Chúa Nhật

Ngày 21/3: Nocholas of Flue (1417-1487)

Là một nông gia Người Thụy Sĩ khá giả, cha của 10 người con.

Đă từ bỏ mọi sự về ẩn tu ở khe Rauft năm 1467.

Đă sống ở đó 19 năm chỉ bằng Thánh Thể.

Truyền tụng rằng có lần thánh nhân bị ma quỉ ném vào bụi gai.

Là quan thày của nước Thụy Sĩ.

 


CHÚA NHẬT IV
MÙA CHAY-C

 

BÀI ĐỌC I: Jos 5:9a, 10-12
“Dân Chúa tiến vào đất Chúa hứa và mừng lễ Vượt Qua”

Bài trích sách Giosuê.

Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Giosuê rằng: “Hôm nay, Ta đă cất sự dơ nhớp của Ai Cập khỏi các ngươi!” Con cái Israel tạm trú tại Galgali và mừng lễ Vượt Qua vào ban chiều ngày mười bốn trong tháng, trên cánh đồng Giêricô. Ngày hôm sau lễ Vượt Qua, họ ăn các thức ăn địa phương, bánh không men và lúa mạch gặt năm ấy. Từ khi họ ăn các thức ăn địa phương, th́ không có manna nữa. Và con cái Israel không c̣n ăn manna nữa, nhưng họ ăn thổ sản năm đó của xứ Canaan.

Lời của Chúa.


Đáp ca: (Xin mời Cộng đoàn thưa)
Các bạn hăy nếm thử và hăy nh́n coi cho biết Chúa thiện hảo nhường bao.

1.      Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Chúa linh hồn tôi hănh diện, bạn nghèo hăy nghe và hăy mừng vui.

2.      Các bạn hăy cùng tôi ca ngợi Chúa, cùng nhau ta hăy tán tạ danh Người. Tôi cầu khẩn Chúa, Chúa đă nhậm lời, và Người đă cứu tôi khỏi mọi điều lo sợ.

3.      Hăy nh́n về Chúa để các bạn vui tươi, và các bạn khỏi hổ ngươi bẽ mặt. Ḱa người đau khổ cầu cứu và Chúa đă nghe, và Người đă cứu họ khỏi mọi điều tai nạn.


BÀI ĐỌC II: 2 Cor 5:17-21
“Thiên Chúa đă nhờ Đức Kitô giao ḥa chúng ta với ḿnh”

Bài trích thơ thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, nếu ai ở trong Đức Kitô, th́ người đó sẽ là một thụ tạo mới, những ǵ là cũ đă qua đi: nầy đây tất cả mọi sự đă trở thành mới. V́ mọi sự bởi Thiên Chúa, Đấng đă nhờ Đức Kitô giao ḥa chúng ta với ḿnh, và trao phó cho chúng tôi chức vụ giao ḥa. Thật vậy, Thiên Chúa là Đấng giao ḥa thế gian với chính ḿnh Người trong Đức Kitô, nên không kể chi đến tội lỗi của loài người, và đặt lên môi miệng chúng tôi lời giao ḥa. Nên chúng tôi là sứ giả thay mặt Đức Kitô, như chính Chúa dùng chúng tôi mà khuyên bảo. V́ Đức Kitô, chúng tôi van nài anh em hăy giao ḥa với Thiên Chúa. Đấng không hề biết tội, th́ Thiên Chúa làm nên thân tội v́ chúng ta, để trong Ngài, chúng ta trở nên sự công chính của Thiên Chúa.

Lời của Chúa.


CÂU XƯỚNG TRƯỚC PHÚC ÂM: (Xin mời Cộng đoàn đứng)
Tôi muốn ra đi trở về với cha tôi và thưa người rằng: Thưa cha, con đă lỗi phạm đến trời và đến cha.


