm
ba lều, một cho Thầy, một cho Môisen, và một cho Êlia.” Khi nói thế, Phêrô không
rơ ḿnh nói ǵ. Lúc ông c̣n đang nói, th́ một đám mây bao phủ các ông và thấy
các ngài biến vào trong đám mây, các môn đệ đều kinh hoàng. Bấy giờ từ đám mây
có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hăy nghe lời Người”. Và
khi tiếng đang phán ra, th́ chỉ thấy c̣n ḿnh Chúa Giêsu. Suốt thời gian đó, các
môn đệ giữ kín không nói với ai những điều ḿnh đă chứng kiến.
Phúc Âm của Chúa.
Suy Niệm
VINH QUANG BA NGÔI NƠI VIỆC CHÚA KITÔ BIẾN H̀NH
ĐTC
GPII: Bài Giáo Lư Đại Năm Thánh 2000
(Thứ Tư 26/4/2000)
1-
Trong Tuần Bát Nhật Phục Sinh này, một tuần được coi như là một ngày trọng đại
duy nhất, phụng vụ không ngừng lập đi lập lại sứ điệp Phục Sinh: “Chúa Giêsu
thực sự đă sống lại rồi!”. Lời
loan báo này mở ra cho toàn thể nhân loại một chân trời mới.
Tất cả những ǵ được ám chỉ một cách mầu nhiệm nơi Cuộc Biến
H́nh trên Núi Tabo đều trở thành hiện thực nơi Cuộc Phục Sinh. Lúc biến
h́nh, Chúa Giêsu tỏ cho các vị tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan thấy phép lạ hiển
vinh cùng với ánh sáng được niêm ấn bằng tiếng của Chúa Cha: “Đây là Người Con
yêu dấu của Ta” (Mk 9:7).
Vào ngày lễ Phục Sinh, những lời
này hiện lên cho chúng ta thấy trọn vẹn thực tại của chúng.
Người Con yêu dấu của Chúa Cha, tức Đức Kitô bị đóng đanh và
tử nạn, đă sống lại v́ chúng ta. Trong sự tỏ rạng của Người, tín hữu
chúng ta thấy được ánh sáng, và, như phụng vụ của Giáo Hội Đông Phương xướng lên,
“được Thần Linh phục sinh, chúng ta muôn đời chúc tụng Ba Ngôi Thiên Chúa đồng
bản thể” (Kinh Tối Trọng Thể Lễ Chúa Kitô Biến H́nh). Với một tấm ḷng
tràn đầy niềm vui Phục Sinh, hôm nay tinh thần chúng ta hăy
leo lên ngọn núi thánh nổi bật trên đồng bằng Galilêa để chiêm ngưỡng ở
chóp đỉnh của nó một biến cố xẩy ra hướng vọng tới biến cố Phục Sinh.
2-
Chúa Kitô là tâm điểm của Cuộc Biến H́nh.
Hai chứng nhân của Cựu Ước hiện ra với Người là Moisen, vị
trung gian của lề luật, và Elia, vị tiên tri của Thiên Chúa hằng sống.
Thần tính của Chúa Kitô, được tiếng của Chúa Cha công bố, cũng tỏ hiện bởi những
biểu hiệu bằng h́nh ảnh theo kiểu diễn tả của thánh
kư Marcô. Thật vậy, có ánh sáng và mầu trắng tiêu biểu cho vĩnh cửu và siêu việt
tính: “Y phục của Người trở nên sáng láng, trắng tinh đến nỗi không một thợ giặt
tẩy nào trên trần gian này có thể làm nổi” (Mk 9:3). Thế rồi có cả mây trời, dấu
hiệu Thiên Chúa hiện diện trong cuộc Xuất Ai Cập của dân Yến Duyên cũng là dấu
hiệu Ngài hiện diện nơi lều Giao Ước (x Ex 13:21-22, 14:19, 24, 40: 34, 38).
Vào Buổi Sáng ngày lễ Biến H́nh, phụng vụ Đông Phương cũng xướng lên rằng: “Ôi
Lời Thiên Chúa, sự rạng ngời tinh nguyên của ánh sáng Chúa Cha, trong ánh sáng
tỏa chiếu của Chúa trên Núi Tabo, hôm nay chúng con đă được thấy ánh sáng là
Chúa Cha và ánh sáng là Thần Linh, một ánh sáng soi chiếu tất cả mọi tạo vật”.
