Chúa Nhật

Ngày 14/3: Thánh Mathilda of Saxony (895-968)

Là vợ của Vua Henry the Fowler.

Sinh được 5 người con, trong đó có Thánh Bruno Tổng Giám Mục Cologne sau này.

Nổi tiếng khôn ngoan và sáng suốt.

Phục vụ thành phần nghèo nàn và khổ đau.

Thành lập một số đan viện và trường học.

 


CHÚA NHẬT III
MÙA CHAY-C

 

BÀI ĐỌC I: Ex 3:1-8a, 13-15
“Đấng hiện hữu sai tôi đến với anh em”

Bài trích sách Xuất Hành.

Trong những ngày ấy, Môisen chăn chiên cho ông nhạc là Giêtrô, tư tế xứ Mađian. Ông lùa đoàn chiên qua sa mạc, đến núi Horeb là núi của Thiên Chúa. Thiên Chúa hiện ra với ông trong ngọn lửa cháy từ giữa bụi gai. Ông nh́n thấy bụi gai bốc lửa, nhưng không bị thiêu rụi. Môisen nói: “Ta hăy lại xem cảnh tượng kỳ lạ này, v́ sao bụi gai không bị thiêu rụi”. Thiên Chúa thấy ông lại xem, từ giữa bụi gai Người gọi ông: “Môisen, Môisen”. Ông thưa: “Dạ tôi đây!” Chúa nói: “Ngươi đừng đến gần đây, hăy cởi dép ở chân ra, v́ chỗ ngươi đang đứng là nơi thánh”. Chúa lại nói: “Ta là Thiên Chúa của Tổ phụ ngươi. Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacób”. Môisen che mặt, v́ không dám nh́n Thiên Chúa. Chúa nói: “Ta đă thấy dân Ta phải khổ cực ở Ai Cập. Ta đă nghe tiếng chúng kêu than kẻ đốc công áp bức. Ta biết nỗi đau khổ của chúng, nên Ta xuống cứu chúng thoát khỏi tay người Ai Cập và đưa ra khỏi đất ấy đến miền đất tốt tươi rộng lớn, đất tràn trề sữa và mật”. Môisen thưa với Thiên Chúa rằng: “Nầy tôi sẽ đến với con cái Israel và bảo họ: Thiên Chúa của tổ phụ anh em đă sai tôi đến với anh em”. Nếu họ hỏi tôi: “Tên Người là ǵ; Tôi sẽ nói sao với họ?” Thiên Chúa nói với Môisen: “Ta là Đấng tự hữu”. Chúa nói: “Ngươi sẽ bảo con cái Israel thế nầy: “Đấng tự hữu sai tôi đến với anh em”. Thiên Chúa lại nói với Môisen: “Ngươi sẽ bảo con cái Israel thế nầy: Thiên Chúa của tổ phụ anh em, Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacób sai tôi đến với anh em. Đó là danh Ta cho đến muôn đời, đó là danh Ta phải ghi nhớ qua mọi thế hệ”.

Lời của Chúa.


Đáp ca: (Xin mời Cộng đoàn thưa)
Chúa là Đấng từ bi và hay thương xót.

1.      Linh hồn tôi ơi, hăy chúc tụng Chúa, và toàn thể con người tôi, hăy chúc tụng danh Người. Linh hồn tôi ơi, hăy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của Người.

2.      Người đă thứ tha cho mọi điều sai lỗi, và chữa ngươi khỏi mọi tật nguyền. Người chuộc mạng ngươi khỏi chổ vong thân, Người đội đầu ngươi bằng măo từ bi, ân sủng.

3.      Chúa thi hành những sự việc công minh, và trả lại quyền lợi cho những người bị ức. Người tỏ cho Môisen được hay đường lối, tỏ công cuộc Người cho con cái Israel.

4.      Chúa là Đấng từ bi và hay thương xót, chậm bất b́nh và hết sức khoan nhân. Nhưng cũng như trời xanh cao vượt trên trái đất, ḷng nhân Người c̣n siêu việt hơn thế trên kẻ kính sợ Người.


BÀI ĐỌC II: 1 Cor 10:1-6, 10-12
“Đời sống dân chúng đối với Môisen trong hoang địa được viết ra để răn bảo chúng ta”

Bài trích thơ thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, tôi không muốn để anh em không hay biết điều này là tất cả cha ông chúng ta đă được ở dưới áng mây, đi ngang qua biển và tất cả nhờ Môisen mà được thanh tẩy, dưới áng mây và trong ḷng biển, tất cả đă ăn cùng một thức ăn thiêng liêng, và uống cùng một thức uống thiêng liêng, thật vậy, tất cả đă uống nước phát xuất từ tảng đá thiêng liêng đi theo họ: tảng đá ấy chính là Chúa Kitô. Tuy nhiên, không phải phần đông trong họ đă sống đẹp ḷng Chúa, v́ họ đă bị gục ngă trong hoang địa. Bao nhiêu sự kiện đó nêu gương cho chúng ta, để chúng ta đừng chiều theo những dục vọng xấu xa như những người đó đă chiều theo. Anh em đừng lẩm bẩm kêu trách như một số người trong bọn họ đă làm, và đă vong mạng bởi tay một sứ thần hủy diệt. Những việc đó đă xẩy đến cho họ để làm gương, và đă được ghi chép để răn bảo chúng ta, là những người đang sống trong thời đại cuối cùng. Thế nên, ai tưởng ḿnh đang đứng vững, hăy ư tứ kẻo ngả.