PHÚC ÂM: Lc 15:1-3, 11-32
“Em con đă chết nay sống lại”

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, những người thu thuế và những kẻ tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng; thấy vậy, những người biệt phái và luật sĩ lẩm bẩm rằng: “Ông nầy đón tiếp những kẻ tội lỗi và cùng ngồi ăn uống với chúng”. Bấy giờ Người phán bảo họ dụ ngôn này: “Người kia có hai con trai. Đứa em thưa với cha rằng: “Thưa cha, xin cha cho con phần gia tài thuộc về con”. Người cha liền chia gia tài cho các con. Ít ngày sau, người em thu nhặt tất cả của ḿnh, trẩy đi miền xa và ở đó ăn chơi xa xỉ phung phí hết tiền của. Khi nó tiêu hết tiền của th́ vừa gặp nạn đói lớn trong miền đó, và nó bắt đầu cảm thấy túng thiếu. Nó vào giúp việc cho một người trong miền, người này sai nó ra đồng chăn heo. Nó muốn ăn những đồ cặn bă heo ăn cho đầy bụng, nhưng cũng không ai cho. Bấy giờ nó hồi tâm lại và tự nhủ: “Biết bao người làm công ở nhà cha tôi được ăn uống dư dật, c̣n tôi, tôi ở đây phải chết đói. Tôi muốn ra đi trở về với cha tôi và thưa người rằng: Thưa cha, con đă lỗi phạm đến trời và đến cha, con không đáng được gọi là con cha nữa, xin cha đối xử với con như một người làm công của cha”. Vậy nó ra đi và trở về với cha nó. Khi nó c̣n ở đàng xa, cha nó chợt trông thấy, liền động ḷng thương; ông chạy ra ôm choàng lấy cổ nó và hôn nó hồi lâu... Người con trai lúc đó thưa rằng: “Thưa cha, con đă lỗi phạm đến trời và đến cha, con không đáng được gọi là con cha nữa”. Nhưng người cha bảo đầy tớ: “Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu, hăy đeo nhẫn vào ngón tay cậu và xỏ giầy vào chân cậu. Hăy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng: v́ con ta đây đă chết, nay sống lại, đă mất, nay lại t́m thấy”. Và người ta bắt đầu ăn uống linh đ́nh. Người con cả đang ở ngoài đồng. Khi về gần đến nhà, nghe tiếng đàn hát và nhảy múa, anh gọi một tên đầy tớ để hỏi xem có chuyện ǵ. Tên đầy tớ nói: “Đó là em cậu đă trở về và cha cậu đă giết bê béo, v́ thấy cậu ấy về mạnh khỏe”. Anh liền nổi giận và quyết định không vào nhà. Cha anh ra xin anh vào. Nhưng anh trả lời: “Cha coi, đă bao năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều nào, mà không bao giờ cha cho riêng con một con bê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn. C̣n thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha với bọn đàng điếm, nay trở về th́ cha lại sai làm thịt bê béo ăn mừng nó”. Nhưng người cha bảo: “Hỡi con, con luôn ở với cha, và mọi sự của cha đều là của con. Nhưng phải ăn tiệc và vui mừng, v́ em con đă chết nay sống lại, đă mất nay lại t́m thấy”.

Phúc Âm của Chúa.
 

SUY NIỆM

HAI NGƯỜI CON
 

Trần Mỹ Duyệt
 

Câu truyện Thánh Kinh được Thánh Luca kể mà Giáo Hội đă trích dẫn cho Chúa Nhật thứ tư Mùa Chay hôm nay có thể được tóm lược như sau: Gia đ́nh ba cha con kia, người cha là một người giầu có, chịu khó, tốt bụng, rộng lượng, hào phóng, và thương chiều con. Những đức tính này, ông đă chia đồng đều cho hai con trai ông. Và mỗi người con đều thừa hưởng di sản tinh thần ấy của ông.

Cũng như ông, hai con trai ông cũng là những người chịu khó, tốt bụng, rộng lượng và xă giao rộng răi. Chỉ khác nhau là trong khi phát triển những đặc tính cá nhân ấy, mỗi người con có một tầm nh́n, một suy tư, và lối sống khác nhau.