3-
Bản văn phụng vụ này đề cao chiều kích Ba Ngôi nơi Cuộc Biến H́nh trên núi của
Chúa Kitô. Thật vậy, Chúa Cha hiện diện rơ ràng nơi tiếng nói phát ra. Truyền
thống Kitô Giáo có một thoáng nh́n ngấm ngầm về việc Thánh Linh hiện diện nơi
biến cố biến h́nh song song với biến cố Chúa Giêsu chịu Phép Rửa ở sông Dược
Đăng, lúc mà Thần Linh lấy h́nh bồ câu đậu xuống trên Người (Mk 1:10). Thật vậy,
mệnh lệnh “Hăy lắng nghe Người” (Mk 9:7) của Chúa Cha cho thấy Chúa Giêsu đầy
Thánh Linh để các lời của Người đều là “thần trí và là sự sống” (Jn 6:63, x.
3:34-35).
Bởi vậy, chúng ta có thể leo lên ngọn núi này để trầm
tư, chiêm ngưỡng và d́m ḿnh vào mầu nhiệm ánh sáng của Thiên Chúa.
Tabo tiêu biểu cho tất cả mọi ngọn núi dẫn chúng ta đến với
Thiên Chúa, như các nhà thần bí vẫn thích dùng h́nh ảnh so sánh này. Một
bản văn khác của Giáo Hội Đông Phương kêu gọi chúng ta thực hiện cuộc tiến lên
tới chóp đỉnh và tới ánh sáng như sau: “Hỡi các dân, hăy đến mà
theo tôi! Chúng ta hăy leo lên ngọn núi thánh thiên
đ́nh; tâm linh của chúng ta hăy dừng lại ở thành đô Thiên Chúa hằng sống và lấy
tinh thần mà chiêm ngưỡng thần tính của Chúa Cha và Thánh Thần được rạng ngời
nơi Người Con Duy Nhất” (troparion at the conclusion of the Canon of St John
Damascene).
4-
Nơi Cuộc Biến H́nh, chúng ta chẳng những chiêm ngưỡng mầu nhiệm Thiên Chúa, đi
từ ánh sáng tới ánh sáng (x Ps 36:10), chúng ta c̣n được mời gọi để lắng nghe
lời thần linh nói với chúng ta nữa. Vượt trên ngôn từ của Lề Luật hiện thân nơi
Moisen cũng như ngôn từ của tiên tri hiện thân nơi Êlia, tiếng nói của Chúa Cha
có thể nghe thấy có liên quan đến tiếng nói của Chúa Con, như Tôi vừa đề cập tới
(x Mk 9:7). Khi dẫn giải về cảnh Biến H́nh, Bức Thư Thứ Hai
của Thánh Phêrô nhấn mạnh đến tiếng nói thần linh. Chúa Giêsu Kitô “đă
nhận được vinh dự cùng vinh quang từ Thiên Chúa Cha và có một tiếng nói đă phát
ra với Người từ vinh quang uy nghi cao cả: ‘Đây là Người Con yêu dấu của Ta,
Người mà Ta hài ḷng’; chúng tôi đă nghe thấy tiếng nói ấy phát ra từ trời, v́
chúng tôi đă ở với Người trên núi thánh. Do đó chúng tôi càng vững vàng hơn nữa
về lời ngôn sứ. Anh em tỏ ra vững chắc khi chú ư tới lời như là ngọn đèn sáng
soi trong nơi tăm tối cho đến ngày rạng đông và sao mai mọc lên trong tâm trí
anh em” (2Pt 1:17-19).
Chúng ta hăy chúc tụng Chúa Cha,
Ngôi Lời và Thánh Linh.
5-
Bởi vậy, nh́n và nghe, chiêm ngưỡng và tuân phục là những đường lối dẫn chúng ta
lên núi thánh, nơi Ba Ngôi tỏ ḿnh ra trong vinh quang của Chúa Con. “Cuộc Biến
H́nh làm cho chúng ta nếm trước việc Chúa Kitô đến trong vinh quang, khi Người
‘biến đổi thân xác thấp hèn của chúng ta nên giống như thân xác vinh hiển của
Người’ (Phil 3:21). Thế nhưng, Cuộc Biến H́nh đồng thời cũng nhắc nhớ là ‘chính
nhờ trải qua nhiều cuộc bách hại chúng ta mới được vào vương quốc của Thiên Chúa’
(Acts 14:22)” (Giáo Lư Giáo Hội Công Giáo, số 556).
Như linh đạo của Giáo Hội Đông Phương nêu lên, phụng vụ về Cuộc Biến H́nh cho
thấy một “bộ ba” nhân loại nơi ba vị tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan, những vị
chiêm ngưỡng Ba Ngôi thần linh. Như ba người trẻ trong ḷ lửa của Sách Tiên Tri
Đaniên (3:51-90), phụng vụ “chúc tụng Thiên Chúa là Cha và là Đấng Hóa Công,
ngợi khen Ngôi Lời là Đấng đă xuống giúp họ và biến lửa thành sương sa, cùng tôn
vinh Thánh Linh là Đấng ban sự sống cho tất cả mọi người đến muôn đời” (Kinh Ban
Mai Lễ Biến H́nh).