Lời của Chúa.


CÂU XƯỚNG TRƯỚC PHÚC ÂM: (Xin mời Cộng đoàn đứng)
Nầy là lúc thuận tiện, nầy là ngày cứu độ.


PHÚC ÂM: Lc 13:1-9
“Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, th́ tất cả các ngươi cũng sẽ bị hủy diệt như vậy”

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, có những kẻ thuật lại cho Chúa Giêsu về việc quan Philatô giết mấy người Galilê, làm cho máu họ ḥa lẫn với máu các vật họ tế sinh. Ngài lên tiếng bảo: “Các ngươi tưởng rằng mấy người xứ Galilê bị ngược đăi như vậy là những người tội lỗi hơn tất cả những người khác ở xứ Galilêa ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế. Nhưng nếu các ngươi không ăn năn hối cải, th́ tất cả các ngươi cũng sẽ bị hủy diệt như vậy. Cũng như mười tám người bị tháp Silôe đổ xuống đè chết, các ngươi tưởng họ tội lỗi hơn những người khác ở Giêrusalem ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế, nếu các ngươi không ăn năn hối cải, th́ tất cả các ngươi cũng sẽ bị hủy diệt như vậy”. Ngài c̣n nói với họ dụ ngôn này: “Có người trồng một cây vả trong vườn nho ḿnh. Ông đến t́m quả ở cây đó mà không thấy, ông liền bảo người làm vườn rằng: ḱa, đă ba năm nay ta đến t́m quả cây vả này mà không thấy có. Anh hăy chặt nó đi, c̣n để nó choán đất làm ǵ!” Nhưng anh ta đáp rằng: “Thưa ông, xin để cho nó một năm nay nữa, tôi sẽ đào đất chung quanh và bón phân: may ra nó có quả chăng, bằng không năm tới ông sẽ chặt nó đi”.

Phúc Âm của Chúa
 

SUY NIỆM

C Â Y   V Ả
 

Trần Mỹ Duyệt
 

Mới thoạt nghe hoặc đọc qua trích đoạn Tin Mừng của Chúa Nhật tuần này, ta có cảm tưởng như không ăn nhập ǵ với trích đoạn Tin Mừng của Chúa Nhật tuần trước. Một đàng tả cảnh Chúa Giêsu uy nghi, sáng láng và hiển lộ trên núi cao. Và một đàng diễn lại cảnh mấy người Galiê bị Philatô giết, hoặc 18 người bị tháp Silôe đổ xuống đè chết. Và nhất là h́nh ảnh một cây vả không sinh trái bị ông chủ định cho chặt bỏ.

Nhưng nếu đem những h́nh ảnh và biến cố ấy đặt vào ư nghĩa của Mùa Chay, mùa suy niệm về cuộc Khổ Nạn và chuẩn bị đón mừng sự Phục Sinh của Chúa Giêsu, ta lại thấy những so sánh này có nhiều ư nghĩa. Chúa Giêsu đó, uy nghi và cao cả, nhưng v́ t́nh thương vô biên, Ngài đă chấp nhận cực h́nh, và chịu chết một cách tức tưởi cho con người tội nhân, hư hỏng, và không sinh được hoa trái nào trước mặt Thiên Chúa.

Nếu dụ ngôn cây vả được diễn tả bằng ngôn ngữ tự nhiên của con người, th́ ta có thể nói rằng, ông chủ vườn này là người thích ăn trái vả, nên ông đă cẩn thận lựa giống vả tốt để trồng. Rất tiếc năm này qua năm khác, chờ măi mà không thấy cây vả của ḿnh sinh hoa kết trái. Và v́ là một người thực tế, nên ông đă muốn chặt nó đi để trồng cây khác. Nhưng người làm vườn không nỡ nh́n thấy cây vả bị chặt bỏ, nên đă nói với ông chủ: “Thưa ông, xin để cho nó một năm này nữa, tôi sẽ đào đất chung quanh và bón phân; may ra nó có quả chăng, bằng không năm tới ông sẽ chặt nó đi” (Luc 13:8-9).