Người con cả là một người chị khó, anh ngày đêm bên cha, và chăm chỉ làm việc. Anh cũng là người tốt bụng, rộng răi và quảng giao với bạn bè. Do đó, anh tưởng đă có lư để than phiền với cha ḿnh: “Bao năm qua con phục vụ cha, không hề trái lệnh cha, vậy mà cha chưa hề cho con một con dê nhỏ để thiết đăi bạn bè” (Luc 15:29).

Và người con thứ, anh cũng như anh chàng, chịu khó, tốt bụng, và rộng răi với bạn bè. Số tiền cha anh chia cho, anh đă tiêu xài một cách hết sức thoải mái, tự do, và không tính toán. Tuy là một công tử nhà giàu, nhưng khi gặp nạn, anh vẫn không ngần ngại làm những việc thấp hè trong xă hội, như đi chăn lợn: “Sau khi đă tiêu xài hết số tiền, gặp cơn đói kém xẩy tới cho xứ này, và anh ta không có ǵ ăn. V́ thế anh đă đến một người phú hộ trong vùng, và người này đă sai anh tới trại để chăn lợn” (Luc 15:14-15).

Tuy cũng cùng một khả năng, một di truyền tính, nhưng khi ứng dụng vào hoàn cảnh sống, hai anh em này lại có những phản ứng trái ngược, và xung khắc nhau. Trong tâm lư sống này, người anh đă hoán chuyển tất cả những khả năng và tính nết của ḿnh vào việc phục vụ cho quyền lợi riêng tư, cho phúc lợi của cá nhân ḿnh. Anh tận tụy với cha, tốt bụng với bạn bè, nhưng cốt lơi là qui về chính ḿnh anh. Do đó, anh vẫn chưa diễn tả được sự tốt bụng, rộng lượng và hào phóng của cha anh. Bằng chứng cụ thể là anh vẫn c̣n tức bực với cha anh, và ghen tỵ với em của anh.

Ngược lại, người em tuy bề ngoài có vẻ hư hỏng, thật ra, anh chỉ hành động theo tính t́nh tuổi trẻ, bồng bột, và ngu xuẩn nhất thời. Tận trong thâm tâm, anh luôn nghĩ đến cha ḿnh, đến mái ấm gia đ́nh, và nhất là không quan tâm đến những chi tiết nhỏ mọn như chuyện xẩy đến có thể làm anh bị mất mặt khi phải đi chăn lợn; hoặc có thể bị cha từ chối khi trở về. Đối với anh, cha anh là tất cả. Điều anh ân hận là đă làm cho cha ḿnh buồn. Chính v́ thế anh đă tự nhủ: “Tôi sẽ đứng dậy và trở về cùng cha tôi, và nói với người: Thưa cha, con đă lỗi phạm đến Trời và đến cha. Con không xứng đáng được làm con cha nữa” (Luc 15: 18).

Câu truyện ba cha con trên, hiển nhiên mô phỏng gia đ́nh nhân loại mà Thiên Chúa đă tạo dựng và thương yêu. Ngài là Cha nhân lành, và mỗi người chúng ta là con của Ngài, được thừa hưởng tất cả những đức tính tốt lành của Ngài. Ngài đă phân chia đồng đều gia sản tinh thần của Ngài cho từng người con, tùy theo khả năng và ư định tốt lành của Ngài. Nhưng ḱa. Mỗi người đă hành xử khác nhau, và theo một nghĩa của tâm linh, đó là hành động của con người bị thu hút bởi xu hướng cá nhân, đam mê, và cám dỗ của ma qủy. V́ thế, người th́ ích kỷ, keo kiệt, tham lam, vô độ, chỉ muốn tất cả cho riêng ḿnh. Ngược lại, người th́ không biết dùng những tài năng, những vốn liếng tinh thần đúng chỗ và đúng lúc. Tóm lại, tất cả chúng ta nhiều hay ít đă không làm cho Cha trên trời hài ḷng.

Tuy nhiên, như người cha trong Tin Mừng, Thiên Chúa vẫn đứng đó, vẫn nhẫn nại, và ṃn mỏi chờ đợi các con ḿnh. Ngài sẵn sàng mở rộng ṿng tay đón tiếp, bỏ qua tất cả, và tha thứ tất cả. Ngài không chấp nhất, và đ̣i hỏi. Đối với Ngài, không một con nào dù tội lỗi đến đâu mà khi trở về lại không được Ngài mở rộng ṿng tay âu yếm ôm vào ḷng. Trước những lỗi lầm và yếu đuối, Ngài muốn các con Ngài đừng thất vọng, và đừng bao giờ rời xa t́nh thương của Ngài. Chính sự thất vọng và không quay trở về kia mới làm cho Ngài đau ḷng chứ không phải những yếu đuối nhất thời của con người.

Ngoài ra, Ngài cũng muốn con cái Ngài thương yêu nhau. Đừng ghen tương, giận hờn. Đừng nghĩ rằng Ngài đối đăi bất công, thương con này mà ghét bỏ con kia.V́ ư nghĩ này xúc phạm đến t́nh thương và tấm ḷng rộng răi vô biên của Ngài.

Sau cùng, Ngài muốn mỗi người phải biết xử dụng những tài năng, những ân sủng Ngài ban để hướng tầm nh́n và nâng cao những giá trị tâm linh. Mở rộng cơi ḷng tiếp nhận nhau, tha thứ cho nhau, cũng như tha thứ cho chính ḿnh. Chúng ta chỉ bị loại bỏ ra ngoài căn nhà của Ngài nếu chúng ta tự ư ra đi như người con thứ. Nhưng chúng ta vẫn không bị từ chối khi ư thức sự nhầm lẫn và sẵn sàng quay trở về căn nhà yêu dấu ấy.

Nhưng liệu sự chờ đợi mỏi ṃn của người cha già thân yêu có được đền bù không. Hay vẫn có những người con lầm đường, lạc lối mà không bao giờ t́m về. Mùa Chay là mùa ăn năn thống hối, và quay trở về với Thiên Chúa. Có bao giờ ta tự hỏi và nói với ḷng ḿnh như người con thứ: “Tôi sẽ đứng dậy và trở về cùng cha tôi, và nói với người: Thưa cha, con đă lỗi phạm đến Trời và đến cha”.

 


Xa cha là phung phá - gần cha lại hoang đàng
Bỏ cha đời nô lệ - với cha đời vương giả


 

Sau khi đă kêu gọi con người cải thiện đời sống ở bài Phúc Âm Chúa Nhật III Mùa Chay Năm C tuần trước, trong bài Phúc Âm Thứ IV Mùa Chay Năm C tuần này, Giáo Hội chọn bài Phúc Âm của Thánh Kư Luca về dụ ngôn người con phung phá, cũng được gọi là dụ ngôn người cha nhân hậu, để kêu gọi con người nói chung, và thành phần tội nhân nói riêng, hăy tin tưởng vào t́nh yêu vô cùng nhân hậu của Thiên Chúa là Cha trên trời mà trở về với Ngài. Thật vậy, nếu người con phung phá không tin tưởng vào người cha từ bi nhân hậu của ḿnh, trái lại, biết chắc chắn rằng người cha sẽ giết chết ḿnh khi vừa thấy ḿnh, hoặc bỏ thương vương tội nhưng vẫn đối xử tàn tệ với ḿnh cho bơ ghét, hay để mặc cho người anh, thậm chí cả kẻ ăn người ở trong nhà tha hồ mà nhục mạ chửi rủa ḿnh, thử hỏi người con phung phá có dám ṃ về với cha hay chăng, hay thà chết cũng không bao giờ chịu trở về với cha.

Trong dụ ngôn này chúng ta thấy có nhiều màn xẩy ra cho người con phung phá, thứ tự như sau:

1. Người con xin cha chia phần gia tài của ḿnh cho.

2. Sau đó người con này đă đem gia tài của cha và được cha chia cho đi phung phí vào những đam mê trụy lạc của ḿnh.

3. Hậu quả của cuộc đời phung phá là người con phải trải qua một cảnh bần cùng khốn khổ hết sức nhục nhă và chán chường.

4. Thế nhưng, chính trong cơn hoạn nạn khốn khó ấy người con mới tỉnh ngộ và đă nghĩ về cha, để rồi quyết định trở về với cha.