Giớ đây chúng ta hăy cầu nguyện cùng Chúa Kitô biến h́nh bằng những lời của
Kinh Nguyện Thánh Gioan Đamascênô: “Ôi Chúa Kitô, Chúa đă thu hút con bằng
ḷng khao khát Chúa, và đă biến đổi con bằng t́nh yêu thần linh. Xin Chúa hăy
thiêu đốt tội lỗi của con bằng lửa thiêng của Chúa và xin hăy đoái thương làm
cho con tràn đầy nỗi dịu ngọt của Chúa, để vui mừng hớn hở, con sẽ chúc tụng tất
cả mọi biểu hiện của Chúa”.
(Đaminh Maria Cao tấn Tĩnh, BVL, dịch từ Tuần san L’Osseervatore Romano, ấn bản
Anh ngữ, 3/5/2000)
DỰNG LỀU
Trần Mỹ Duyệt
Trên núi cao hôm đó, Phêrô, Gioan và Giacôbê
đă đi vào một giấc ngủ say. Nhưng giấc ngủ lần này không như giấc ngủ mà các ông
sẽ trải qua khi ở trong vườn Cây Dầu, v́ vừa chợt mở mắt ra, các ông đă thấy
vinh quang của Thiên Chúa bao phủ đến sửng sốt. Các ông tỉnh táo và thấy yêu đời
ngay: “Lậy Thầy, được ở đây th́ tốt lắm. Nếu Thầy muốn tôi sẽ dựng ba lều, một
cho Thầy, một cho Maisen và một cho Êlia” (Luc 9:33). Khác với lần ở vườn Cây
Dầu sau này, Chúa phải đánh thức đi, đánh thức lại các ông vẫn lăn ra ngủ đến độ
Ngài phải nói dỗi với họ: “Thôi cứ ngủ đi. Ḱa kẻ nộp Thầy đă tới rồi” (Mt 26:
45,46).
Thánh Luca đă tài t́nh vẽ lại cảnh hiển linh của Chúa Giêsu trên núi hôm đó bằng
những h́nh ảnh và mầu sắc hết sức linh động, sắc bén và huyền nhiệm. Bức tranh
hiển linh ấy bao gồm nhân vật chính là Chúa Giêsu với nét mặt rạng ngời, áo
trắng tinh, điều mà Thánh Mátthêu thêm là nét mặt Ngài rạng ngời như mặt trời,
và áo trắng tinh như ánh sáng lung linh, và thánh Máccô th́ thêm rằng trắng đến
nỗi không một thợ nhuộm nào trên trần gian có thể làm được. Rồi Maisen và Êlia
cùng đến và đàm đạo, tâm sự với Chúa. Phêrô và các bạn ông đă bị choán ngợp bởi
quang cảnh ấy, một quang cảnh thần linh và siêu việt mà các ông chưa bao giờ
chứng kiến. Hạnh phúc đến nỗi Phêrô quên ḿnh đang ở đâu, và cũng quên luôn ḿnh
là ai, và những người như Gioan và Giacôbê đang ở bên ḿnh. Ông chỉ nghĩ đến
Chúa và những ǵ thuộc về Ngài, những ǵ mà ông đang thấy trước mắt nên ông đă
đề nghị làm lều cho Chúa, cho Maisen và Êlia để ở lại luôn nơi ấy. Có lẽ khi nói
như vậy, Phêrô đă nghĩ rằng có Chúa là có tất cả, và hạnh phúc nhất là được ở
bên Ngài.
Phêrô đă nghĩ và nói đúng. Có Chúa là có tất cả, và điều cần thiết nhất là phải
giữ được Chúa ở với ḿnh. Ư tưởng dựng lều của ông đă diễn tả đầy đủ ư nghĩa về
căn Lều Trại của người Do Thái, nơi vinh quang của Chúa ngự trị. Thánh Kinh ghi
lại, suốt 40 năm lang thang trong Hoang Địa, người Do Thái luôn có Thiên Chúa ở
với trong Lều Trại nơi đặt Ḥm Bia Thánh. Chính sự có mặt của Ngài, mà dân Do
Thái đă chiến thắng được kẻ thù. Đây cũng chính là h́nh bóng Nhà Tạm mà Chúa
Giêsu đă vẫn thường ngự ở đó mỗi ngày để ở với nhân loại qua Bí Tích Thánh Thể.
Giáo Hội đă giữ Chúa lại với ḿnh như Phêrô đă đề nghị giữ Ngài lại bằng những
căn lều mà ông và bạn ông định dựng lên cho Ngài.
Đời sống Kitô hữu chúng ta th́ sao? Đă có lần nào chúng ta thấy Chúa, mời Chúa ở
lại và dựng cho Ngài một căn lều không? Có lẽ chúng ta nói: “Tôi đă thấy vinh
quang Chúa lần nào đâu. Làm sao tôi biết Chúa ở đâu mà dựng lều cho Ngài”. Nhưng
chúng ta thật sự đă quên rằng, hằng ngày chúng ta đă chẳng từng gặp gỡ Chúa và
nh́n thấy vinh quang của Ngài đó sao? Tôi đă thấy những người khóc sướt mướt v́
vui mừng và hạnh phúc trong những buổi tĩnh tâm, cấm pḥng. Tôi đă thấy những
người run lên v́ vui mừng sau khi được chữa lành căn bệnh ung thư ở thời kỳ cuối.
Tôi cũng đă thấy những người sung sướng đến xúc động nghẹn ngào, v́ được hoàn
toàn lành lặn sau một tai nạn xe hơi mà tưởng chừng như đă chết. Tôi đă thấy
những nụ cười tươi sáng của những người sau một cơn đau tim đột ngột mà vẫn thấy
ḿnh c̣n sống, hoặc những người vừa qua một cơn tai biến mạch máu năo nhưng may
mắn không bị bại liệt. Và tôi cũng đă thấy những nụ cười rạng rỡ của cô dâu, chú
rể sau thánh lễ tân hôn, cũng như của một tân linh mục sau thánh lễ truyền chức.
Những nụ cười hạnh phúc của cặp vợ chồng trẻ với đứa con đầu ḷng. Nụ cười của
một em bé ăn xin đang vui vẻ gặm ổ bánh ḿ mà em đă mua được từ những đồng tiền
người khác cho. Những h́nh ảnh ấy nếu đem áp dụng và đối chiếu với bức tranh
hiển lộ của Chúa Giêsu trên núi mà Thánh Luca đă vẽ lại tôi thấy h́nh bóng của
Chúa trong đó. V́ lúc đó những người tôi thấy ai cũng vui mừng, hớn hở, và hạnh
phúc như Phêrô, như Gioan và như Giacôbê. Và những người mà tôi thấy đó, ai cũng
không ngớt lời cảm tạ và tán tụng Thiên Chúa. Hành động họ, lời nói họ làm tôi
có cảm tưởng là họ không những cảm được, mà c̣n rờ được Chúa. Vậy tại sao không
mời Ngài ở lại. Tại sao không làm lều để giữ lấy Ngài.
Thật ra, căn lều mà Ngài muốn đây không ǵ khác là chính tâm hồn mỗi người.
Thánh Phaolô nói: “Anh chị em không biết anh chị em là đền thờ Chúa Thánh Thần
ngự sao?” Như vậy, theo Thánh Phaolô tâm hồn chúng ta, thân xác chúng ta c̣n to
lớn, nguy nga, và tráng lệ hơn cái lều mà Phêrô định dựng để cầm chân Chúa. Rất
tiếc, nhiều người chúng ta đă không giữ được Ngài. Không phải v́ Ngài vội xuống
núi, mà v́ chúng ta đă không mời Ngài ở lại, và đă không sẵn sàng với Ngài, mặc
dù nhiều lần Ngài như muốn ở lại.
Đúng thế, nhiều người sau những sốt sắng nhất thời tuy có gợi ư dựng lều cho
Ngài bằng những lời thề thốt, hứa hẹn nhưng rồi lại quên mất ngay sau đó. Một
người bạn tôi đă kể lại một lần sau khi tham dự buổi cầu nguyện Thánh Linh Đặc
Sủng: “Em tự nhiên nói được tiếng lạ. Em khóc. Em la. Em nói tiếng lạ cả mấy giờ
đến nỗi khan tiếng luôn. Ôi! Sung sướng quá. Giờ đây ai lỗi phạm đến em điều ǵ
em cũng sẵn sàng tha thứ, v́ ḷng em thật hạnh phúc. Em có Chúa ở cùng”. Nhưng
rồi chỉ được vài hôm sau, lại nóng nẩy, lại khó chịu, lại gây gỗ với người này,
người khác. Và lúc đó, tôi đă nói với người ấy rằng: “Lần sau Chúa Thánh Thần có
đến th́ mời Ngài ở lại lâu lâu hơn một chút nữa”.
Đó cũng là tâm trạng chung của nhiều Kitô hữu. Chúng ta muốn vinh quang Chúa.
Chúng ta muốn mời Chúa đến ở cùng, nhưng Chúa chưa kịp dọn vô, th́ căn nhà tâm
hồn chúng ta đă cho người khác mướn: Kiêu căng, tự phụ, ác độc, giận hờn, ghen
tỵ, dâm đăng, tham lam, và nhiều nhiều những thứ khác.
Tóm lại, muốn nh́n thấy vinh quang Thiên Chúa th́ không khó. Muốn mời Ngài đến
cũng không khó. Nhưng khó là chúng ta có sẵn ḷng để Ngài ở lại, và có dành giờ
để đàm đạo với Ngài hay không?! Dựng lều th́ không khó. Giữ ǵn và bảo tŕ lều
th́ khó. Và nhất là thái độ của chúng ta đối đăi như thế nào với vị Khách của
căn lều tâm hồn ḿnh mới là điều mà mỗi người chúng ta cần phải quan tâm suy
nghĩ: “Lậy Thầy, được ở đây th́ tốt lắm. Nếu Thầy muốn tôi sẽ dựng ba lều, một
cho Thầy, một cho Maisen và một cho Êlia” (Luc 9:33).
Chúa Nhật II Mùa Chay
Bóng Dáng Phục Sinh
Trước khi xuất thân cứu nhân độ thế, Vị Thiên Chúa Làm Người của chúng ta là
Chúa Giêsu Kitô đă phải thực hiện hai việc đi đôi với nhau, một việc liên quan
đến linh hồn của Người, đó là việc Người lănh nhận phép rửa của Giaon Tiền Hô ở
sông Dược Đăng, tác động mở màn cho Phụng Vụ Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh hằng
năm của Giáo Hội, và một việc liên quan đến thân xác của Người, đó là, ngay sau
khi chịu phép rửa, được Thánh Thần thúc đẩy, Người đă vào hoang địa 40 ngày để
ăn chay và chịu cám dỗ, tác động mở màn cho Phụng Vụ Mùa Chay hằng năm của Giáo
Hội.
Qua hai tác động liên quan đến cả hồn lẫn xác này của Người, toàn thể nhân tính
của Chúa Giêsu, như bài Phúc Âm hôm nay thuật lại, đă đi tới chỗ hiển linh, qua
hiện tượng biến h́nh trên núi, một biến cố loan báo trước thực tại Phục Sinh của
Người sau này, thời điểm thân xác phục sinh của Người trở thành phương tiện
thông ban Thánh Linh cho loài người xác thịt chúng ta. (Xin mở ngoặc ở đây là
Chúa Giêsu biến h́nh chứ không phải Chúa Giêsu chỉ “hiển dung” như một số người
sử dụng từ ngữ Lễ Chúa Giêsu Hiển Dung, v́ tất cả thân xác của Chúa Giêsu, kể cả
y phục của Người được biến h́nh sáng láng, chứ không phải chỉ có dung nhan của
Người mà thôi). Biến cố Chúa Giêsu tự ḿnh biến h́nh trên núi bao giờ cũng được
Phúc Âm Nhất Lăm cho Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Chay tuần này thuật lại đă chứng tỏ
cho thấy Người thực sự là một Vị Thiên Chúa Nhập Thể Làm Người, Thần Tính của
Người là chủ thể của nhân tính, làm chủ nhân tính và hiển linh qua nhân tính,
đúng như Thánh Tông Đồ Dân Ngoại nhận định trong thư gửi Giáo Đoàn Côlôsê đoạn 2
câu 9: “Nơi Người toàn thể tầm vóc viên măn của thần tính ngự trị một cách thể
lư”.
Tuy nhiên, để có thể tỏ hết Thần Tính vô cùng thiện hảo và hiển vinh ra, nhân
tính của Người phải Vượt Qua cuộc khổ nạn và tử giá. Đó là lư do bài Phúc Âm
Thánh Luca theo chu kỳ phụng vụ C tuần này nói đến sự kiện: “Bỗng có hai vị uy
nghi hiện đến đàm đạo với Người, đó là Moisen và Êlia, nói về sự chết của Người
sẽ xẩy ra tại Giêrusalem”.
Tại sao Moisen và Êlia…?
Thế nhưng, nếu việc Chúa Giêsu biến h́nh tiên báo việc Người phục sinh vinh hiển
th́ tại sao hai nhân vật Cựu Ước lại đến đàm đạo với Chúa Giêsu không phải về
vinh quang Phục Sinh mà là về cuộc tử nạn khổ đau của Người, và tại sao hai nhân
vật nói chuyện với Chúa Giêsu về cuộc tử nạn này lại là Moisen và Êlia, chứ
không phải là Abraham và Isaia, v́ Abraham là vị tổ phụ đă phải chịu khổ đau
cùng cực khi hiến tế đứa con nối ḍng duy nhất của ông, và Isaia là tiên tri đặc
biệt nói về Người Tôi Tớ đau khổ của Thiên Chúa?
Để trả lời cho câu hỏi rất xác đáng và khúc mắc này, chúng ta cần biết thân phận
của Moisen và Êlia là ai. Nếu Moisen liên quan đến lề luật th́ Êlia đóng vai tṛ
là tiên tri của Thiên Chúa. Mà Chúa Giêsu lại tuyên bố trong Bài Giảng Trên Núi
ở Phúc Âm Thánh Mathêu, đoạn 5 câu 17: “Các con đừng tưởng rằng Thày đến để hủy
bỏ lề luật và các lời tiên tri. Thày đến không phải để hủy bỏ mà là để làm trọn”.
Đó là lư do tại sao Moisen và Êlia đă xuất hiện để đàm đạo với Chúa Giêsu, Đấng
đến để làm trọn lề luật và các lời tiên tri, nhất là bằng Cuộc Vượt Qua của
Người, như chính Người một lần nữa đă khẳng định với các tông đồ khi hiện ra với
các vị sau khi từ trong kẻ chết sống lại ở Phúc Âm Thánh Luca đoạn 24 câu 44:
“Mọi sự viết về Thày trong lề luật của Moisen cũng như theo các lời tiên tri và
Thánh Vịnh cần phải được nên trọn”.
C̣n lư do tại sao Moisen và Êlia đến đàm đạo với Chúa Giêsu không phải về cuộc
phục sinh vinh hiển của Người trong lúc Người biến h́nh trên núi mà là về cuộc
tử nạn của Người, th́ chúng ta phải để ư đến sứ vụ của hai vị này, ở chỗ, cả hai
đều được Thiên Chúa kêu gọi đến để minh chứng cho Dân Do Thái thấy một chân lư
vô nhị, chân lư Chúa là Thiên Chúa duy nhất, ngoài Ngài ra không c̣n Chúa nào
khác, v́ Ngài là “Đấng Hiện Hữu” (Ex 3:14), tức là Đấng bất biến, Đấng luôn
trung thành với những ǵ đă hứa với các tổ phụ của họ là Abraham, Isaac và
Giacóp. Thiên Chúa đă thực sự tuyển chọn Moisen để giải phóng Dân Ngài khỏi làm
tôi người Ai Cập mà đem họ vào Đất Hứa, miền đất Ngài đă đưa Abraham tới và hứa
ban cho con cháu ông, như được ghi nhận trong Sách Sáng Thế Kư ở đoạn 17 câu 8.
Êlia cũng được Thiên Chúa tuyển chọn để giải phóng Dân Chúa khỏi bị mê hoặc bởi
450 tiên tri của Thần Ba-An trong việc tôn thờ ngẫu tượng, như được Sách Các Vua
quyển thứ nhất thuật lại ở đoạn 18 câu 16-46. Moisen khởi đầu ơn gọi giải phóng
của ḿnh bằng thị kiến bụi gai bốc cháy mà không bị thiêu rụi, như được thuật
lại trong Sách Xuất Hành ở đoạn 3 câu 2. C̣n Êlia đă kết thúc sứ vụ giải thoát
Dân Chúa của ḿnh bằng việc kêu cầu “Chúa là Thiên Chúa của Abraham, Isac và
Giacóp” để xin Ngài sai lửa từ trời xuống thiêu đốt của lễ của ḿnh và việc đă
thực sự đă xẩy ra, như Sách Các Vua quyển nhất ghi lại ở đoạn 18 câu 38.
Chúa Giêsu cũng đă đến để giải phóng Dân Chúa nói riêng và loài người nói chung
bằng chính cuộc tử nạn của ḿnh, một cuộc tử nạn để Người có thể “làm chứng cho
chân lư”, như Người đă tuyên bố với tổng trấn Philatô ở Phúc Âm Thánh Gioan đoạn
18 câu 37, chân lư Người là Đức Kitô, tức là Đấng được sai đến bởi Cha, Vị Thiên
Chúa đă hứa cứu độ loài người ngay sau khi họ sa ngă phạm tội nơi hai nguyên tổ,
như Sách Sáng Thế Kư ghi nhận ở đoạn 3 câu 15. Cuộc tử nạn khổ đau của Chúa Kitô
chẳng khác ǵ như bụi gai cháy mà không bị thiêu rụi trước mắt Moisen, một cuộc
tử nạn không bị thiêu rụi v́ Người thực sự đă phục sinh từ trong cơi chết, một
cuộc tử nạn tự hiến đă được Thiên Chúa vui ḷng khứng nhận như Ngài đă sai lửa
từ trời xuống thiêu hủy lễ vật của Êlia, đến nỗi, hoa trái của cuộc tử nạn này
chẳng những là ơn cứu độ được ban xuống cho loài người nói chung mà c̣n cho thân
xác của con người nói riêng, như Thánh Phaolô xác tín trong thư gửi Giáo Đoàn Do
Thái ở đoạn 5 câu 8-9: “Mặc dù là Con, song Người cũng biết vâng lời trong những
ǵ phải chịu, để khi thành toàn, Người đă trở nên căn nguyên cứu độ cho tất cả
những ai tín phục Người”, và trong Thư gửi Giáo Đoàn Rôma ở đoạn 8 câu 11: “Nếu
Thần Linh của Đấng đă phục sinh Chúa Giêsu từ trong kẻ chết ở trong anh em th́
Đấng phục sinh Chúa Giêsu từ trong kẻ chết cũng sẽ làm cho thân xác chết chóc
của chúng ta được sống như vậy, nhờ Thần Linh của Ngài ở trong chúng ta”. Theo
tôi, Thần Linh của Cha đă làm cho Chúa Kitô phục sinh đây chính là ngọn lửa từ
trời xuống thiêu đốt thân xác tử giá hy hiến của Chúa Kitô, một thân xác bị
thiêu đốt nhưng không bị thiêu rụi như h́nh ảnh bụi gai được Moisen thị kiến
thấy, tức một thân xác sẽ phục sinh vinh hiển, như được ba vị tông đồ đại diện
cho Dân Tân Ước thị kiến thấy trước, một biến cố được Phúc Âm Thánh Luca Chúa
Nhật tuần này thuật lại.
Giáo Lư của Giáo Hội Công Giáo số 556 nói về
cuộc biến h́nh của Chúa Giêsu liên quan đến việc thân xác loài người sẽ được cứu
như sau:
“Mở
màn cho cuộc sống công khai của Chúa Giêsu là việc Người chịu Phép Rửa; mở đầu
cho Cuộc Vượt Qua là việc Người Biến H́nh trên núi. Việc Chúa Giêsu chịu phép
rửa loan báo ‘mầu nhiệm tái sinh lần thứ nhất’ là việc chúng ta chịu Phép Rửa.
Việc Chúa Giêsu Biến H́nh trên núi ‘là bí tích của cuộc tái sinh lần thứ hai’
tức là việc chúng ta sống lại (xem Thánh Tôma, STh, III, 45, 4 ad 2). Từ đó
chúng ta được thông dự vào Cuộc Phục Sinh của Chúa Kitô, nhờ Thần Linh là Đấng
hoạt động nơi các bí tích của Thân Thể Chúa Kitô. Việc Biến H́nh trên núi của
Chúa Kitô cho chúng ta nếm hưởng trước việc Chúa Kitô sẽ đến trong vinh quang,
khi mà Người ‘sẽ biến đổi thân xác thấp hèn của chúng ta nên giống như thân thể
hiển vinh của Người’ (Phil 3:21). Tuy nhiên, việc Biến H́nh trên núi này cũng
nhắc nhở cho chúng ta thấy là ‘chúng ta phải trải qua nhiều cuộc bách hại mới
được vào vương quốc của Thiên Chúa’ (Acts 14:22)”.
Tại sao Phêrô…?
Đến đây, vẫn c̣n một vấn đề cần phải được giải quyết, đó là tại sao Thánh Phêrô
rất tỉnh táo, đến nỗi biết được cả hai vị đến đàm đạo với Chúa Giêsu là Moisen
và Elia, song sau khi xin phép Thày cho ḿnh được dựng ba lều cho Ba Đấng th́
Phúc Âm liền cho biết: “Khi nói thế, Phêrô không rơ ḿnh nói ǵ”. Theo tâm lư
cho thấy th́ tâm trạng của Thánh Phêrô lúc bấy giờ ra sao?
Thắc mắc này làm tôi nhớ đến câu truyện là vào tháng 10 năm 1998, sau khi tôi
chia sẻ với Đạo Binh Hồn Nhỏ ở Orange County dịp kỷ niệm 20 đoàn thể này sinh
hoạt tại Hải Ngoại, có một chị quen biết đến với tôi khen tặng bài chia sẻ của
tôi, và nhân đó cho tôi biết rằng có lần chị cũng được ơn nói tiếng lạ, không
phải là nửa tiếng hay 1 tiếng mà là mấy tiếng liền. Nghe xong, tôi hỏi xem chị
có hiểu những ǵ chị nói hay chăng, chị cho biết chị chẳng hiểu những ǵ chị nói
nữa! Vậy th́ những người khác làm sao có thể hiểu chị? Phải chăng tiếng lạ là
tiếng không ai hiểu ǵ?
Có một vị lăo thành rất sốt sắng tham gia Phong Trào Thánh Linh, vị đă ba lần
trong ṿng 1 năm khuyên giục tôi hăy mang kiến thức và khả năng chia sẻ về Thánh
Kinh của tôi để phục vụ nhiều linh hồn đang hào hứng với phong trào này, đă dẫn
giải cho tôi về vấn đề hay về hiện tượng “cầu nguyện bằng tiếng lạ”, như trường
hợp xẩy ra cho bà chị quen biết trên đây. Theo vị lăo thành này hiểu th́ sự kiện
cầu nguyện bằng tiếng lạ ấy có nền tảng trong Thánh Kinh, ở đoạn Thư Thánh
Phaolô gửi Giáo Đoàn Rôma ở đoạn 8 câu 26: “Thần Linh cũng giúp t́nh trạng yếu
đuối của chúng ta, v́ chúng ta không biết cầu nguyện làm sao cho phải, nên chính
Thần Linh đă chuyển cầu cho chúng ta bằng những lời than khôn tả”. Nghe thế, tôi
thưa lại với vị tiền bối của tôi rằng “những lời than khôn tả” phát xuất từ Thần
Linh đây, theo tôi hiểu, là những điều chúng ta không thể diễn tả được bằng lời
nói nhưng vẫn cảm nghiệm thấy trong tâm hồn bằng đức tin, như t́nh trạng chiêm
niệm lên tới bậc siêu việt của một số tâm hồn thánh nhân. Nếu cầu nguyện là nói
chuyện với Chúa, là giao tiếp với thần linh, mà lại không hiểu ḿnh nói ǵ,
không ư thức được những ǵ ḿnh muốn nói th́ đâu phải là cầu nguyện. Thật thế,
những cảm nghiệm thần linh siêu việt vượt trên cảm giác tự nhiên cũng như trên
tri thức loài người này vẫn có thể được diễn tả ra bằng lời nói, song là những
lời rất ngắn gọn, như Kinh Lạy Cha hoặc Kinh Kính Mừng chẳng hạn, chứ không dài
ḍng văn tự (x Mt 6:7-13), mà lại chất chứa đầy những ư nghĩa sâu xa chẳng khác
ǵ như “những lời than khôn tả”.
Thánh Gioan Chrysostom, vị Giám Mục Giáo Phụ của Hội Thánh, đă nhận định về việc
cầu nguyện “rên xiết” theo Thánh Linh như sau: “Cầu nguyện mang lại hoan lạc cho
thần trí, an b́nh cho tâm hồn. Tôi nói về việc cầu nguyện chứ không phải về
những thứ ngôn từ. Cầu nguyện là khát vọng Thiên Chúa, một thứ t́nh yêu quá sâu
xa đối với những lời lẽ, một tặng ân không phải tự con người mà là bởi ơn Chúa
ban cho. Thánh Tông Đồ Phaolô đă nói: ‘Chúng ta không biết cầu nguyện ra sao
nhưng chính Thần Linh cầu xin cho chúng ta bằng những khát khao khôn tả’”
(Supp., Hom. 6, De Precatione: PG 64, 462-466, The Office of Reading, St Paul
Edition, 1983, pg 347).
“Những lời than khôn tả” theo cảm nghiệm thần linh này có thể kể đến là lời Chúa
Giêsu than lên ba lần với Chúa Cha trong vườn Cây Dầu: “Lạy Cha, nếu được xin
cất chén này cho Con. Nhưng xin cho ư Cha được nên trọn chứ đừng theo ư Con” (Mt
26: 39,41-42), hay lời Người than lên trên thập giá trước khi tắt thở: “Chúa ơi,
sao Chúa nỡ bỏ rơi tôi?” (Mt 27:46), hoặc lời của Thánh Phêrô 3 lần tuyên xưng
“Lạy Thày, Thày quá rơ con yêu mến Thày” (Jn 21:15-17). Ngoài ra, c̣n có “những
lời than khôn tả” điển h́nh nữa của Thánh Phêrô, đó là lời “Thày là Đức Kitô,
Con Thiên Chúa hằng sống!” (Mt 16:16). Thật vậy, v́ là những ǵ nhận được do mạc
khải thần linh (x Mt 16:17), tức do Thần Linh, chứ không phải do huyết nhục tự
biết được, mà những lời tuyên xưng ấy quả thực là “những lời than khôn tả”, đến
nỗi, chính đương sự cũng không hiểu được “tất cả sự thật” (Jn 16:13) của “những
lời than khôn tả” ấy. Đó là lư do, vừa tuyên xưng xong, chính đương sự đă trở
thành “đồ Satan” qua lời quở trách thậm tệ của Thày. Cũng thế, những lời Thánh
Phêrô xin Thày trên đỉnh núi biến h́nh, nói mà không hiểu ǵ. Bởi v́, ngài chỉ
biết được sự kiện Chúa biến h́nh mà không hiểu được mầu nhiệm Vượt Qua (x Mt
17:10). Đó là lư do ngài đă trắng trợn và phũ phàng chối Thày 3 lần, dù đă thề
sống chết với Thày và được Thày tiên báo về việc chối bỏ của ngài (x Mt
26:33-35,69-75)
Lạy Chúa Giêsu Kitô là sự sống lại và là sự sống, Chúa đă tỏ vinh quang rạng
ngời trên núi cao khi biến h́nh trước mắt các môn đệ. Nhờ lời Mẹ Maria chuyển
cầu, xin Chúa cho Kitô hữu chúng con luôn biết sống trong tinh thần và chân lư,
để chúng con được hoan hưởng sự sống, một sự sống viên măn, trong Chúa là Cha và
Con và Thánh Thần. Amen.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
|