Trong nhăn quan siêu nhiên, th́ cây vả đây không ǵ khác hơn là h́nh ảnh mỗi Kitô hữu chúng ta. Chúng ta được Thiên Chúa yêu thương và rất mực săn sóc như người chủ vườn thích ăn trái vả và đă cố ư trồng một cây vả để đem lại trái ngon cho ḿnh. Do sự yếu đuối, do những cám dỗ, chúng ta đă sai lỗi, đă không đem lại những hoa trái thiêng liêng về cho Thiên Chúa, cũng như cây vả trồng măi mà không sinh trái. Chúng ta đáng bị Thiên Chúa loại bỏ.

Nhưng rồi nhờ có người làm vườn, là Chúa Giêsu, đă đứng ra bảo lănh cho mà chúng ta không bị loại bỏ. Cũng như người làm vườn, muốn cứu nguy cây vả đă phải đào đất, tưới bón, Chúa Giêsu v́ muốn cứu lấy tất cả mọi người chúng ta khỏi bị hư đi đă nghĩ ra một cách hết sức táo bạo, đó là lấy chính máu ḿnh để tưới và lấy thân xác ḿnh làm phân bón cho cây vả mỗi người chúng ta. H́nh ảnh được t́m thấy qua cái chết ghê gớm của những người bị Philatô luận xử, cũng như những người bị tháp Silôe đè xuống chính là h́nh ảnh Chúa Giêsu sau này cũng bị Philatô luận xử. Ngài đă bị đè bẹp bởi đức công bằng của Thiên Chúa, do tội lỗi nhân loại qua cây thập tự giá.

Nhưng thông thường, khi một cây được trồng theo đúng cách thức, được chăm nom và tưới bón th́ sẽ sinh hoa trái. Đó cũng là lư do tại sao người làm vườn đă năn nỉ ông chủ khoan chặt cây vả v́ hy vọng rằng với sự chăm sóc của ḿnh, cây vả qua năm sẽ có trái. C̣n chúng ta, chúng ta phải nghĩ ǵ sau bao năm được tưới gội bằng ân sủng qua những Bí Tích Thánh của Chúa, được nuôi dưỡng bằng Ḿnh và Máu Thánh Người, chúng ta đă thấy ḿnh sinh được những hoa trái thiêng liêng nào chưa. Hay rồi cũng vẫn bắt Thiên Chúa phải chờ măi hết năm này, qua năm khác.

Nếu Mùa Chay là mùa ăn năn, trở về cùng Thiên Chúa, th́ cũng là cơ hội để chúng ta nh́n lại phần tâm linh của ḿnh, và tự hỏi, ḿnh đă làm ǵ để sinh lợi cho Chúa chưa. Nếu chưa, th́ đây chính là thời gian thuận tiện nhất để làm việc đó. V́ không ai muốn rằng sẽ có một ngày ḿnh sẽ phải ân hận mà than thỡ rằng: “Thôi đă hết rồi, cơ hội tốt đă đi qua và không bao giờ trở lại”. Và lúc đó cũng là lúc chủ vườn sẽ chặt bỏ cây vả vô tích sự, ăn cớm đất, và chật vườn.

 

 

Càng Thánh Thiện Càng Cần Phải Cải Thiện


 

Theo ư nghĩa Mùa Chay, Chúa Nhật Thứ Ba Mùa Chay mới thực sự là Chúa Nhật Giáo Hội muốn kêu gọi con cái ḿnh ăn năn cải thiện đời sống qua các bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc. Hai Chúa Nhật trước, hai Chúa Nhật mở màn cho Mùa Chay 6 tuần lễ, Giáo Hội cho chúng ta thấy hai mầu nhiệm tương phản của Chúa Kitô, một Chúa Kitô chay tịnh khổ hạnh ở Chúa Nhật Thứ Nhất và ngay sau đó là một Chúa Kitô biến h́nh vinh hiển trên núi cao ở Chúa Nhật thứ hai. Giáo Hội có ư đặt hai mầu nhiệm này gần nhau là để cho Kitô hữu thấy được Linh Đạo Vượt Qua của ḿnh, một linh đạo cho thấy ư nghĩa và giá trị cũng như đích điểm của việc bỏ ḿnh và cải thiện đời sống của Kitô hữu. Đối với Kitô giáo và tinh thần Chúa Kitô th́ bỏ ḿnh không phải là tự diệt mà là để sinh hoa trái, để có thể lâm bồn sinh con. Đó là lư do trong bài Phúc Âm Chúa Nhật Thứ Ba Mùa Chay Năm C tuần này, sau khi nói đến việc cần phải ăn năn hối cải, Chúa Giêsu nói đến dụ ngôn cây vả cần phải sinh hoa kết trái, bằng không sẽ bị đốn đi. Bài Phúc Âm Chúa Nhật III Mùa Chay Năm C tuần này thuật lại việc Chúa Giêsu dạy con người phải lợi dụng những sự dữ xẩy ra cho người khác như dịp tốt để tự kiểm điểm bản thân mà cải thiện đời sống cho tốt lành hơn.

Đó là lư do, bài Phúc Âm cho chúng ta thấy Chúa Giêsu đă thẳng thắn bảo cho thành phần đến thuật vụ Philatô sát hại một số người Galilê biết rằng họ đă có một mặc cảm hay tâm tưởng tự măn hoàn toàn sai lầm và hết sức nguy hiểm. Ở chỗ, họ cho rằng không có lửa làm sao có khói, tức là những người gặp hoạn nạn như thế là do bởi tội lỗi của những người ấy, mà họ không gặp hoạn nạn như những người ấy tức là họ không có tội lỗi như những nạn nhân ấy, và một khi không có lỗi, không phạm tội đến nỗi cần phải lănh chịu một hậu quả như thế, th́ họ không cần phải cải thiện, không cần phải ăn năn hối cải!

Theo chiều hướng của bài Phúc Âm hôm nay và căn cứ vào những lời Chúa Giêsu dạy ở phần thứ hai của bài Phúc Âm này th́ thành phần không gặp hoạn nạn khốn khổ chưa chắc đă tốt lành hơn những nạn nhân trong cuộc, bởi thế, ai cũng cần phải cải thiện đời sống.

Mà việc cải thiện đời sống không phải chỉ là một nhu cầu tiêu cực, ở chỗ tránh tội hay giữ ḿnh không phạm tội là đủ, mà là một nhu cầu tích cực, ở chỗ sống trọn lành hơn, qua việc sinh hoa kết trái, qua việc chẳng những lánh dữ mà c̣n làm lành, làm những việc bác ái yêu thương, điển h́nh như việc làm phúc bố thí chẳng hạn (x Is 58:6-7).

V́ cải thiện đời sống ở tại chỗ sinh hoa kết trái, ở chỗ sống bác ái yêu thương chứ không phải chỉ ở chỗ ăn chay, hy sinh, hăm ḿnh, cầu nguyện, bởi thế như cây vả xum xuê sẽ bị đốn đi v́ không sinh hoa kết trái thế nào, con người ta cũng bị trừng phạt như thế, như trường hợp được Chúa Giêsu nêu lên làm gương trong dụ ngôn người đầy tớ đem chôn nén bạc của ḿnh không chịu sinh lời cho chủ (x Mt 25:24-28).

Tuy nhiên, việc cải thiện đời sống là một việc khó chứ không phải dễ, cần phải có thời gian. Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi sự nên thông cảm với con người bất toàn và yếu đuối về điều này. Đó là lư do thái độ nhẫn nại của Thiên Chúa và thời gian nhẫn nại của Ngài là để chờ con người sinh hoa kết trái vậy, đúng như phần cuối của bài Phúc Âm hôm nay cho thấy.

Vấn đề Tội Lỗi và Trừng Phạt

Những ǵ Chúa Giêsu phán dạy trong bài Phúc Âm hôm nay liên quan đến căn nguyên làm cho con người không chịu ăn năn hối cải và v́ thế họ đáng bị trừng phạt, một thứ trừng phạt không bởi Chúa vô cùng từ bi nhân ái, mà là bởi chính họ tự gây ra và chuốc lấy cho ḿnh.

Thật vậy, kính thưa quí vị, tất cả những ǵ bất hạnh xẩy ra cho con người ta trên trần gian này nói chung, nhất là cho thân xác con người nói riêng, cả về thiên tai, như vụ tháp Siloê đổ xuống chết người, hay về nhân tai, như vụ Philatô sát hại dân chúng, theo nguyên tắc chung, đều là sự dữ thể lư, những sự dữ bởi nguyên tội mà ra, thế nhưng, trên thực tế, những sự dữ ấy lắm khi không hẳn hay hoàn toàn không phải bởi tội lỗi của thành phần nạn nhân. Đúng thế, những sự dữ về nhân tai lắm khi không hẳn bởi tội lỗi của nạn nhân, chẳng hạn như trường hợp họ bị Philatô giết oan; và những sự dữ về thiên tai hoàn toàn không phải bởi tội lỗi của nạn nhân, chẳng hạn như trường hợp họ bị tháp Siloe đè chết. Trái lại, những sự dữ con người phải chịu, điển h́nh là trường hợp của người bị mù từ thuở mới sinh, như Chúa Giêsu khẳng định với các tông đồ trong Phúc Âm Thánh Gioan ở đoạn 9 câu 3: “Không phải bởi tội lỗi của anh ta hay của cha mẹ anh ta mà là để cho việc Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh ta”. Chính v́ thế, trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu mới nhấn mạnh với thành phần thuật lại cho vụ Philatô sát hại ấy người Galilê rằng: “Quí vị đừng tưởng mấy người xứ Galilê bị ngược đăi như vậy là những người tội lỗi hơn tất cả những người khác ở xứ Galilê?” Thế rồi lợi dụng dịp này, Người khuyên bảo họ: “Tôi cho quí vị hay, không phải thế đâu. Nhưng nếu quí vị không ăn năn hối cải, th́ tất cả quí vị cũng sẽ bị hủy diệt như vậy”.

Đúng thế, nếu sự dữ tạm thời ở trên đời này (như về nhân tai) không hẳn do bởi tội lỗi của nạn nhân, và lại càng hoàn toàn không phải (như về thiên tai) bởi tội lỗi của cá nhân thành phần nạn nhân, th́ sự dữ muôn đời muôn kiếp là t́nh trạng bi hư đi trong hỏa ngục, một sự dữ trên hết mà chúng ta hằng xin Chúa cứu chúng ta thoát khỏi ở câu kết trong Kinh Lạy Cha: “Nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ”, chính là do bởi tội lỗi của mỗi một người. Chính v́ thế, h́nh ảnh của thành phần hư đi được Chúa Giêsu diễn tả 6 lần Phúc Âm Thánh Mathêu (8:12; 13:42, 50; 22:13; 24:51; 25:30), và 1 lần trong Phúc Âm Thánh Luca ở đoạn 13 câu 28, đó là thành ngữ: “khóc lóc và nghiến răng”. Sở dĩ thành phần bị hư đi đời đời “khóc lóc” v́ vô cùng khổ đau, ở chỗ không đạt được cùng đích vĩnh cửu của ḿnh là Thiên Chúa Hằng Sống Vô Cùng Thiện Hảo; và sở dĩ họ “nghiến răng” là v́ họ tự trách ḿnh, như con người khi c̣n sống bị lương tâm cắn rứt khi làm điều ǵ sai trái vậy. T́nh trạng bị hư đi đời đời này, theo ư nghĩa của lời Chúa Giêsu nói hai lần trong đoạn 9 của bài Phúc Âm hôm nay, một ở câu 3 và câu 5, đó là t́nh trạng “bị hủy diệt”, một t́nh trạng bị hủy diệt chẳng những linh hồn mà cả thân xác nữa, như Chúa Giêsu khẳng định trong Phúc Âm Thánh Mathêu ở đoạn 10 câu 28: “Các con đừng sợ những người chỉ giết được thân xác mà không sát hại được linh hồn, song hăy sợ Đấng có quyền hủy diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục”.

Ngày nay người ta có khuynh hướng không tin có hỏa ngục, một là v́ họ chấp nhận thuyết đầu thai luân hồi, hai là v́ họ không tin tưởng thần linh và đời sau theo chủ thuyết vô thần duy vật, ba là v́ vị họ tin vào Thiên Chúa là T́nh Yêu nên Ngài không thể nào lại nỡ trừng phạt con cái ḿnh đời đời khốn nạn như vậy v.v. Đúng thế, chính v́ “Thiên Chúa là t́nh yêu”, như Thánh Gioan Tông Đồ đă cảm nhận và định nghĩa trong Thư Thứ Nhất ở đoạn 4, câu 8 và 16, mà “nơi Ngài không hề có tối tăm”, như Thánh Gioan cũng xác nhận trong cùng Bức Thư ở đoạn 1 câu 5, nghĩa là không có sự chết, không có sự dữ, không có án phạt. Sở dĩ con người bị phạt là v́ họ đă không chấp nhận t́nh yêu của Ngài, không chấp nhận ân sủng cứu độ của Ngài, nên t́nh yêu của Ngài đă nên án phạt cho họ, như ánh sáng mặt trời tự bản chất là tốt, song đối với kẻ đau mắt lại là một h́nh khổ mà họ phải tránh xa, không dám nh́n. Đó là lư do, trong Phúc Âm Thánh Gioan ở đoạn 3 câu 17 đến 19, Chúa Giêsu đă minh định với Nicôđêmô thế này: “Thiên Chúa không sai Con đến thế gian để luận phạt thế gian mà là để thế gian nhờ Con mà được cứu. Ai tin vào Con th́ khỏi bị luận phạt, c̣n ai không tin th́ đă bị luận phạt rồi, v́ không tin vào danh Con Một của Thiên Chúa. Luận phán tuyên phạt là thế này, đó là ánh sáng đă đến trong thế gian, song con người ta lại chuộng tối tăm hơn ánh sáng, v́ các việc họ làm đều là những việc gian ác”.

Như thế, sự dữ vĩnh tử vô cùng bất hạnh này không bao giờ xẩy đến cho thành phần tội nhân nói chung, nếu họ giống như người thu thuế trong dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện, biết hạ ḿnh xuống trước nhan Chúa ăn năn thống hối với tất cả tấm ḷng tan nát khiêm cung của ḿnh, mà chỉ xẩy ra cho riêng thành phần không chịu ăn năn hối cải, một là v́ họ bị mặc cảm hoàn toàn tuyệt vọng, như trường hợp tông đồ Giuđa bán Chúa, hai là v́ mặc cảm quá ư tự măn đến nỗi sống trong t́nh trạng cằn cỗi thiêng liêng mà không biết, như trường hợp cây vả xum xuê hoa lá cành mà không sinh hoa kết trái ǵ hết, nên đáng bị đốn đi như dụ ngôn hôm nay Chúa nói tới, hay như Chúa đă có lần thực sự nguyền rủa một cây vả bên đường làm cho nó chết đứng v́ không có trái như thế.

Bởi thế, theo tôi, những người c̣n cảm thấy cần phải cải thiện là những người c̣n ư thức tội lỗi, và là những người cảm thấy rằng càng thánh thiện càng cần phải cải thiện, v́ càng gần “Thiên Chúa là ánh sáng” (1Jn 1:5), chúng ta mới càng thấy được ḿnh vô cùng bất xứng, khốn nạn và tội lỗi. Đó là lư do các thánh mới năng xưng tội, hằng ngày, hằng tuần, trái lại, càng xa Chúa, càng tối tăm, càng cảm thấy ḿnh “có tội ǵ đâu mà xưng”!

Vấn đề Đau Khổ và Cứu Độ


Vấn đề của bài Phúc Âm hôm nay c̣n có thể được đặt ra là tại sao Thiên Chúa vô cùng toàn hảo, khôn ngoan và toàn năng lại có thể để sự dữ bất hạnh xẩy ra cho con người, chẳng hạn như trường hợp được nhắc đến trong bài Phúc Âm hôm nay liên quan đến cả thiên tai và nhân tai? Trong hai sứ điệp đầu năm 2004, một gửi cho thành phần bệnh nhân trong Ngày Thế Giới Bệnh Nhân Thứ XII, 11/2/2004, và một gửi cho Giáo Hội hoàn vũ về Mùa Chay 2004 với chủ đề “ai tiếp nhận một trẻ nào như những trẻ này là tiếp nhận Thày”, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng đă nêu lên vấn nạn này như sau:

“Có những thành phần giới trẻ đă bị xúc phạm nặng nề bởi hành động bạo lực của người lớn: như việc lạm dụng t́nh dục, bắt làm gái điếm, dính dáng đến việc buôn bán và sử dụng thuốc nghiện; bị bắt lao động và gia nhập hàng ngũ chiến đấu; luôn phập phồng về t́nh trạng gia đ́nh bị đổ vỡ; bị lọt vào việc buôn bán các bộ phận con người và con người. C̣n thảm cảnh hội chứng liệt kháng AIDS cùng với các hậu quả tàn hại của nó ở Phi Châu nữa th́ sao? Người ta nói rằng hằng triệu người hiện nay đang bị cơn khổ nạn này hành hạ, nhiều người đă bị lây nhiễm từ khi mới sinh. Nhân loại không thể nhắm mắt làm ngơ trước một thảm cảnh hết sức thượng tâm này!

“Những trẻ em này đă làm sự xấu nào mà lại phải gánh chịu khổ đau như thế? Theo quan điểm nhân loại th́ không dễ ǵ, thật sự là không thể, giải đáp vấn nạn nhức nhối này. Chỉ có đức tin mới khiến chúng ta bắt đầu hiểu được vực thẳm rất sâu xa của khổ đau mà thôi. Bằng việc ‘vâng lời cho đến chết cho dù chết trên thập giá’ (Phil 2:8), Chúa Giêsu đă gánh chịu khổ đau nơi bản thân ḿnh và đă chiếu tỏ nó bằng ánh sáng rạng ngời của việc Người phục sinh. Người đă hoàn toàn chiến thắng tử thần bằng cái chết của Người” (Sứ Điệp Mùa Chay 2004, đoạn 3 và 4).

“Trong Tông Thư ‘Salvifici Doloris’, Tôi đă nhận định rằng đau khổ là những ǵ thăng trầm của con người nam nữ trong suốt gịng lịch sử mà họ cần phải biết chấp nhận và thắng vượt nó (cf. No. 2: [11 February 1984]; L'Osservatore Romano English Edition [ORE], 20 February, p. 1). Tuy nhiên họ làm sao có thể thực hiện được điều này nếu không nhờ Thập Giá Chúa Kitô?

“Nơi cuộc tử nạn và Phục Sinh của Đấng Cứu Chuộc, khổ đau của nhân loại t́m thấy được ư nghĩa sâu xa nhất của ḿnh cùng với giá trị cứu độ của nó. Tất cả mọi gánh nặng của khổ ải và đau đớn của nhân loại được tóm lại nơi mầu nhiệm của một Vị Thiên Chúa, khi mặc lấy bản tính loài người, đă ‘trở thành tội lỗi… v́ chúng ta’ (2Cor 5:21) một cách nhục nhă. Trên Golgotha Người đă gánh lấy tội lỗi của hết mọi con người tạo sinh, và Người đă kêu lên cùng Chúa Cha trong nỗi tủi thân và niềm phó thác là ‘Tại sao Cha lại bỏ rơi con?’ (Mt 27:46).

“Từ cái mâu thuẫn của Thập Giá đă phát xuất ra câu giải đáp cho những vấn đề rắc rối nhất của chúng ta. Chúa Kitô đă chịu khổ v́ chúng ta. Người đă mang lấy nơi bản thân Người các thứ khổ đau của hết mọi người và cứu chuộc chúng. Chúa Kitô chịu khổ với chúng ta, cho chúng ta được thông phần đau khổ của chúng ta với đau khổ của Người. Liên kết với đau khổ của Chúa Kitô, đau khổ của nhân loại trở thành phương tiện cứu độ; đó là lư do tại sao tín hữu có thể cùng với Thánh Phaolô nói rằng ‘Giờ đây tôi v́ anh em vui mừng chịu đựng đau khổ của ḿnh, và tôi hoàn tất nơi xác thịt của ḿnh những ǵ c̣n thiếu nơi những đau thương của Chúa Kitô phải chịu v́ thân thể của Người là Giáo Hội’ (Col 1:24). Được chấp nhận bằng đức tin, đau đớn trở thành cửa ngơ tiến vào mầu nhiệm khổ đau cứu chuộc của Chúa Kitô; một khổ đau không c̣n làm mất đi sự b́nh an và hạnh phúc v́ nó được chiếu tỏa bởi ánh quang của Cuộc Phục Sinh” (Sứ Điệp cho Ngày Thế Giới Bệnh Nhân 11/2/2004, đoạn 4).

Thật vậy, ngoài đức tin con người chẳng những không thể nào chịu được khổ đau mà c̣n không thể nào hiểu được và giải được vấn nạn khổ đau nữa. Theo giáo lư của Phật giáo th́ “đời là bể khổ”, mà khổ là do “tham, sân, si” nơi con người, nên muốn thoát khổ con người cần phải “diệt dục” ngay khi c̣n sống để có thể được “giác ngộ” như Phật tổ, bằng không, cho tới khi chết mà vẫn c̣n “nghiệp chướng” th́ phải “đầu thai luân hồi” cho tới khi hoàn toàn thoát hết nợ trần, trả hết nghiệp kiếp của ḿnh mới được vào cơi “niết bàn”. Tiện đây, người Công Giáo chúng ta cũng nên phân biệt giáo lư và tinh thần của Kitô giáo khác với chủ trương của Tam Giáo Khổng-Lăo-Phật ở Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung.

Đối với Khổng giáo, Kitô giáo hợp với Khổng giáo ở chủ trương và hoạt động dấn thân phục vụ con người để cải cách xă hội, thế nhưng, đường lối và tinh thần phục vụ của Kitô giáo hoàn toàn khác hẳn, ở chỗ, đối với Kitô giáo, làm đầu là làm cuối, người trên hy sinh cho người dưới, “quân, sư, phụ” phải qú xuống rửa chân cho các môn sinh của ḿnh. Đối với Lăo giáo, Kitô giáo cũng chủ trương thoát tục, vô vi thanh tịnh, sống b́nh an tự tại theo thiên ư, nhưng không phải chỉ để hưởng nhàn và khỏi bị quấy nhiễu, mà là để chẳng những biết được thiên ư muốn ǵ và có dồi dào sinh lực hơn trong việc hoàn tất thiên ư, dù có phải hy sinh vào đời và cho đời; đó là lư do đi tu theo Kitô giáo là yêu đời chứ không phải là chán đời, nhất là không phải chỉ v́ khinh đời. Đối với Phật giáo, Kitô giáo cũng chủ trương diệt dục, được gọi là bỏ ḿnh, nhưng Kitô giáo không sợ đau khổ; cho dù có t́m hết cách để tránh lánh khổ đau tự bản chất vốn là sự dữ phản lại với bản tính tự nhiên vốn hướng về chân thiện mỹ của ḿnh, Kitô giáo vẫn sẵn sàng chấp nhận khổ đau là hậu quả của tội lỗi để biến nó thành phương tiện cứu độ cho ḿnh và cho tha nhân; đó là lư do Kitô giáo chủ trương diệt dục hay hăm ḿnh và bỏ ḿnh là để có khả năng chịu được khổ đau, có thể vác thập giá, nhất là được như hạt lúa miến mục nát đi mới sinh muôn vàn hoa trái, tức là được Vượt Qua từ sự chết mà vào sự sống như chính Vị Giáo Tổ Phục Sinh của ḿnh.

Ngoài ra, theo tu đức Kitô giáo, chính Thiên Chúa muốn sử dụng khổ đau chẳng những để làm cho con người được siêu thoát, được thanh tẩy khỏi những tục lụy hầu có thể tiến tới chỗ thần hiệp với Ngài, mà c̣n, sau khi họ được thần hiệp với Ngài, Ngài vẫn c̣n tiếp tục dùng khổ đau để làm cho họ sinh hoa kết trái hơn nữa, như cành nho đă sinh trái càng bị tỉa đi cho sai trái hơn (x Jn 15:2). Đó là lư do chúng ta thấy không một vị thánh Kitô giáo nào mà không phải trải qua thấm thía đau khổ, trải qua tăm tối cuộc đời. Thậm chí càng khổ đau càng nên trọn lành, càng nên giống Chúa Kitô, Đấng là chính Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa nhập thể, nhưng cũng đă phải kêu lên trên thập giá “Chúa ơi, Chúa ơi, sao Chúa lỡ bỏ rơi con” (Mt 27:46), Đấng cũng đă liên kết việc ngồi bên hữu và bên tả của Người, như một Đức Maria đồng công cứu chuộc đứng dưới chân thập giá của Người (x Jn 19:25), tức Người đă liên kết t́nh trạng sống thân mật với Người nhất và nên giống Người nhất đó là được cùng Người uống chén khổ đau (x Mt 20:21-23), hay được dự phần với Người, một vinh dự cần phải được Người thanh tẩy cho trước họ mới có tư cách và khả năng tham hưởng (x Jn 13:8), một vinh dự mà đích thân Người phải dọn sẵn ra cho họ bằng chính cuộc Vượt Qua Tử Giá, như việc “Thày đi để dọn chỗ cho các con”, đến vinh quang Phục Sinh, như việc “Thày sẽ trở lại để đem các con đi để Thày ở đâu các con cũng ở đó” (Jn 14:3), như trường hợp điển h́nh của vị trưởng tông đồ đoàn Phêrô sau cuộc đời “theo Thày” làm đầu là phục vụ đă được phúc chết giống như Người (x Jn 21:18-19).

Thật vậy, ngay từ ban đầu “Thiên Chúa là t́nh yêu” (1Jn 4:8,16) đă dựng nên con người là để cho họ được trường sinh vinh phúc, chứ không phải để đọa đầy con người. Sở dĩ con người phải chịu khổ trên đời này và cuối cùng phải chết là v́ tội lỗi của họ, được gọi là nguyên tội. Thế nhưng, cũng chính v́ Thiên Chúa vô cùng toàn thiện, khôn ngoan và toàn năng mà Ngài đă biến sự dữ do con người gây ra thành sự lành cho họ, tức Ngài đă biến tội lỗi và sự chết (cùng với tất cả mọi khổ đau) là hậu quả của tội lỗi, một t́nh trạng tội lỗi và sự chết được biểu hiệu nơi cây thập giá, h́nh phạt giành cho thành phần tử tội dưới chế độ của Đế Quốc Rôma, trở thành ân phúc và sự sống cho họ, nhờ cuộc Vượt Qua của Con Ngài là Đức Giêsu Kitô, Lời Nhập Thể.

Như thế, nhờ Lời Nhập Thể là Thiên Chúa Thần Linh vô cùng toàn hảo mặc lấy xác thể con người mà thân xác của con người đă được thần linh hóa, do đó con người càng thấp hèn trước mắt thế gian càng giống Ngài, thậm chí ai không tôn trọng và giúp đỡ họ là phủ nhận Ngài (x Mt 25:45); nhất là nhờ cuộc Tử Giá và Phục Sinh của Vị Thiên Chúa toàn năng này mà tất cả những bất hạnh, thậm chí kể cả những tội lỗi của con người, đă được cứu chuộc và thánh hóa, và thân phận yếu đuối của con người, nhờ phép rửa, c̣n được mặc lấy quyền năng vô địch của Đấng Phục Sinh (x Mt 28:18), để họ có thể làm chủ tất cả mọi sự dữ, như được Chúa Giêsu đề cập tới trong đoạn cuối cùng của Phúc Âm Thánh Marcô, đó là có thể trừ quỉ, chữa lành bệnh tật, bắt rắn trong tay và uống phải độc dược cũng không sao (x Mk 16:17-18). Đó là lư do, đối với thập giá đă trở thành Thánh Giá, đau khổ trở thành quyền linh này, Kitô hữu chẳng những không được sợ thánh giá đau khổ, trái lại, như Thánh Tông Đồ Dân Ngoại, c̣n phải hiên ngang tuyên bố rằng: “Tôi không hănh diện về bất cứ điều ǵ ngoài thập giá Chúa Giêsu Kitô!” (Gal 6:14).


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL