|
CHÚA NHẬT
XXXI QUANH NĂM
BÀI ĐỌC I: Sap 11:22 — 12:2
“Chúa thương xót mọi loài, v́ Chúa yêu thương mọi tạo vật”
Bài trích sách Khôn
Ngoan.
Lạy Chúa, trước mặt Chúa, cả vũ trụ ví như quả cân
trên dĩa cân, và như hạt sương sa trên mặt đất trước lúc rạng đông. Nhưng Chúa
thương xót mọi loài, v́ Chúa có thể tác tạo mọi sự, và nhắm mắt làm ngơ trước
tội lỗi loài người để họ ăn năn sám hối. Chúa yêu thương mọi tạo vật, và không
ghét bỏ bất cứ vật ǵ Chúa đă tác thành: v́ nếu Chúa ghét bỏ một vật ǵ th́
Người đâu có tác tạo nó. Nếu Chúa không ưng, th́ làm sao một vật có thể tồn tại
được? Hoặc vật ǵ Chúa không kêu gọi, th́ làm sao nó duy tŕ được? Nhưng Chúa
dung thứ hết mọi loài: v́ chúng thuộc về Chúa. Lạy Chúa, Chúa yêu thương các
linh hồn. Ôi lạy Chúa, thần trí của Chúa tốt lành và hiền hậu đối với mọi loài
là dường nào! V́ thế, lạy Chúa, Chúa từ từ sửa phạt những kẻ lầm lạc, khuyên răn
và dạy bảo những kẻ phạm lỗi, để họ từ bỏ tội ác mà tin theo Chúa.
Lời của Chúa.
Đáp ca: (Xin mời Cộng đoàn thưa)
Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa, tôi sẽ chúc tụng danh Chúa
tới muôn đời.
1.
Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa, tôi sẽ ca khen Chúa, và tôi sẽ chúc tụng danh Chúa
tới muôn đời. Hằng ngày tôi sẽ chúc tụng Chúa, và tôi sẽ khen ngợi danh Chúa tới
muôn đời.
2.
Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất b́nh và giàu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi
loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa.
3.
Lạy Chúa, mọi công cuộc của Chúa hăy ca ngợi Chúa, và các thánh nhân của Ngài
hăy chúc tụng Ngài. Thiên hạ hăy nói lên vinh quang nước Chúa, và hăy đề cao
quyền năng của Ngài.
4.
Chúa trung thành trong mọi lời Ngài phán, và thánh thiện trong mọi việc Ngài làm.
Chúa nâng đỡ hết thảy những ai sa ngă, và cho mọi kẻ kḥm lưng đứng thẳng lên.
BÀI ĐỌC II: 2 Thess 1:11 — 2:2
“Danh Chúa được vinh hiển trong anh em, và anh em được vinh hiển trong
Người”
Bài trích thơ thứ hai
của Thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Thessalônica.
Anh em thân mến, chúng tôi hằng cầu nguyện cho anh
em: Thiên Chúa chúng ta đoái thương làm cho anh em nên xứng đáng ơn Chúa kêu gọi
anh em, và xin Người dùng quyền phép mà kiện toàn những ư định ngay lành do ḷng
tốt của anh em và công việc của ḷng tin anh em, để danh Đức Giêsu Kitô Chúa
chúng ta được vinh hiển trong anh em, và anh em được vinh hiển trong Người, do
ân sủng của Thiên Chúa chúng ta và của Chúa Giêsu Kitô. Anh em thân mến, nhân về
ngày trở lại của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, và về sự chúng ta tập họp bên
cạnh Người, chúng tôi nài xin anh em chớ vội để ḿnh bị giao động tinh thần, và
đừng hoảng sợ bởi có ai nói tiên tri, hoặc bởi lời rao giảng hay bởi thơ từ nào
được coi như do chúng tôi gởi đến mà nói như thể ngày Chúa gần đến.
Lời của Chúa.
(Xin mời Cộng đoàn đứng)
Alleluia, alleluia. — Chúa phán: “Thầy là đường, là sự
thật và là sự sống: không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”. —
Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 19:1-10
“Con Người đến t́m kiếm và cứu chữa điều ǵ đă hư nát”
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô
theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu vào Giêricô và đi ngang qua
thành, th́ ḱa, có một người tên là Giakêô, ông thủ lănh những người thu thuế và
là người giàu có. Ông t́m cách để nh́n xem Chúa Giêsu là người thế nào, nhưng
không thể được, v́ người ta đông quá, mà ông lại thấp bé. Vậy ông chạy lên trước,
trèo lên một cây sung để nh́n xem Người, v́ Người sắp đi ngang qua đó. Khi vừa
đến nơi, Chúa Giêsu nh́n lên và trông thấy ông ấy, nên Người bảo ông rằng: “Hỡi
Giakêô, hăy xuống mau, v́ hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi”. Ông vội vàng
trèo xuống và vui vẻ đón tiếp Người. Mọi người thấy vậy, liền lẩm bẩm rằng: “Ông
nầy lại đến nhà một người tội lỗi”. Ông Giakêô đứng lên thưa cùng Chúa rằng:
“Lạy Ngài tôi xin bố thí nửa phần của cải tôi cho kẻ khó, và nếu tôi có làm
thiệt hại cho ai điều ǵ, tôi xin đền gấp bốn”. Chúa Giêsu bảo ông ấy rằng: “Hôm
nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người nầy cũng là con cái Abraham. V́ chưng, Con
Người đến t́m kiếm và cứu chữa điều ǵ đă hư nát”.
Phúc Âm của Chúa.
SUY NIỆM
Giakêu, hiện thân đích thực của người thu thuế
trong dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện
Chỉ c̣n bốn tuần lễ nữa, kể cả tuần này, là hết Phụng Niên năm 2003-2004. Bởi
thế, từ tuần XXXI Mùa Thường Niên Năm C Chúa Nhật tuần này đây, chúng ta đă bắt
đầu đi vào Mầu Nhiệm Cánh Chung, mầu nhiệm Chúa Kitô tái giáng, như chúng ta
nghe thấy bài đọc Thứ Hai trích từ Thư Thứ Hai của Thánh Phaolô gửi giáo đoàn
Thessalônica nói rằng: “Về vấn đề Chúa Giêsu Kitô đến và việc chúng ta qui tụ
lại với Người, hỡi anh em, chúng tôi van xin anh em đừng có động một tí th́ bấn
loạn lên hay tỏ ra run sợ, khi nghe thấy có lời tiên báo hay tin đồn hoặc thư
mạo danh chúng tôi mà tin rằng ngày của Chúa tới nơi rồi”.
Qua đoạn Thánh Thư này, chúng ta thấy, ở thời nào cũng vậy, từ thời Giáo Hội sơ
khai tới nay, Kitô hữu chúng ta hầu như cảm thấy và tỏ ra rùng rợn về Ngày Chúa
đến cũng được gọi là ngày tận thế. Thế nhưng, bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này cho
chúng ta thấy Chúa đến là để cứu độ chứ không phải trừng phạt: “Con Người đến để
t́m kiếm và cứu độ những ǵ đă hư mất”. Lời Người quả quyết với viên trưởng ban
thu thuế lùn Giakêu này chỉ lập lại lời Người đă minh định với viên chức
Nicôđêmô thuộc phái Pharisiêu trong Hội Đồng Do Thái đă đến gặp Người ban đêm
trong Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 3 câu 17, đó là: “Thiên Chúa không sai Con xuống
thế gian để luận phạt thế gian song để thế gian nhờ Người mà được cứu độ”.
Vẫn biết là như vậy. Vẫn biết là lần đầu Chúa đến thế gian không phải để phán
xét, thế nhưng, theo như Kinh Tin Kính chúng ta vẫn tuyên xưng, vào lần Chúa đến
sau này, lần Người đến cuối cùng, chính là để Người “phán xét kẻ sống và kẻ chết”.
Chân lư đức tin này cũng đă được chính Người mạc khải trong Phúc Âm Thánh Mathêu
cho thấy ở đoạn 25 từ câu 31 đến câu 46 về việc Người phân chiên và dê trong
ngày chung thẩm.
Đúng thế, về h́nh thức, lần Chúa đến sau cùng vào ngày tận thế là lần Chúa đến
để phán xét, nhưng Chúa phán xét những ǵ và phán xét để làm ǵ, chúng ta vẫn
thấy hợp với những ǵ Người tuyên bố trong lần Người đến lần thứ nhất, như vừa
được trích dẫn trên đây, đó là Người đến để cứu độ chứ không phải để luận phạt.
Thành phần dê trong ngày chung thẩm sở dĩ bị luận phạt là v́, như Chúa Giêsu
khẳng định ngay sau câu Phúc Âm Thánh Gioan cùng đoạn trên đây, đó là: “Ai tin
vào Người th́ khỏi bị luận phạt, c̣n ai không tin th́ đă bị luận phạt rồi, v́
không tin vào danh Con Thiên Chúa duy nhất. Phán quyết luận phạt là thế này”,
Chúa Giêsu cho biết lư do như sau: “đó là ánh sáng đă đến trong thế gian, song
con người đă chuộng tối tăm hơn ánh sáng, v́ các việc họ làm đều là những việc
gian ác”.
Như thế, qua lời Chúa Giêsu ở đây, rơ ràng là con người tự luận phạt ḿnh khi
không chịu tin vào Người, đó là lư do họ “đă bị luận phạt rồi”, ngay lúc họ
không chịu tin Người, chứ không cần phải đợi cho tới khi Chúa đến lần sau hết
nữa. Đó cũng là lư do, trong Thư gửi Giáo Đoàn Do Thái, ở đoạn 9 câu 28, Vị Tông
Đồ Dân Ngoại mới khẳng định là “Chúa Kitô xuất hiện lần thứ hai không phải để
xóa bỏ tội lỗi mà là để mang ơn cứu độ đến cho những ai thiết tha trông đợi
Người”. Bởi thế, chúng ta mới hiểu được lư do tại sao khi đến thế gian vào ngày
tận thế, Chúa Giêsu mới phán xét con người về đức tin của họ, xem con người có
thật sự tin vào Người như Người đă tỏ ḿnh ra cho họ vào lần đến thứ nhất hay
chăng, “ai tin … sẽ được cứu độ c̣n ai không tin sẽ bị luận phạt” (Mk 16:16).
Như thế, rơ ràng là chủ ư của Chúa Kitô đến thế gian lần thứ hai cũng là để cứu
độ chứ không phải để luận phạt. Tuy nhiên, vấn đề vẫn có thể được đặt ra là: tại
sao Phúc Âm Thánh Mathêu cho thấy trong ngày chung thẩm Chúa Giêsu phán xét về
đức bác ái, chứ đâu phải về đức tin?
Thật ra, nếu “xem quả th́ biết cây”, như Chúa Giêsu phán ở Phúc Âm Thánh Mathêu
đoạn 7 câu 20, th́ Người chỉ cần phán xét hoa trái bác ái của con người là biết
ngay cây đức tin của họ ra sao thôi. Không phải hay sao, trong ngày chung thẩm,
trước ngai Đấng phán xét chung, cả hai thành phần chiên và dê đều trả lời với
Người rằng “chúng tôi đâu có thấy Ngài đói khát, xa lạ, trần truồng, tù tội hay
yếu đau mà đáp ứng những ǵ Ngài cần” (Mt 25: 44, xem cả 37-39)?
Thế mà, dù không thấy Người, thành phần chiên vẫn làm, c̣n thành phần dê th́
không, như trường hợp của người phú hộ đối với Lazarô cùng cực trong dụ ngôn
cách đây sáu tuần. Như vậy, không phải là thành phần chiên làm việc bác ái theo
đức tin mănh liệt của ḿnh hay sao, như trường hợp người Samaritanô nhân lành
hết ḷng ra tay cứu giúp nạn nhân xa lạ đang ngấp ngoái chết v́ bị cướp bóc dọc
đường trong dụ ngôn Chúa Nhật 15 cách đây 16 tuần? “Chúa Kitô xuất hiện lần thứ
hai không phải để xóa bỏ tội lỗi mà là để mang ơn cứu độ đến cho những ai thiết
tha trông đợi Người” là như thế.
Tuy nhiên, một vấn đề nữa cũng được đặt ra ở đây là làm sao con người có thể tin
tưởng để được cứu độ, nghĩa là làm sao con người có thể nhận biết Chúa Kitô để
được cứu độ? Và nếu Chúa Kitô thực sự đến cứu độ con người, như chính Người đă
khẳng định với viên chức Pharisiêu Nicôđêmô, nhất là với viên trưởng ban thu
thuế Giakêu lùn trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này: “Con Người đến để t́m kiếm
và cứu độ những ǵ đă hư mất”, th́ càng tội lỗi, nghĩa là càng không có đức tin
hay yếu đức tin, con người càng cần phải đến với Đấng là Cứu Chúa của ḿnh, chứ
tại sao lại tỏ ra sợ hăi Đấng đến cứu độ ḿnh, như thái độ của Kitô hữu giáo
đoàn Thessanôlica trong bài đọc hai hôm nay?
Trước hết, về vấn đề con người làm sao để có đức tin, hay để có thể nhận biết
Cứu Chúa của ḿnh, nhờ đó họ mới được cứu độ, v́ tự ḿnh, họ vốn có khuynh hướng,
như Chúa Giêsu nhận định và quả quyết với Nicôđêmô trong Phúc Âm Thánh Gioan
đoạn 3 câu 19: “Con người chuộng tối tăm hơn ánh sáng”. Tuy nhiên, chính trong
lúc loài người “c̣n ngồi trong tối tăm và trong bóng sự chết” như thế, như lời
tư tế Giacaria, thân phụ của Thánh Gioan Tẩy Giả, tuyên nhận trong bài ca vịnh
mở miệng lưỡi của ông ở Phúc Âm Thánh Luca đoạn 1 câu 79, mà “ánh sáng đă chiếu
trong tăm tối, một thứ tăm tối không át được ánh sáng”, như Phúc Âm Thánh Gioan
chân nhận ở đoạn 1 câu 5.
Đó là lư do trong Phúc Âm Thánh Gioan ở đoạn 5 câu 24, 25 và 28, Chúa Giêsu đă
tuyên bố với những người Do Thái đang có ư định giết Người như thế này: “Tôi bảo
thật cho các người biết, ai nghe lời Tôi mà tin vào Đấng đă sai Tôi th́ có sự
sống đời đời. Họ không bị luận phạt, song vượt qua sự chết vào sự sống. Tôi bảo
thật cho các người biết, giờ đang đến, mà thật sự đă đến rồi, lúc mà kẻ chết
nghe thấy tiếng của Con Thiên Chúa và ai lắng nghe th́ được sống… Các người đừng
có lấy làm lạ lùng bỡ ngỡ là giờ đang đến đây, tất cả những ai đang ở trong mồ
mà nghe thấy tiếng của Người th́ bước ra”.
Vậy thành phần “kẻ chết” đây, thành phần “đang ở trong mồ mà nghe thấy tiếng của
Người th́ bước ra” đây là ai, nếu không phải, một Lazarô chết thối bốn ngày, như
được Phúc Âm Thánh Gioan thuật lại ở đoạn 11 câu 43 và 44, một trường hợp sống
lại về phần xác tiêu biểu hết sức sống động và cụ thể cho trường hợp sống lại về
phần hồn, điển h́nh nhất là trường hợp của viên trưởng ban thu thuế Giakêu lùn
trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này.
Tuy nhiên, tại sao Giakêu lại có thể “đang ở trong mồ mà nghe thấy tiếng của
Người th́ bước ra” được một cách dễ dàng như thế, c̣n những “kẻ chết” khác th́
không được như vậy hay chưa được như ông, chẳng hạn như những người thấy Chúa
Giêsu vào nhà của viên trưởng ban thu thuế này, theo Phúc Âm hôm nay thuật lại,
“bắt đầu lẩm bẩm với nhau rằng: ‘Hắn vào nhà của một kẻ tội lỗi như một vị khách’”?
Không phải hay sao, chỉ v́ Giakêu, hiện thân đích thực của người thu thuế trong
dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện tuần trước, chân nhận ḿnh là một kẻ
tội lỗi đáng thương, một con người tật nguyền bệnh nạn, một con người cần đến
thày thuốc, c̣n những người lẩm bẩm trong bài Phúc Âm hôm nay th́ không, v́ họ
tự cho ḿnh là kẻ công chính, thành phần lành mạnh không cần đến thày thuốc,
không cần đến Đấng tuyên bố “Tôi đến để kêu gọi tội nhân chứ không phải những ai
cho ḿnh là công chính”, trong Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 9 câu 13, đoạn Người
kêu gọi viên thu thuế Mathêu theo Người nên đă bị nhóm Pharisiêu chê trách.
Chính v́ thế Giakêu đă không sợ Vị Cứu Chúa của ḿnh, trái lại, c̣n mong gặp
Người là đàng khác. Đến nỗi, theo Phúc Âm hôm nay thuật lại, v́ lùn, ông đă phải
leo lên cây để có thể nh́n thấy Người, chiêm ngưỡng Người, cho đến khi được
Người gọi đích danh của ông và ngỏ ư muốn vào nhà ông, ông liền vui mừng hớn hở,
chứ không v́ thấy ḿnh tội lỗi xấu xa mà e thẹn hay sợ sệt trong việc ngại ngùng
đón tiếp Người.
Chính v́ “ai có ḷng khao khát nhân đức trọn lành ấy là phúc thật, v́ chưng sẽ
được no thỏa vậy”, như mối Phúc Đức thứ bốn Chúa Giêsu dạy trong bài Giảng Trên
Núi được Phúc Âm Thánh Mathêu ghi lại ở đoạn 5 câu 6, mà Giakêu đă được Chúa
Giêsu cho biết trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này là: “Hôm nay ơn cứu độ đă
đến với nhà này” hay “Hôm nay nhà này đă được ơn cứu độ” cũng thế.
Tóm lại, câu truyện về người trưởng ban thu thuế trong bài Phúc Âm Chúa Nhật
tuần này cho chúng ta thấy một số chân lư sau đây:
Chân lư thứ nhất đó là con người dù tội lỗi đến mấy chăng nữa, tự thâm tâm, vẫn
khát khao và t́m kiếm sự thật khi có thể, như trường hợp của người trưởng ban
thu thuế Giakêu, hiện thân cho hạng người tội lỗi trong xă hội Do Thái thời bấy
giờ, qua việc ông t́m cách để được nh́n thấy Chúa Giêsu, nh́n thấy chính sự thật
mà ông vẫn nghe thấy tiếng tăm lừng lẫy.
Chân lư thứ hai đó là mối phúc đức thứ bốn trong Bài Giảng Trên Núi của Chúa
Giêsu trong Phúc Âm Thánh Mathêu (5:6): “Ai có ḷng khao khát ấy là phúc thật,
v́ chưng sẽ được no thỏa vậy”, như trường hợp của người trưởng ban thu thuế
Giakêu đă được Chúa Giêsu là sự sống tự ngỏ ư muốn đến thăm nhà của một con
người tội lỗi khao khát muốn gặp Người.
Chân lư thứ ba đó là điều được Chúa Giêsu khẳng định ở cuối bài Phúc Âm: “Con
Người đến t́m kiếm và cứu chữa điều ǵ đă hư nát”, như trường hợp của một con
người thu thuế tội lỗi như Giakêu, một con người vừa ngỏ ư muốn gặp Người là
Người tỏ ḿnh ra cho ngay, là được gặp Người ngay.
Chân lư thứ bốn đó là ai được Chúa ở cùng th́ liền được biến đổi, được canh tân,
như trường hợp người trưởng ban thu thuế Giakêu, một con người đă thật sự hết
t́nh tỏ ḷng thống hối ở chỗ muốn đền bồi lại gấp bốn lần tất cả những ǵ hay
bất cứ điều ǵ ông đă làm thiệt hại cho bất cứ một ai trong khi hành nghề thu
thuế liên quan đến vấn đề gian lận tiền bạc của ông. Đó là lư do ở câu kết thúc
bài Phúc Âm Chúa Giêsu đă phán “hôm nay nhà này được ơn cứu độ”.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
G I A K Ê U
“Giakêu hăy xuống mau. Hôm nay tôi muốn lưu lại nhà ông” (Lc 19:5).
Thế là lại một lần nữa, Chúa Giêsu sẽ bị mang tiếng xấu là giao du, thân mật, và
bạn bè với những bọn tội lỗi. V́ làm ǵ mà đến nỗi mà phải xin đến nghỉ ở nhà
một người vốn được tiếng là chẳng ra ǵ trong xă hội như Giakêu. Hay là Chúa cần
tiền. Cần một bữa ăn ngon. Cần một nơi nghỉ ngơi thoải mái.
Nhưng sự giầu có, sang trọng của một người như Giakêu th́ có thấm tháp ǵ với
nguồn phú túc và vinh quang của thế gian này, là những thứ được tạo dựng nên do
bàn tay của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đă chẳng từng bị ma quỉ cám dỗ biến đá thành
bánh, th́ Ngài cần ǵ bữa ăn ngon của Giakêu. Và ngôi biệt thự sang trọng của
Giakêu làm sao có thể thu hút được người như Chúa, một người đă từng tuyên bố:
“Cáo có hang, chim trời có tổ, con người không có chỗ dựa đầu” (Lc 9:58). Tóm
lại, những thứ người đời tưởng chừng hấp dẫn ấy của Giakêu, không thể thu hút
được sự chú ư của Chúa Giêsu. Ngài chỉ có một chủ ư là muốn chinh phục ông, cũng
như chinh phục mọi người, dù là những người tội lỗi nhất.
Trong cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và Giakêu, điều khiến chúng ta phải chú ư nhất,
đó là sau khi cảm nhận được sự quan tâm và t́nh thương mà Thiên Chúa đă danh cho
ḿnh, Giakêu đă công khai xác nhận tội lỗi ḿnh và thành tâm xám hối: “Nếu tôi
có làm thiệt hại ai điều ǵ, tôi xin đền gấp bốn” (Lc 19:8). Hành động xám hối
bất ngờ ấy, cũng giống như Maria đă đập bể b́nh bạch ngọc quí giá, để cho chẩy
ra những giọt dầu thơm hảo hạng xức chân Chúa sau khi được Ngài giải thoát cho
khỏi bẩy quỉ, chỉ xẩy ra đối với những cảm nhận xâu xa và do t́nh yêu mến, kính
trọng dành cho Thiên Chúa.
Có lẽ khi nghe câu truyện về sự hội ngộ giữa Chúa Giêsu và Giakêu, nhiều người
trong chúng ta cũng lấy làm tiếc. Phải chi Chúa Giêsu ghé mắt nh́n đến ḿnh một
lần cũng là măn nguyện lắm rồi. Hoặc giả, nếu Chúa lên tiếng muốn nghỉ đêm trong
nhà ḿnh dù chỉ là một lần thôi th́ c̣n ǵ vinh hạnh cho bằng. Nghĩ như vậy, nên
chúng ta thường có thái độ và lối sống hoàn toàn trái ngược với luân lư và đạo
đức hơn cả Giakêu trước khi chưa gặp Chúa. Chúng ta cũng ngoại t́nh, cũng gian
dâm, cũng làm chứng gian, cũng nói dối, cũng lường gạt thể xác, tinh thần và
tiền của người này, người khác, và cũng mánh mung, gian lận, hoặc kiêu căng, tự
phụ.
Nhưng có thật là trong đời chúng ta, chúng ta chưa một lần được nghe tiếng Chúa,
hay chưa một lần được Ngài ghé thăm?
Thánh Kinh mà chúng ta đọc hằng ngày, hàng tuần chẳng phải là tiếng Chúa nói với
chúng ta sao? Những biến cố sẩy ra trong cuộc sống và xẩy ra ngoài cuộc sống
chẳng phải là những tiếng nói của Thiên Chúa muốn nhắn nhủ đó sao? Trong cuộc
đời chúng ta, chẳng lẽ không một lần chúng ta được cứu thoát qua cơn hiểm nghèo
trong đường tơ, kẽ tóc? Hoặc chúng ta chưa một lần được hưởng một niềm vui thật
bất ngờ? Những trường hợp ấy là ǵ, nếu không phải là những tiếng Chúa muốn nói
với mỗi người chúng ta?
Chúng ta nghĩ ǵ mỗi lần ḿnh được rước Thánh Thể. Những lúc ấy, Chúa Giêsu
không những đến với chúng ta, và c̣n hơn Giakêu, Chúa đă tan và trở thành của
nuôi linh hồn và thân xác chúng ta. Như vậy, sao lại nói rằng chúng ta không một
lần được Chúa ghé thăm như trường hợp của Giakêu.
Nhưng cái khó là Chúa đă không t́m được nhiều người như Giakêu để tâm sự và nghỉ
ngơi trong nhà họ. Thích được Chúa đến thăm, nhưng không phải ai cũng sẵn sàng
chia sẻ một nửa gia tài của ḿnh cho kẻ nghèo. Không phải ai cũng sẵn sàng đền
trả gấp bốn những lỗi lầm ḿnh đă xúc phạm đến người này, người khác nhân danh
Chúa và v́ mến yêu Chúa như Giakêu. V́ chỉ cần một số ít hành động như Giakêu
th́ thế giới này đă bớt đi rất nhiều người nghèo khổ. Và những tiếng than van,
ai oán của những kẻ thấp cổ, bé miệng bị bóc lột và đối xử bất công sẽ vắng dần
trên mặt đất.
Điều gây ngạc nhiên trong cuộc hội ngộ giữa Chúa Giêsu và Giakêu, là Giakêu chỉ
v́ ṭ ṃ, đón đường muốn thử nh́n xem con người mang tên Giêsu mà thiên hạ vẫn
thường đồn đại như thế nào. Nhưng Chúa Giêsu th́ đă không ṭ ṃ, mà thực sự muốn
gặp mặt Giakêu, v́ thế, trong khi Giakêu c̣n chưa nh́n xem rơ mặt Ngài như thế
nào, và chưa kịp phản ứng ǵ, th́ Chúa Giêsu đă lên tiếng gọi ông: “Giakêu xuống
mau, v́ hôm nay tôi muốn lưu lại nhà ông” (Lc 19:5). Và v́ được Chúa mời gọi,
nên Giakêu đă đổi thái độ từ ṭ ṃ qua kính trọng, và từ kính trọng qua yêu mến.
Đây là cốt lơi của những lần gặp gỡ giữa chúng ta và Thiên Chúa, giữa Thiên Chúa
và con người.
Giakêu đă xuống khỏi cây vả để gặp gỡ Chúa. Chúng ta cũng phải xuống khỏi cây tự
ái, kiêu căng, tham lam, dục vọng, và quyền lực để gặp Ngài.
Giakêu đă dám xác nhận tội ḿnh khi gặp Chúa. Chúng ta cũng phải xét ḿnh và tự
vấn lương tâm mỗi khi nghe Chúa nói trong tâm hồn, cũng như qua những biến cố
đến từ bên trong và bên ngoài cuộc sống.
Giakêu đă xám hối, và thực hành xám hối bằng cách chia sẻ tài sản và đền trả
những người ông đă làm thiệt hại. Chúng ta cũng phải có những quyết tâm thực
hành, rơ ràng, và bằng hành động thực tế đối với những tài năng, của cải, và
thời giờ mà Thiên Chúa đă ban cho chúng ta.
Không thấy Thánh Kinh nói ǵ về việc Giakêu có đổi nghề sau khi gặp gỡ Chúa.
Hoặc sau khi chia gia tài cho người nghèo, và đền trả ṣng phẳng những món nợ
của ông th́ tài sản c̣n lại là bao nhiêu. Nhưng chúng ta có lư để tin rằng cuộc
sống của ông sẽ không giàu có như trước. Và cũng có thể là ông sẽ tự ư giải nghệ
để sinh sống bằng một nghề khác. Ông và gia đ́nh ông sẽ phải sống thanh bần hơn,
tần tiệm và chắt chiu hơn. Nhưng cũng qua hành động của ông và sự ưu ái mà Chúa
dành cho ông, chúng ta có lư để tin răng, ông sẽ sống một cuộc sống bằng an hơn,
và lương thiện hơn, mặc dù có nghèo, có khổ hơn trước. Tóm lại, dù bất cứ chuyện
ǵ xẩy ra cho Giakêu sau cuộc gặp gỡ với Chúa đi nữa, th́ ông cũng sẽ không bị
thiệt tḥi, v́ nếu ông có Chúa là ông có tất cả.
Trần Mỹ
Duyệt
|