5. Người con hoang đường chẳng những được cha thứ tha mà c̣n được cha vừa mở tiệc ăn mừng vừa phục hồi lại cho tất cả những ǵ quí giá người con đă làm mất đi trong quăng đời phung phá quá khứ của ḿnh.

Thật vậy, qua dụ ngôn này chúng ta mới thấy rằng chỉ có duy một ḿnh Thiên Chúa mới quả thực là người cha đích thật, mới xứng đáng mang danh làm cha và được gọi là “cha”. Bởi v́, Ngài vô cùng nhân hậu và xót thương, thông cảm với đứa con yếu đuối và lầm lạc, chẳng những không chấp nhất nó, trừng phạt lỗi lầm của nó, mà c̣n hết sức nhẫn nại, ngong ngóng trông đợi nó hồi tâm nghĩ lại mà trở về với ḿnh, để rồi khi vừa thấy nó tỏ ư muốn và dứt khoát trở về liên tự động nhào tới đón nhận nó, chứ không cần đợi nó phải mở miệng xin lỗi trước rồi mới tha sau, như thể muốn giải ḥa với nó trước (x Mt 5:23-24), thậm chí đă tự động bù đắp lại cho nó những ǵ nó đă đem phung phá, nhất là c̣n mở tiệc linh đ́nh mừng nó trở về, như thể nó đă lập được một thành tích lớn cho cha, một hành động làm cho người con cả tức điên lên, hận đến nỗi không chịu bước vào nhà, làm cho người cha phải khuyên giải mới nguôi ngoai.

Một dụ ngôn ba bí tích

Phân tích dụ ngôn này, chúng ta thấy Chúa Giêsu đă ngấm ngầm tỏ cho các môn đệ biết Ngài có ư định lập 3 bí tích cho Giáo Hội, đó là bí tích rửa tội, bí tích giải tội và bí tích Thánh Thể.

Bí tích rửa tội trong dụ ngôn này được thể hiện nơi việc người con xin chia gia tài, thái độ của con người muốn lănh nhận phép rửa, muốn được phần gia tài sự sống thần linh, và người cha đă theo ư nó chia phần gia tài thuộc về nó cho nó, như Cha trên trời đă thông ban sự sống thần linh của Ngài, bằng Ơn Thánh Sủng cùng với các thần đức Tin Cậy Mến cho con người khi họ lănh nhận phép rửa.

Bí tích giải tội trong dụ ngôn này được thể hiện ở chỗ người con phung phá xét ḿnh, ăn năn dốc ḷng chừa, xưng tội và đền tội. Nó chẳng xét ḿnh là ǵ khi nghĩ lại thân phận của ḿnh trong lúc cùng cực nhất cuộc đời? Nó chẳng dốc ḷng chừa là ǵ khi cương quyết chỗi dậy trở về cùng cha, không phải chỉ v́ để tránh khỏi cảnh cùng khốn của ḿnh, một t́nh trạng dù sao cũng tạo điều kiện để nó nghĩ lại, cho bằng v́ thấy ḿnh sống bất xứng với thân phận làm con, tức làm nhục cho cha, làm ô danh cha, “không xứng đáng làm con cha”? Nó đă chẳng xưng tội khi xót xa thống hối mà thưa cùng cha “con đă xúc phạm đến trời và đến cha”? Nó đă chẳng đền tội là ǵ khi bị anh nó căm giận thù ghét, hậu quả không phải chỉ ở việc nó bỏ nhà ra đi phung phá gia tài của cha mà c̣n được cha nồng hậu tiếp nhận khi nó trở về nữa?

Bí tích Thánh Thể trong dụ ngôn này được thể hiện qua việc người cha mở tiệc linh đ́nh để ăn mừng người con “như chết mà sống lại”. Thật vậy, người cha không ăn mừng rồi mới trang sức lại cho người con phung phá, trái lại, như bí tích giải tội trả về cho con người đă chết bởi trọng tội chẳng những Thánh Sủng họ đă đánh mất mà c̣n tất cả mọi công nghiệp họ lập được nhờ các thần đức là khả năng thần linh của họ, người cha cũng đă tái trang sức cho nó những ǵ xứng với phẩm vị của nó là một người con trong nhà, để nó có đủ tư cách tiếp tục ngồi vào bàn của cha và với cha, bàn tiệc Thánh Thể Lời Nhập Thể, bàn tiệc Sự Sống Thần Linh, “sự sống viên măn hơn” (Jn 10:10) là chính mạng sống của vị mục tử nhân lành đi t́m từng con chiên lạc (x Jn 10:10; Lk 15:4).

Một mái nhà hai cuộc sống

Bài dụ ngôn trong Phúc Âm của Chúa Nhật Thứ III này c̣n cho thấy một điểm rất đặc biệt nữa, đó là sự kiện người con ở gần cha nhất lại là người con hoang đàng, c̣n người con phung phá lại là người con gần cha hơn hết. Không phải hay sao, người con phung phá đă luôn ở gần cha, ở chỗ tin tưởng vào t́nh yêu nhân hậu của cha và đă trở về với cha, để từ t́nh trạng chết đi mà được sống lại, t́nh trạng mất hết mọi sự không c̣n ǵ mà lại được tất cả mọi sự. Trái lại, người con cả gần cha, không lúc nào rời xa cha, bao giờ cũng làm theo ư muốn của cha, lại không hề hiểu cha, cho rằng của cha khác với của ḿnh, chứ không phải “mọi sự của cha là của con”, bởi đó mới có thái độ tranh chấp, mới thành đứa con hoang đàng, cách biệt cha.

Đó là lư do chúng ta đừng khinh thường thành phần chúng ta cho là “tội nhân” đáng thương. Chẳng biết họ đáng thương hay chúng ta đáng thương, nếu chúng ta tự phụ cho ḿnh là đạo đức tốt lành, đọc kinh hằng ngày, đi lễ hằng tuần, xưng tội hằng tháng, mà lại hay phán xét người khác và khinh thường những người anh chị em “phung phá” của ḿnh. Họ quả thực đă có lúc là đứa con nói với cha “con không đi” làm vườn nho cho cha, nhưng sau đó lại đi, như một Mathêu (x Mt 9:9-13), Giakêu (x Lk 19:1-10), Mai Đệ Liên (x Lk 7:36-50, 8:2), thành phần tiêu biểu cho tội nhân có những hành động gian tham của cải trần gian như bọn thu thuế và/hay có những xu hướng đam mê xác thịt như đám gái điếm bán thân phụng sự các thứ ngẫu tượng hay thần tượng (x. Mt 21:31), hay như người đàn bà Samaritanô (x Jn 4:19,28-30), thành phần tiêu biểu cho dân ngoại ô uế trước con mắt dân Do Thái, c̣n chúng ta, như nhóm luật sĩ và Pharisiêu trong dân Do Thái xưa, lúc này có vẻ như đang sẵn sàng đi làm theo ư cha của ḿnh đấy, nhưng thực ra chẳng làm ǵ cả, thậm chí c̣n làm trái với ư cha của ḿnh nữa mà không biết là đàng khác (x Mt 21:28-32).

Ở đây chúng ta cũng nên lưu ư một điều hết sức quan trọng nữa là t́nh thương của Thiên Chúa được phát xuất bởi t́nh yêu vô cùng trọn lành, một t́nh thương là tất cả dung nhan của một Vị Thiên Chúa vô cùng toàn hảo trọn lành, do đó, không phải là một thứ thương hại, làm giảm giá trị của đối tượng được thương và cần thương, mà là tôn trọng ngôi vị của họ, phục hồi phẩm giá cho họ và thăng hóa đời sống của họ. Đó là ư tưởng đă được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nhấn mạnh trong Thông Điệp “Giầu Ḷng Thương Xót” Dives in Mesericordia của Ngài, ở đoạn 5 và nhất là đoạn 6, ban hành ngày 13/11/1980, Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Vọng.

Có lẽ con người đầy quyền lực về khoa học và kỹ thuật ngày nay nhưng lại quá yếu đuối về tâm lư và bại hoại về luân lư cần đến ḷng thương xót Chúa hơn bao giờ hết. Dường như con người càng bại hoại, càng làm méo mó h́nh ảnh thần linh vô cùng cao cả của ḿnh, qua những trào lưu công khai sống đồng tính luyến ái và đồng tính lấy nhau, qua những thứ kỹ thuật tạo sinh sao bản con người, qua những hành động phá thai và khủng bố coi sự sống vô giá như đồ bỏ của nền văn hóa sự chết từ cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21 này, th́ dung nhan vô cùng yêu thương nhân hậu của “Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn 4:24) càng tỏ hiện. Đó là lư do, ngay từ đầu thế kỷ 20, vào chính thời điểm của Thế Chiến Thứ I, Mẹ Maria đă bảo 3 Thiếu Nhi Fatima, sau khi đă tiết lộ cho các em Bí Mật Fatima, với phần thứ nhất là thị kiến hỏa ngục, là sau mỗi chục Kinh Kính Mừng, hăy đọc thêm lời “Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội cho chúng con, xin cứu chúng con khỏi sa hỏa ngục, xin đem các linh hồn lên thiên đàng, nhất là những linh hồn cần đến ḷng thương xót Chúa hơn”. Ở Biến Cố Thánh Mẫu Fatima, Mẹ Maria đă cho 3 Thiếu Nhi Fatima được thị kiến thấy hỏa ngục và dậy các em Lời Nguyện Fatima này là để làm ǵ, nếu không phải để nhắc nhở và cảnh báo con người nói chung và thành phần môn đệ Chúa Kitô nói riêng về những ǵ Chúa Giêsu đă kết thúc dụ ngôn phán xét chung: “Hỡi đồ bị kết án các ngươi, hăy xéo đi cho khỏi nhan của Ta mà vào lửa đời đời đă giành sẵn cho ma qủi cùng các thần của hắn” (Mt 25:41).

Từ đầu thế kỷ 19, mở màn cho Thời Điểm Maria của ḿnh, Mẹ Maria đă “tiến lên như Rạng Đông” ở Biến Cố Thánh Mẫu Paris năm 1830, nơi Mẹ bảo làm một mẫu ảnh Mẹ Ban Ơn đứng trên quả cầu và đạp đầu rắn quỉ; “đẹp như mặt trăng” ở Biến Cố Thánh Mẫu Lộ Đức 1858, nơi Mẹ xưng ḿnh “Vô Nhiễm Thai” và là nơi duy nhất Mẹ mỉm cười trong tất cả các nơi Mẹ hiện ra; “rực rỡ như mặt trời” ở Biến Cố Thánh Mẫu Fatima, nơi Mẹ xưng ḿnh là “Đức Mẹ Mân Côi” và là nơi xẩy ra phép lạ cả thể mặt trời nhẩy múa trên không trung; và “oai hùng như đạo binh dàn trận”, qua phong trào Tượng Mẹ Thánh Du Quốc Tế đi khắp nơi trên thế giới, nhất là qua Biến Cố Đông Âu sụp đổ cuối năm 1989, cũng như qua biến cố Liên Sô Nga Cộng giải thể vào Giáng Sinh năm 1991. Mẹ đến để đem con người về với Chúa là Cha trên trời. Bởi v́, bỏ Cha mà đi, cho rằng Thiên Chúa đă chết, để sống một sống vô thần duy vật, con người đă và đang trở thành những tên làm nô lệ cho nhục dục, thưởng thức cả những thứ đớn hèn của loài heo mà cũng không thỏa. Chỉ có trở về với Cha, sống xứng với vai tṛ và thân phận làm con Thiên Chúa của ḿnh, xứng với bản chất là h́nh ảnh thần linh của ḿnh, con người mới được hoàn toàn tự do, với tư cách là chủ nhân ông của ḿnh, như trường hợp sau khi trở về của người con phung phá.

Như thế, trong Thời Điểm Maria, thời điểm được Thánh Long Mộng Phố (Louis Montfort) gọi là “vào những thời gian sau này”, tức sau thời của ngài là đầu thế kỷ 18, và đă suy diễn trong cuốn Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria (khoản 49 và 50.4) về vấn đề hai lần đến của Chúa Kitô, có thể gọi là Mùa Vọng Cánh Chung, Mẹ Maria đă đến để dẫn con người phung phá, con người văn minh hầu như tuyệt đỉnh về vật chất và nhân bản, nhưng đang phá sản văn hóa và khủng hoảng đức tin, về nhà Cha, về với dự án nguyên thủy của Thiên Chúa giành cho họ, đó là dự án con người “làm chủ trái đất” (Gen 1:28), với tư cách là con Thiên Chúa.

Tâm can của một Vị Thiên Chúa làm người

Trong Thông Điệp T́nh Yêu Nhân Hậu gửi cho các Hồn Nhỏ, qua nữ thư kư Magarita người Bỉ của ḿnh, Chúa Giêsu đă nói những lời rất phản ảnh nội dung của bài Phúc Âm Chúa Nhật III Mùa Chay Năm C tuần này, đúng hơn phản ảnh t́nh yêu nhân hậu của người cha đối với cả người con phung phá trở về lẫn người con hoang đàng không muốn vào nhà. Đọc dụ ngôn của bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này và đọc những lời Chúa Giêsu lập lại t́nh yêu nhân hậu của Người với con người thời đại ngày nay, chúng ta thấy rằng con người không thể nào hư đi được, trừ phi họ không chấp nhận t́nh thương của Ngài, tức xúc phạm đến chính bản tính trọn lành của Ngài, xúc phạm đến Thánh Linh, một tội không thể tha thứ được cả đời này lẫn đời sau (x Mt 12:32).

"Trong con mắt của Cha, một tội nhân t́m kiếm Cha th́ không c̣n là một tội nhân nữa, mà là một linh hồn bị thương tích đang trên đường t́m về Ánh Sáng và Chân Lư" (ngày 26-1-1969).

“Hỡi các con cái bé nhỏ của Cha, các con là những kẻ lạc bước trên những nẻo đường ṃn, nơi mà các con cứ loay hoay lẩn quẩn với ảo tưởng quái gở hăo huyền cùng những lạc thú giả tạo” (22-8-1967).

“Thời giờ các con sống trong những khoái lạc hăo huyền là thời giờ Cha chờ đợi con” (17/11/1967)

“Một Thiên Chúa báo oán chỉ là một Người Cha tội nghiệp khi phải trừng phạt con cái ḿnh để buộc chúng phải hồi tâm nghĩ lại” (19/12/1973)

“Nếu con cảm thấy ḿnh yếu đuối và bất lực, chính là v́ Cha đă mặc cho con đức khiêm hạ của một vị Thiên Chúa bị đóng đanh” (18/12/1967)

“Hăy dâng cho Cha nhân tính của con. Cha lại đă chẳng mặc lấy nó khi v́ yêu thương mà làm người hay sao? Cha sẽ mặc cho con thần tính của Cha để con yêu mến Cha bằng t́nh yêu của các thần trời” (10/4/1967)

“Cha không phải là một Thiên Chúa kềm kẹp con, mà là một Thiên Chúa làm cho con hoàn toàn phát triển theo ánh sáng của ḷng con ưng thuận trước những ơn soi động của Cha. Ngay cả khi Cha muốn con nên trọn lành, trong khi đó t́nh yêu của con vẫn cứ bất toàn, th́ hỡi con nhỏ của Cha, Cha lại đă chẳng mặc lấy nhân tính của con làm như của Cha hay sao?... Ngày gặp đêm rồi mất hút trong đêm thế nào. Cũng vậy, từ ánh sáng mà ra, linh hồn đi sâu vào tăm tối. Thế nhưng, ân sủng phát sinh một ngày mới c̣n tươi sáng hơn cả ngày trước đó, v́ nó giải cứu linh hồn khỏi bóng đêm phong tỏa linh hồn” (19/8/1967)

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL