|
CHÚA NHẬT II
MTN-C
BÀI ĐỌC I: Is
62:1-5
“Người chồng sẽ vui mừng v́ vợ”
Bài trích sách Tiên tri
Isaia.
V́ Sion, tôi sẽ không im tiếng, và v́ Giêrusalem,
tôi sẽ không nghỉ ngơi, cho đến khi Đấng công chính xuất hiện như ánh sáng, Đấng
Cứu độ Sion đến như ngọn đuốc sáng ngời. Mọi dân tộc sẽ thấy Người là Đấng công
chính của ngươi, và mọi đế vương sẽ thấy vinh hiển Người. Chính Chúa sẽ đặt cho
ngươi một tên mới. Ngươi sẽ là triều thiên vinh hiển trong tay Chúa, và vương
miện quyền bính trong tay Thiên Chúa ngươi. Ngươi sẽ không c̣n gọi là kẻ bị
ruồng bỏ, và đất ngươi sẽ không c̣n gọi là chốn hoang vu. Ngươi sẽ được gọi là
“kẻ Ta ưa thích”, và đất ngươi sẽ được gọi là đất có dân cư, v́ ngươi đẹp ḷng
Thiên Chúa và đất ngươi sẽ có dân cư. Thanh niên sẽ ở cùng trinh nữ, và con cái
ngươi sẽ ở trong Người; người chồng sẽ vui mừng v́ vợ, Thiên Chúa ngươi sẽ vui
mừng v́ ngươi.
Lời của Chúa.
Đáp ca: (Xin mời Cộng đoàn thưa)
Hăy tường thuật phép lạ Chúa giữa chư dân.
1.
Hăy ca
mừng Thiên Chúa bài ca mới, hăy ca mừng Thiên Chúa đi, toàn thể địa cầu. Hăy ca
mừng Thiên Chúa, hăy chúc tụng danh Người.
2.
Ngày ngày
hăy loan truyền ơn Người cứu độ. Hăy tường thuật vinh quang Chúa giữa chư dân và
phép lạ Người ở nơi vạn quốc.
3.
Hăy kính
tặng Thiên Chúa, hỡi người chư dân bá tánh, hăy kính tặng Thiên Chúa quyền thế
với vinh quang, hăy kính tặng Thiên Chúa vinh quang xứng với danh Người.
4.
Hăy mặc lễ
phục, thờ lạy Thiên Chúa. Toàn thể địa cầu, hăy run sợ trước thiên nhan, hăy
công bố giữa chư dân rằng Thiên Chúa ngự trị. Người cai quản chư dân theo đường
đoan chính.
BÀI ĐỌC II: 1 Cor 12:4-11
“Cùng một Thánh Thần ban phát ơn riêng cho mỗi người theo như Người quy định”
Bài trích thơ thứ nhất
của Thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Côrintô”.
Anh em thân mến, có những hồng ân khác nhau, nhưng
vẫn là một Thánh Thần; có nhiều chức vụ khác nhau, nhưng chính là một Chúa; và
có những hành động khác nhau, nhưng chính là một Thiên Chúa, Người thực hiện hết
mọi cái trong mọi người. Ơn Thánh Thần ban cho mỗi người mỗi khác, cốt để mưu
cầu công ích. Người th́ được Thánh Thần cho lời khôn ngoan, kẻ khác th́ được lời
thông minh, theo cùng một Thánh Thần; kẻ khác được đức tin, trong cùng một Thánh
Thần; kẻ khác nữa được ơn chữa bệnh, trong cùng một Thánh Thần đó; có người được
ơn làm phép lạ, có kẻ được ơn tiên tri, người khác được ơn phân biệt các thần
trí; có người được ơn nói nhiều thứ tiếng; người khác được ơn giải thích các thứ
tiếng. Nhưng cùng một Thánh Thần duy nhất thực hiện tất cả những điều đó. Người
ban phát ơn riêng cho mỗi người theo như Người quy định.
Lời của Chúa.
(Xin mời Cộng đoàn đứng)
Alleluia, alleluia. — Chúa tụng Đức Vua, Đấng nhân danh Chúa mà đến, b́nh
an trên trời và vinh quang trên các tầng trời. — Alleluia.
PHÚC ÂM: Joan 2:1-12
Chúa Giêsu đă làm phép lạ đầu tiên
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô
theo Thánh Gioan.
Khi ấy, có tiệc cưới tại
Cana xứ Galilêa. Và có
mẹ của Chúa Giêsu ở đó. Chúa Giêsu và các môn đệ Người cũng được mời dự tiệc
cưới. và bỗng thiếu rượu, mẹ Chúa Giêsu nói với Người: “Họ hết rượu rồi”. Chúa
Giêsu nói với mẹ: “Hỡi bà, tôi với bà có can chi đâu, giờ tôi chưa đến”. Mẹ
Người nói với những người giúp việc: “Hễ Người bảo ǵ, th́ phải làm theo”. Ở đó
có sáu chum đá, dùng vào việc thanh tẩy của người Do Thái, mỗi chum đựng được
hai hoặc ba thùng nước. Chúa Giêsu bảo họ: “Hăy đổ nước đầy các chum”. Họ đổ đầy
tới miệng. Và Chúa Giêsu bảo họ: “Bây giờ hăy múc đem cho người quản tiệc”. Và
họ đă đem đi. Khi người quản tiệc nếm thử nước đă hóa thành rượu, ông không biết
tự đâu ra, nhưng những người giúp việc đă múc nước th́ biết, ông mới gọi tân
lang mà nói: “Ai cũng đem rượu ngon ra trước, khi khách ngà ngà th́ mới đem rượu
xoàng hơn. C̣n ông, ông lại giữ rượu ngon tới giờ nầy”. Chúa Giêsu đă làm phép
lạ đầu tiên nầy tại Cana xứ Galilêa, và đă tỏ vinh quang Người và các môn đệ
Người tin Người.
Phúc Âm của Chúa.
SUY NIỆM
HÔN NHÂN TRONG
MẦU NHIỆM CỨU ĐỘ
Hôn nhân là một ơn gọi
đầu tiên trong chương tŕnh tạo dựng và cứu độ của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa
đă cử hành “thánh lễ hôn phối” đầu tiên của nhân loại. Thánh Kinh đă ghi lại,
khi Thiên Chúa giới thiệu Evà với Adong, và khi Adong nhận ra đó là “xương của
xương” ông, và “thịt của thịt” ông th́ Thiên Chúa đă kế hợp họ lại với nhau, và
cho họ được tham dự vào quyền sáng tạo của Ngài: “Hăy sinh sản ra ra nhiều
trên mặt đất và hăy cai quản trái đất. Hăy thống trị cá biển, chim trời, và muôn
loài trên trái đất” (Gn 1:28).
Sự chúc phúc của Thiên
Chúa cho lễ cưới đầu tiên của nhân loại vẫn c̣n tiếp tục được nối tiếp trải qua
muôn thế hệ, mặc dù con người, và sự sa ngă của con người đă làm cho Ngài chới
với. Và để sửa sai lại trật tự ban đầu ấy, Ngài đă phải sai Con Yêu Dấu xuống
trần, hội nhập vào đời sống nhân loại, qua cửa ngơ của gia đ́nh, để làm phong
phú và thánh hóa ơn gọi hôn nhân gia đ́nh. Trong gia đ́nh Nagiarét, Chúa Giêsu
là con, Thánh Giuse là gia trưởng, và Mẹ Maria là nội trợ. Gia đ́nh ấy gồm cha,
mẹ, và con.
Chúa Giêsu luôn luôn cổ
vơ và đề cao ơn gọi hôn nhân. Khi người Pharisiêu nêu lên những đổi mới, và nới
lỏng nền tảng của gia đ́nh bằng hành động ly dị: “Người ta có được phép ly dị
không?” (Mc 10:2), Ngài đă trả lời: “Tự buổi đầu sáng tạo, Thiên Chúa đă
dựng nên một người nam và một người nữ; v́ lư do đó, người nam sẽ bỏ cha mẹ và
luyến ái với vợ ḿnh và hai sẽ nên một. Họ không c̣n là hai nhưng là một. Bởi đó,
sự ǵ Thiên Chúa đă liên kết, loài người không được phân ly” (Mc 10:6-9).
Hơn nữa, để bảo đảm cho giá trị vững bền cũng như hạnh phúc của ơn gọi hôn nhân,
Thiên Chúa đă nghiêm cấm con người là “không được làm việc dâm dục”, và “không
được ham muốn vợ chồng người”.
Nhưng con người vẫn yếu
đuối, vẫn sa ngă, và vẫn làm ngược lại những ǵ Thiên Chúa đă nghiêm cấm. Kết
quả, đời sống hôn nhân đă trở thành đắng cay, thách đố, và oan kiên cho con
người. Tuy nhiên, Thiên Chúa không nỡ để con người ch́m lặng trong bóng tối của
đam mê, của dục vọng, và của bản năng. Ngài đă đến với con người bằng sự xuất
hiện rạng ngời như ánh sáng chiếu vào tăm tối, và như dấu chỉ của một sự thông
cảm và chia sẻ khi Ngài tham dự tiệc cưới Cana; đặc biệt, qua phép lạ Ngài làm
để cứu nguy đôi tân hôn hôm đó. Ngài đă phá lệ làm phép lạ nước hóa thành rượu
ngon mặc dù giờ Ngài chưa tới: “Việc đó có can dự ǵ đến bà và tôi. Giờ tôi
chưa tới” (Gio 2:4). Hành động ấy chứng tỏ rằng Thiên Chúa thực sự yêu
thương những người trong đời sống hôn nhân gia đ́nh. Ngài đă mượn môi trường hôn
nhân gia đ́nh để tŕnh bày cho nhân loại về công tŕnh sáng tạo và cứu chuộc của
Ngài. Như ánh sáng chiếu soi vào những vùng tăm tối của con người, Ngài thực sự
quan tâm và lo lắng cho môi trường hôn nhân và gia đ́nh: “Chúa Giêsu đă làm
phép lạ đầu tiên tại Cana xứ
Galilê. Ngài đă tỏ vinh quang Ngài và các môn đệ tin kính Ngài”
(Gio 2: 11). Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, trong Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ
Maria mở màn cho Năm Mân Côi 2003, đă coi biến cố Cana như dấu chỉ trước hết và
quan trọng để Chúa Giêsu hiển lộ vai tṛ Cứu Thế của Ngài. Đức Thánh Cha gọi đây
là một trong những Mầu Nhiệm Ánh Sáng của cuộc đời công khai Chúa Cứu Thế.
Sự công khai xuất hiện
của Chúa Giêsu trong một tiệc cưới, và hành động làm phép lạ đầu tiên để cứu
nguy đôi tân hôn cũng cho thấy, mặc dù ơn gọi hôn nhân gia đ́nh là một ơn gọi
cần thiết và quan trọng, nhưng vẫn là một thách đố lớn lao, và nó không thể tồn
tại mà không có sự can thiệp và nâng đỡ của Thiên Chúa. Hiện tượng ly thân, ly
dị. Hiện tượng đồng tính luyến ái. Và hiện tượng trai gái tự do luyến ái ngày
nay chính là một trạng thái “hết rượu” trong hôn nhân. “Họ hết rượu rồi”
(Gio 2: 3).
Nhưng để có được rượu
ngon và để hơi ấm t́nh yêu được giữ măi trong cuộc đời hôn nhân, điều cần là
chúng ta phải cảm thấy cái nguy cơ của t́nh yêu cạn kiệt, được cuốn hút bằng
những đam mê và dục vọng làm say đắm ḷng người. Đó là những thứ rượu chua, rượu
xoàng nhưng uống nhiều sẽ bị say. Và chỉ khi ta ư thức được nhu cầu cần phải có
rượu, ta mới có thể đến với Mẹ Maria, xin Mẹ nói với Chúa một câu. Rồi như những
gia nhân trong tiệc cưới Cana hôm đó, chúng ta chỉ cần làm những ǵ Chúa bảo là
tự nhiên nước lă hóa thành rượu. T́nh yêu sẽ bừng say trở lại, con tim sẽ hân
hoan, vui vẻ, và hạnh phúc sẽ tràn đầy bên nhau. V́ Chúa là ánh sáng và là
nguồn ơn cứu độ. Và v́ hôn nhân là một ơn gọi mà Thiên Chúa muốn duy tŕ và
thánh hóa.
Trần Mỹ Duyệt
Đèn Soi… Rạng Đông… Mặt Trời
Năm
Phụng Vụ bao gồm các thời điểm kính nhớ từng Mầu Nhiệm Chúa Kitô được gọi là Mùa:
như Mùa Vọng và Giáng Sinh, từ Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Vọng đến Chúa Nhật Lễ Hiển
Linh, kính nhớ Mầu Nhiệm Nhập Thể và Giáng Sinh của Con Thiên Chúa; Mùa Thường
Niên Hậu Giáng Sinh, từ Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa đến Thứ Tư Lễ Tro, kính nhớ
Mầu Nhiệm về Đời Sống Công Khai của Chúa Giêsu; Mùa Chay, Tam Nhật Thánh và Phục
Sinh, từ Thứ Tư Lễ Tro đến Chúa Nhật Lễ Phục Sinh, kính nhớ Mầu Nhiệm Khổ Nạn,
Tử Giá và Phục Sinh của Chúa Kitô; sau hết là Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh, từ
Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống đến Lễ Chúa Kitô Vua, kính nhớ Mầu Nhiệm Thần Linh
là Đấng Chúa Kitô Phục Sinh đă thông ban cho và sai đến với Nhiệm Thể của Người,
để Giáo Hội có thể làm chứng về Người cho tới khi Người lại đến, thời điểm được
Phụng Vụ kết thúc vào Lễ Chúa Kitô Vua.
Thế nhưng, chúng ta nên nhớ rằng, việc chúng ta kính nhớ Mầu Nhiệm Chúa Kitô
theo chu kỳ Phụng Niên của Giáo Hội không phải là việc chúng ta kính nhớ những
biến cố hoàn toàn đă qua đi, như tất cả những biến cố lịch sử trần gian tự nhiên
khác, mà là cử hành những ǵ thực hữu, tức những ǵ vẫn c̣n tiếp diễn, vẫn c̣n
tác dụng một cách thần linh trên thế gian này. Tại sao? Là bởi v́ Chúa Kitô vẫn
c̣n ở cùng Giáo Hội luôn măi cho đến tận thế, như Người đă khẳng định trong lời
cuối cùng của Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 28, câu 20. Chưa hết, c̣n bởi v́ tất cả
những ǵ Chúa Kitô là Con Thiên Chúa Nhập Thể làm cho loài người trên trần gian
này, dù chỉ một lần duy nhất, song có giá trị vô cùng, nên các việc Người làm và
từng việc Người làm cũng có cả tính cách vĩnh viễn không qua đi nữa.
Đúng thế, nếu Chúa Kitô vẫn tiếp tục hiện diện và sống động với Giáo Hội cho đến
tận thế, th́ việc Giáo Hội cử hành Phụng Vụ “mà nhớ đến Thày” (Lk 22:19) chính
là việc Giáo Hội cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô, cử hành Mầu Nhiệm Đức Tin của ḿnh.
Để rồi, nhờ tham dự Phụng Vụ một cách ư thức, chủ động và tích cực, Kitô hữu
chúng ta được sống Mầu Nhiệm Chúa Kitô, hay Chúa Kitô tỏ hiện nơi Đức Tin của
chúng ta và tỏ ḿnh cùng ban ḿnh cho ḷng khao khát và trông mong của chúng ta.
Chúa Kitô: Tại sao cần môi giới nhập thế?
Tuần này, chúng ta cùng nhau t́m hiểu tại sao Phụng Vụ Năm C là chu kỳ phụng vụ
bao giờ cũng theo Phúc Âm Thánh Luca, như Năm A theo Phúc Âm Thánh Mathêu và Năm
B theo Phúc Âm Thánh Marcô, mà trong Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Thường Niên Năm C
tuần này Giáo Hội bao giờ cũng chọn đọc bài Phúc Âm Thánh Gioan về tiệc cưới
Cana? Ư nghĩa của bài Phúc Âm theo Thánh Gioan về tiệc cưới Cana này như thế nào
đối với riêng Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Thường Niên cũng như đối với chung cả Mùa
Thường Niên?
Để có thể hiểu được lư do tại sao Giáo Hội lại cố ư xen kẽ bài Phúc Âm Thánh
Gioan vào Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Thường Niên cho cả ba chu kỳ phụng vụ A, B, C,
trước hết chúng ta phải hiểu được ư nghĩa của Mùa Thường Niên.
Mùa Thường Niên trong Phụng Niên được chia ra làm hai phần, phần hậu Giáng Sinh
và phần hậu Phục Sinh. Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh, từ Lễ Chúa Giêsu Chịu
Phép Rửa đến Thứ Tư Lễ Tro, kính nhớ Mầu Nhiệm về Đời Sống Công Khai của Chúa
Giêsu, và Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh, từ Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống đến Lễ
Chúa Kitô Vua, kính nhớ Mầu Nhiệm Thần Linh là Đấng Chúa Kitô Phục Sinh đă thông
ban cho và sai đến với Nhiệm Thể của Người, để Giáo Hội có thể làm chứng về
Người cho tới khi Người lại đến, thời điểm được Phụng Vụ kết thúc vào Lễ Chúa
Kitô Vua. Như thế, nếu Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh kính nhớ Mầu Nhiệm về Đời
Sống Công Khai của Chúa Giêsu th́ bài phúc âm Thánh Gioan về tiệc cưới Cana cho
Chúa Nhật Thứ Hai của Mùa Thường Niên hôm nay, được Giáo Hội chọn xen kẻ vào Chu
Kỳ Phụng Vụ Năm C là chu kỳ vốn theo Phúc Âm Thánh Luca, là v́ Giáo Hội muốn
Chúa Kitô phải được Mẹ Maria đóng vai tṛ trung gian để giới thiệu Người với các
môn đệ của Người, hay vai tṛ Mẹ Maria làm môi giới trong công cuộc cứu độ của
Chúa Kitô, Con Mẹ.
Thật vậy, nếu chúng ta đọc kỹ lại ba bài Phúc Âm theo Thánh Gioan được Giáo Hội
cố ư chọn để đưa vào Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Thường Niên cho cả ba Chu Kỳ Phụng Vụ
Năm A, B và C, chúng ta sẽ thấy được vai tṛ môi giới hay vai tṛ trung gian
giới thiệu này hết sức hiển nhiên nơi ba trường hợp khác nhau.
Trước hết, cho Chu Kỳ Phụng Vụ Năm A, Giáo Hội chọn bài Phúc Âm Thánh Tông Đồ
Gioan tŕnh thuật về việc Vị Tiền Hô Gioan làm chứng để giới thiệu Chúa Kitô cho
dân Do Thái như sau: “Khi ấy, ông Gioan thấy Chúa Giêsu tiến về phía ḿnh liền
nói: ‘Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian… Tôi đă thấy và tôi làm
chứng: chính Ngài là Con Thiên Chúa’”.
Thứ đến, cho Chu Kỳ Phụng Vụ Năm B, Giáo Hội chọn bài Phúc Âm Thánh Gioan tŕnh
thuật về việc hai môn đệ của Vị Tiền Hô sau khi đến gặp và ở với Chúa Kitô trở
về liền giới thiệu Người cho nhau để cùng nhau đến với Người thế này: “’Chúng
tôi đă gặp Đấng Messia, nghĩa là Đức Kitô’. Và ông dẫn anh ḿnh đến với Chúa
Giêsu”.
Sau hết, cho Chu Kỳ Phụng Vụ Năm C, Giáo Hội chọn bài Phúc Âm Thánh Gioan tŕnh
thuật về việc Mẹ Maria can thiệp để cứu văn t́nh thế thiếu rượu của đôi tân hôn,
nhờ đó Chúa Kitô đă bắt đầu chính thức tỏ ḿnh ra cho các môn đệ có thể nhận
biết Người: “Chúa Giêsu đă làm phép lạ đầu tiên này tại Cana xứ Galilêa, và đă
tỏ vinh quang của Người ra và các môn đệ Người tin vào Người”.
Qua bài Phúc Âm tŕnh thuật biến cố Chúa Giêsu lần đầu tiên tỏ vinh quang của
Người ra cho các người môn đệ tiên khởi của Người, chúng ta thấy rơ vai tṛ môi
giới của Mẹ Maria ở chỗ, Mẹ chẳng những đến xin Con Mẹ là Đấng Mẹ hoàn toàn tin
tưởng là chỉ có một ḿnh Người mới có thể cứu văn t́nh thế cho bữa tiệc cưới
đang ở trong t́nh trạng thiếu rượu, mà c̣n đến với cả thành phần phục vụ tiệc
cưới nữa, để dọn đường cho giờ Con Mẹ tới. Kết quả là Mẹ đă làm cho hai bên thực
sự gặp được nhau. Đó là cuộc hội ngộ thần linh giữa Thiên Chúa và loài người do
Mẹ làm môi giới.
Đến đây chúng ta có thể đặt vấn đề là tại sao Chúa Kitô lại cần phải được giới
thiệu như vậy, Người không thể tự tỏ ḿnh ra được ư?
Về vấn nạn này, chúng ta cần phải lưu ư đến lời Chúa Kitô tuyên bố với tổng trấn
Philatô trong Phúc Âm Thánh Gioan, ở đoạn 18, câu 37, về mục đích cho cuộc sống
trần gian của Người, đó là: “Lư do Tôi được sinh ra, lư do Tối đến thế gian là
để làm chứng cho chân lư”. Cũng theo Phúc Âm Thánh Gioan, chúng ta thấy thực sự
Chúa Kitô đă chứng minh một chân lư duy nhất, đó là chân lư Người là Đấng Thiên
Sai, hay nói cách khác, Cha là Đấng đă sai Người đến cũng vậy. Như thế, khi làm
chứng về ḿnh là Chúa Kitô đồng thời cũng làm chứng về Cha của Người.
Để thực hiện việc làm chứng cho chân lư duy nhất lưỡng diện này, chân lư ban sự
sống đời đời cho những ai nhận biết Cha là Thiên Chúa duy nhất và Chúa Kitô Cha
sai (xem Jn 17:3), Chúa Kitô đă dùng nhiều cách. Vẫn biết cách tốt nhất là việc
Người chu toàn tất cả những ǵ Cha đă truyền cho Người làm, tuy nhiên, Người
cũng dùng cả những chứng từ khác nữa, như nại vào Cựu Ước hay vào chính thế giá
của Gioan Tiền Hô, như chính Người khẳng định trong Phúc Âm Thánh Gioan, ở đoạn
5, câu 33-36: “Quí vị đă sai người đến với Gioan, vị đă làm chứng cho chân lư. (Không
phải là Tôi cần đến một chứng cớ trần gian như thế – Tôi nại vào những điều này
chỉ v́ phần rỗi của quí vị mà thôi). Ông là ngọn đèn chiếu sáng mà quí vị đă
muốn hưởng ánh sáng của ông. Tuy nhiên Tôi có một chứng cớ c̣n quan trọng hơn
của Gioan nữa ḱa, đó là những việc Cha trao cho Tôi phải hoàn tất. Chính những
việc Tôi làm này làm chứng cho Tôi rằng Cha đă sai Tôi”.
Đúng thế, con người cần phải từ từ tiếp nhận Mạc Khải Thần Linh chứ không thể
tiếp nhận ngay lập tức, v́ Mạc Khải này là một Thực Tại Thần Linh siêu việt quá
tầm với của tri thức loài người. Đó là lư do cho thấy chân lư mà Chúa Giêsu sẽ
tỏ ra cho dân Do Thái biết thật là khủng khiếp, một chân lư hay một Thực Tại
Thần Linh họ rất muốn biết song tự ḿnh họ lại không thể chấp nhận nổi. Đó là lư
do Người đă khẳng định cả với dân Do Thái nói chung cũng như với thành phần môn
đệ thân tín nhất của Người nói riêng là nơi Người đi họ không thể nào đến được,
trái lại, chính lúc họ t́m kiếm Người, chính khi họ muốn biết Người là ai và
được Người tỏ hết ḿnh ra cho họ biết, th́ họ lại vấp phạm v́ Người, lại chết
trong tội lỗi của họ (xem Jn 7:33-34, 8:21, 13:33). Điển h́nh nhất là lúc Hội
Đồng Do Thái bắt được Người và nhân danh Thiên Chúa hỏi Người, để rồi ngay sau
khi nghe Người nhận ḿnh là Con Thiên Chúa xong th́ đă uất hận vùng lên đ̣i giết
Người (xem Mt 26:64-68).
Bởi thế, để thích hợp với tầm mức tiếp thu Mạc Khải Thần Linh nơi con người,
Chúa Kitô là Mặt Trời Công Chính sẽ hiện lên sáng tỏ đến chói ngời trên bầu trời
cứu độ thế giới thật sự cần phải được báo trước, cần phải được dọn đường trước,
bằng những dấu chỉ thời đại, như dấu chỉ một Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đóng vai như
Ngọn Đèn sáng vừa tầm mắt của dân Do Thái, nhất là như dấu chỉ một Từ Mẫu Maria
đóng vai như Rạng Đông của Giáo Hội nói riêng (một Giáo Hội được tiêu biểu nơi
các tông đồ dự tiệc cưới Cana bấy giờ) và của loài người nói chung (một loài
người được thể hiện qua môi trường hôn nhân là cơ cấu Thiên Chúa đă thiết lập
ngay từ ban đầu nơi loài người).
Chúa Kitô: tại sao ẩn dật nhiều hơn công khai?
Dầu sao, theo diễn tiến của phụng vụ Giáo Hội, Chúa Giêsu h́nh như lớn nhanh quá
đi. Người vừa mới Giáng Sinh cách đây chưa đầy một tháng mà nay đă xuất thân
nhập thế rồi. Bởi vậy, vấn đề có thể được đặt ra ở đây là tại sao cuộc đời của
Chúa Kitô chỉ được các Thánh Kư thuật lại nhiều về giai đoạn công khai của Người
hơn là giai đoạn Người sống ẩn dật? Thế mà, xuống thế gian với chung loài người
mà tại sao Chúa Kitô lại chỉ tỏ ḿnh cho tất cả thế gian vỏn vẹn có 3 năm, c̣n
30 năm Người giành để sống với Mẹ Maria? Phải chăng giai đoạn ẩn dật của Người
hoàn toàn không quan trọng, nhất là những việc không được các Thánh Kư thuật lại,
ngoài những biến cố đă được ghi thau65t trong Phúc Âm Thánh Mathêu và Luca, như
việc Người Giáng Sinh, Người chịu phép cắt b́, được dâng lên Thiên Chúa như một
người con trai đầu ḷng, việc Người bị quận vương Hêrôđê sát hại và phải di cư
sang Ai Cập, việc Người âm thầm ở lại trong đền thờ và trở về tuân phục cha mẹ ở
Nazarét v.v.?
Để có thể hiểu được vấn đề một cách xác đáng và trung thực,
không ǵ bằng việc chúng ta hăy dựa vào Huấn Quyền của Giáo Hội. Thật vậy, Giáo
Lư của Giáo Hội Công Giáo đă nói về ư nghĩa và giá trị của giai đoạn đời Chúa
Giêsu ẩn dật như sau:
Số Giáo Lư 512 nhận định: “Đối với đời sống của Chúa Kitô, Kinh Tin Kính chỉ nói
tới các mầu nhiệm Nhập Thể (đầu thai và giáng sinh) và mầu nhiệm Vượt Qua (khổ
nạn, thập giá, tử nạn, táng xác, âm phủ, phục sinh và thăng thiên). Tin Tin Kính
không nói một cách tỏ tường đến những mầu nhiệm của đời sống ẩn dật hay công
khai của Người cả, thế nhưng, các điều đức tin liên quan tới mầu nhiệm Nhập Thể
và Vượt Qua của Người đă soi sáng cho cả đời sống trần gian của Người. ‘Tất cả
những ǵ Chúa Giêsu làm và dạy, từ đầu cho tới ngày Người được đem về trời’
(Acts 1:1-2) cần phải được thấy trong ánh sáng của các mầu nhiệm Giáng Sinh và
Phục Sinh”.
Số Giáo Lư 514 xác định: “Có nhiều sự về Chúa Giêsu khêu gợi óc ṭ ṃ của con
người không được ghi chép lại trong Phúc Âm. Cuộc sống ẩn dật tại Nazarét hầu
như không được đề cập tới, thậm chí một phần lớn cuộc sống công khai của Người
cũng không được kể lại (x. Jn 20:30). Những ǵ được các Phúc Âm ghi chép lại và
tŕnh bày ‘để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, và để nhờ
tin tưởng mà anh em có sự sống bởi danh Người’ (Jn 20:31)”.
Số Giáo Lư 517 và 518 nói lên thực tại của chung đời sống Chúa Kitô, trong đó có
cả những ǵ không được Phúc Âm ghi lại thế này.
Số Giáo Lư 517 tuyên xưng: “Toàn thể đời sống của Chúa Kitô là mầu nhiệm cứu
chuộc. Ơn cứu chuộc được ban cho chúng ta trước hết từ máu thập giá của Người
(x. Eph 1:7; Col 1:13-14; 1Pt 1:18-19), song mầu nhiệm cứu chuộc này hoạt động
khắp đời sống của Chúa Kitô: nơi việc Nhập Thể, nhờ trở nên nghèo nàn Người làm
cho chúng ta nên giầu có bằng đức thanh bần của Người (x. 2Cor 8:9); nơi cuộc
sống ẩn dật, việc Người phục tùng đă đền thay cho những bất phục tùng của chúng
ta (x Lk 2:51); bằng lời nói, Người thanh tẩy thính giả của ḿnh (x Jn 15:3);
bằng việc chữa lành và trừ quỉ, Người ‘mang lấy những yếu hèn và gánh chịu những
bệnh nạn của chúng ta’ (Mt 8:17; x. Is 53:4); và bằng việc Phục Sinh của ḿnh,
Người đă làm cho chúng ta được nên công chính (x Rm 4:25)”.
Số Giáo Lư 518 tuyên xưng thêm: “Toàn thể đời sống của Chúa Kitô là mầu nhiệm
tái tạo. Tất cả những ǵ Chúa Giêsu thực hiện, nói năng và chịu đựng là nhắm đến
mục đích để phục hồi con người sa đọa trở lại với ơn gọi nguyên thủy của họ:
Nhập thể và làm người, Người đă tái tạo nơi bản thân ḿnh cả một lịch sử dài của
loài người, và mang chúng ta đến với ơn cứu độ bằng một ngơ tắt, để những ǵ
chúng ta đă bị mất đi nơi Adong, tức là đă bị mất đi cái h́nh ảnh và tương tự
như Thiên Chúa, chúng ta có thể lấy lại nơi Chúa Giêsu Kitô (Thánh Irênêô, Adv.
haeres. 3, 18, 1: PG 7/1, 932). V́ lư do này, Chúa Kitô đă phải trải qua tất cả
các đoạn đời của cuộc sống, nhờ đó Người làm cho tất cả mọi người được hiệp
thông với Thiên Chúa (Thánh Irênêô, Adv. haeres. 3, 18, 7: PG 7/1, 937; x. 2,
22, 4)”.
Lạy Chúa Giêsu là Con Cha trên trời và là Con Người dưới thế, “là dung nhan nhân
loại của Thiên Chúa và là gương mặt thần linh của nhân loại”, như Chúa đă tỏ
ḿnh ra đúng như thế ở tiệc cưới Cana qua môi giới Mẹ Maria. Nhờ lời Mẹ Maria
chuyển cầu, Xin Chúa tiếp tục tỏ ḿnh ra nơi những yếu hèn của chúng con là
những chi thể của Chúa, để được tràn đầy nhựa sống Thần Linh, chúng con có thể
trổ sinh muôn vàn hoa trái cho Danh Cha muôn đời cả sáng. Amen.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
|