Chúa Nhật

Ngày 22/2: Thánh Magaret of Cortona (1247-1297)

Là người con gái đẹp của một nông gia.

Làm vợ lẽ cho một danh gia và sinh hạ một con trai.

Aên năn thống hối tội lỗi sau khi tình nhân chết.

Nguyện cầu và đền tội suốt quãng đời còn lại.

 


CHÚA NHẬT VII
MTN-C

 


BÀI ĐỌC I: 1 Sam 26:2, 7-9, 12-13, 22-23
“Chúa trao đức vua trong tay tôi mà tôi không nỡ ra tay”

Bài trích sách Samuel quyển thứ nhất.

Trong những ngày ấy, Saolê cùng với ba ngàn quân sĩ tinh nhuệ của Israel kéo xuống hoang địa Ziphê để vây bắt Đavít. Ban đêm Đavít và Abisai đến nơi quân sĩ đóng, và thấy Saolê đang nằm ngủ trong lều, cây giáo của ông thì cắm xuống đất ở phía lều, Abner và quân sĩ thì ngủ chung quanh ông. Abisai liền nói với Đavít rằng: “Hôm nay, Thiên Chúa đã trao kẻ thù trong tay ngài; vậy giờ đây xin cho tôi lấy giáo đâm ông ấy một phát thâu xuống đất, không cần đến phát thứ hai”. Nhưng Đavít nói với Abisai rằng: “Chớ giết ngài, vì có ai đưa tay phạm đến Đấng Chúa xức dầu mà vô tội đâu?” Rồi Đavít lấy cây giáo và bình nước ở phía đầu của Saolê và cả hai ra đi. Không ai hay biết và không ai thức dậy, nhưng mọi người vẫn ngủ, vì Chúa khiến họ ngủ say. Đavít sang phía bên kia, đứng trên ngọn núi đàng xa, đôi bên cách xa nhau. Ngài hô lên rằng: “Đây là ngọn giáo của nhà vua, một trong các cận vệ của vua hãy qua đây mà lấy, Chúa sẽ báo đáp cho mỗi người tùy theo sự công minh và thành tín của họ, vì hôm nay Chúa trao đức vua trong tay tôi mà tôi không nỡ ra tay giết đấng được Chúa xức dầu”.

Lời của Chúa.


Đáp ca: (Xin mời Cộng đoàn thưa)
Chúa là Đấng từ bi và hay thương xót.

1.      Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và toàn thể con người tôi, hãy chúc tụng danh Người. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của Người.

2.      Người đã tha thứ cho mọi điều sai lỗi, và chữa ngươi khỏi mọi tật nguyền. Người chuộc mạng ngươi khỏi chỗ vong thân, Người đội đầu ngươi bằng mão từ bi, ân sủng.

3.      Chúa là Đấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân. Người không xử với chúng tôi như chúng tôi đắc tội, và không trả đũa theo điều oan trái chúng tôi.

4.      Cũng như từ đông sang tây xa vời vợi, Người đã ném tội lỗi xa khỏi chúng tôi. Cũng như người cha yêu thương con cái, Chúa yêu thương những ai kính sợ Người.


BÀI ĐỌC II: 1 Cor 15:45-49
“Như chúng ta đã mang hình ảnh của người thuộc địa giới thì chúng ta cũng sẽ mang hình ảnh người thiên quốc như vậy”

Bài trích thơ thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, Ađam cũ là người có sự sống, còn Ađam mới thì có thần trí ban sự sống. Những điều có trước, không phải thuộc linh giới, mà là thuộc thể giới, rồi mới đến cái thuộc về linh giới. Người thứ nhất bởi đất mà ra, thì thuộc về địa giới, còn người thứ hai bởi trời mà đến, thì thuộc thiên giới. Người thuộc địa giới đó thế nào, thì những người khác thuộc địa giới cũng vậy; và người thuộc thiên giới đó thế nào, thì những người khác thuộc thiên giới cũng vậy. Bởi thế, như chúng ta đã mang hình ảnh của người thuộc địa giới, thì chúng ta cũng sẽ mang hình ảnh người thiên quốc như vậy.

Lời của Chúa.


(Xin mời Cộng đoàn đứng)
Alleluia, alleluia. — Lạy Chúa, lời của Chúa là thần trí và là sự sống; Chúa có những lời ban sự sống đời đời. — Alleluia.


PHÚC ÂM: Lc 6:27-38
“Các con hãy tỏ lòng thương xót như Cha các con hay thương xót”

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Thầy bảo các con đang nghe Thầy đây: Các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy chúc phúc cho những kẻ nguyền rủa mình, hãy cầu nguyện cho những kẻ vu khống mình. Ai vả má con bên nầy, thì đưa cả má bên kia; ai lột áo ngoài của con, thì con cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin, thì con hãy cho và ai lấy gì của con, thì đừng đòi lại. Các con muốn người ta làm điều gì cho các con, thì hãy làm cho người ta như vậy. Nếu các con yêu những kẻ yêu các con, thì còn ân nghĩa gì nữa? Vì cả những người tội lỗi cũng yêu những ai yêu họ. Và nếu các con làm ơn cho những kẻ làm ơn cho các con, thì còn ân nghĩa gì nữa? Cả những người tội lỗi cũng làm như vậy. Và nếu các con cho ai vay mượn mà trông người ta trả lại, thì còn ân nghĩa gì? Cả những người tội lỗi cũng cho những kẻ tội lỗi vay mượn, để rồi được trả lại sòng phẳng. Vậy các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mượn mà không trông báo đền. Phần thưởng của các con bấy giờ sẽ lớn lao, và các con sẽ là con cái Đấng Tối Cao, vì Người nhân hậu với những kẻ bội bạc và những kẻ gian ác. Vậy các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ. Đừng xét đoán, thì các con sẽ khỏi bị xét đoán; đừng kết án, thì các con khỏi bị kết án; Hãy tha thứ, thì các con sẽ được tha thứ. Hãy cho, thì sẽ cho lại các con; người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn, đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo các con. Vì các con đong đấu nào, thì cũng sẽ được đong trả lại bằng đấu ấy”.

Phúc Âm của Chúa.

 

SUY NIỆM

 

XÉT ĐOÁN HAY KHÔNG XÉT ĐOÁN

Trần Mỹ Duyệt



Xét đoán là một hành động thường đem lại những kết quả tai hại cho cả người xét đoán lẫn người bị xét đoán, nhất là sự xét đoán ấy lại kéo theo hành động kết án một người. Chính vì thế, không xét đoán và kết án người khác không những là một triết lý sống, mà còn là một giới luật để ta sống bằng an, hòa thuận với mọi người: “Đừng xét đoán và ngươi khỏi bị xét đoán. Đừng kết án ai, để khỏi bị kết án” (Luc 6:37).

Luật sống này nếu áp dụng một cách đứng đắn, đầy đủ, nó sẽ mang lại không những sự bình an trong tâm hồn, mà còn tạo được sự thông cảm, loại bỏ được rất nhiều nghi kỵ, đụng chạm, và đổ vỡ trong cuộc sống. Tôi có một người bạn thân mà tôi cảm phục và nể trọng vì anh không hề xét đoán hoặc kết án ai. Lối sống của anh phản ảnh lý thuyết “tuyệt đối”. Trong mọi công việc anh dường như muốn đạt tới mức hoàn hảo nhất. Với cá tính ấy và với lối sống ấy, bình thường người ta rất dễ khó chịu và đụng chạm. Những người như vậy rất nhậy cảm và dị ứng với những hành vi sai trái, những khuyết điểm dù nhỏ mọn nhất của những người chung quanh. Và điều này thường đưa đến kết quả là phê bình, xét đoán; ít nhất là phê bình để xây dựng, một hình thức tự bào chữa của hành động xét đoán.

Thế nhưng trong cuộc sống, và qua những giao tiếp thường ngày, tôi không hề nghe anh phê phán hoặc kết án ai bao giờ. Nếu có những chuyện cần phải mổ xẻ, phân tích, hoặc nhận xét, anh luôn tự bào chữa, hoặc cắt nghĩa tốt cho người khác. Lối hành xử này đôi khi làm tôi cũng bực mình, và đã có những lần bất đồng ý kiến. Tuy nhiên, sau cùng thì bạn bè, và ngay cả chính tôi ai cũng phải công nhận và kính trọng anh vì lối sống ấy.

Nhưng sao Chúa Giêsu lại cấm ta không được xét đoán và kết án? Chúa có lý của Ngài. Thật vậy, khi một tư tưởng xét đoán hiện ra trong trí ta, lập tức nó bị choán ngợp bởi những yếu tố chủ quan và khách quan. Khách quan trong những trường hợp này là những lý lẽ tự biện minh cho hành động xét đoán. Thí dụ, tôi là người hiểu biết, kinh nghiệm, giầu kiến thức, và học thức. Tôi nắm vững vấn đề và có đầy đủ tài liệu liên quan đến lỗi lầm hay khuyết điểm của người này, người khác. Rất tiếc, những ý tưởng ấy lại không khách quan tí nào, và thường bị chi phối bởi cảm tình, cá tính, bởi ảo tưởng, ảo ảnh, ảo giác và được thổi phồng bằng thái độ tự tôn, tự đắc về những thành tích của mình. Chính vì thế, theo tâm lý học, xét đoán là hậu quả của một hành động thiếu trưởng thành và tự tin.

Sự thiếu trưởng thành về tâm lý này không chỉ tạo nên khó khăn, gây phiền phức cho những người trong cuộc, mà còn làm ngăn trở, tác hại mối tương giao trong cuộc sống. Vì quá dị ứng và nhậy cảm với những yếu điểm của mình và khuyết điểm của người khác, nên những người hay xét đoán luôn gây phiền hà, khó chịu, càu nhàu, kêu ca với mọi người, và mọi hoàn cảnh. Họ rất dễ phê phán, kết án người này, người khác mặc dù họ có đủ lý lẽ hay không đủ lý lẽ.

Người trưởng thành và tự tín luôn hành xử khác hẳn. Họ cởi mở và thoải mái nhưng luôn chừng mực. Họ hiểu khuyết điểm và sự yếu kém của mình và của con người. Họ mong mỏi và kiếm tìm sự hoàn thiện và tuyệt đối, nhưng chấp nhận sự yếu đuối và tương đối. Trước mặt họ không phải là ai có tội hay có lỗi, mà là phải khách quan đặt mìnnh vào hoàn cảnh khác nhau của mỗi người để thông cảm, chia sẻ, và nâng đỡ. Vì biết mình, biết người và cảm thông được thân phận con người, nên họ không vội vã phê bình, xét đoán và kết án. Họ là người đến trước, bắt tay và tự giới thiệu mình trong những lần gặp gỡ và hội hè. Họ không ngồi chờ người khác đến bắt tay và giới thiệu mình với họ. Bởi vì họ tự biết mình và tự tin ở mình, nên không hoảng sợ khi đứng trước mặt một người khác, mặc dù người ấy là ai. Do đó, họ trút bỏ được mặc cảm tự ty, và cũng không cần xét nét, đoán xét người khác. Họ là bạn của mọi người, chứ không phải mọi người là bạn của họ.

Không biết, và không phải là chủ nhân của trí tuệ con người mà dám làm công việc của Đấng biết, và làm chủ trí tuệ con người là một hành động kiêu ngạo. Nó làm cho Thượng Đế nổi giận, cũng như Ngài đã nổi giận với Adong và Evà trong vườn Diệu Quang khi hai vị này muốn bằng Ngài. Ngoài ra, hành động xét đoán và kết án còn đem đến những bất công cho người bị xét đoán.

Yếu tố chủ quan hay cũng gọi là yếu tố tiêu cực trong xét đoán, là người xét đoán lúc nào cũng chỉ nhìn và suy nghĩ đến những điều tiêu cực, những cái xấu, và những việc làm mà họ nghĩ là sai trái của người khác. Hành động này nếu được thổi phồng bằng mặc cảm, ghen tương, và sự thù ghét thì hậu quả thật trầm trọng. Nó sẽ gây một ấn tượng về người bị xét đoán mà phải cần đến yếu tố thời gian mới có thể gột rửa được.

Đến đây thì xét đoán và hành động xét đoán đã lan lây qua một khía cạnh khác, là thành kiến. Tôi có thành kiến về người này, người kia. Tôi có thành kiến về hành động này hay hành động khác. Thí dụ, người Công Giáo hiện nay đang bị bao vây bởi thành kiến về đời sống và sự thánh thiện của các linh mục. Những thành kiến này đến từ dư luận, ác cảm cá nhân, thù ghét, ghen tương của một số người đối với một số linh mục hoặc Giám Mục. Nhưng việc xét đoán nông nổi và “vơ đũa cả nắm” ấy đã tạo nên một tác dụng hết sức trầm trọng và bất lợi cho đời sống tâm linh của một số người. Kết quả là một số người Công Giáo đã bỏ đạo.

Ngoài ra, xét đoán còn ảnh hưởng cả đến ngôn ngữ và hành vi của người xét đoán. Vì nghĩ rằng người nào đó không tốt nên ta có sẵn thứ ngôn ngữ và hành vi không xứng hợp mỗi khi phải đối diện. Ta cho rằng họ không đáng cho mình nể trọng, giao thiệp, hoặc kết thân. Xét đoán trong trường hợp này đã đi đến kết án. Ta kết án một người dựa vào những gì mình xét đoán.

Nhưng điều quan trọng là người xét đoán ít khi sống bình an; ngược lại, họ luôn luôn bị xét đoán bằng chính lương tâm của họ. Cái làm họ khổ nhất là luôn nhìn thấy mình có lỗi, và phải tìm kiếm lý lẽ để bào chữa lỗi mình. Thử hỏi có một ai trên đời này mà không có lỗi, chính vì thế, họ trở thành sợ hãi và hoảng hốt khi nghe ai phê bình hoặc nhận xét về họ. Nếu sự hoảng sợ này đến cao điểm, có thể dẫn đến sự bất ổn về tâm lý. Từ đó, họ thu kín, và tránh né. Đa nghi, và hoảng sợ đó là kết quả của những tâm hồn mất bình an, mà kết quả là tính hay xét đoán và kết án người này, người khác.

Tóm lại, khi Chúa Giêsu bảo đừng xét đoán và kết án, Ngài không bảo ta chỉ dừng lại ở hành động xét đoán hay phê phán, kết tội người này người khác. Nhưng Ngài bảo ta phải nhìn vào chính mình, để tỏ ra rộng lượng, tha thứ, và thông cảm với anh chị em mình. Đây là khởi điểm của đức ái, của sự bình an tâm hồn, và của một đời sống hài hòa, hạnh phúc: “Đừng xét đoán và ngươi khỏi bị xét đoán. Đừng kết án ai, để khỏi bị kết án” (Luc 6:37).


 

Tình Thương là Cốt Lõi của Tình Yêu và là Tột Đỉnh Trọn Lành

 


“Tôi không cần các người thương”

Bài Phúc Âm Chúa Nhật VII Thường Niên Năm C tuần này, tiếp theo bài Phúc Âm tuần trước về việc Chúa Giêsu chúc phúc nguyền rủa liên quan đến tứ phúc đức và tứ ác đức, thuật lại việc Chúa Giêsu dạy các môn đệ những phúc đức trọn lành, cho đến độ sống nhân từ như Cha trên trời với mọi người, nhất là đối với những người thù địch của mình.

Ở đây, như mở đầu Bài Giảng Trên Núi được Thánh Ký Mathêu thuật lại, mục đích Chúa dạy các môn đệ của Người như thế là vì Người muốn các môn đệ của Người phải sống trọn lành, chẳng những hơn thành phần tội nhân, thành phần dân ngoại, mà còn hơn cả thành phần luật sĩ và biệt phái thông luật song không giữ luật hay giữ luật theo hình thức chứ không phải theo tinh thần của luật là đức ái.

Tất cả những gì Chúa Giêsu dạy trong suốt cả bài Phúc Âm này là những điều Người muốn khai triển hay dẫn giải về câu chủ yếu đầu tiên Người nói: “Các con hãy yêu keœ thù, hãy làm ơn cho những keœ ghét mình, hãy chúc phúc cho những keœ ngược đãi mình, hãy cầu nguyện cho những keœ vu khống mình”. Bởi vì, ai thực hành được câu đầu tiên này là thực hành hết những gì Người dạy thi hành ở phần dưới sau đó, hay nói ngược lại, ai thi hành được tất cả những gì Người dạy sau khi nói câu đó là người thi hành được câu đầu tiên này.

Thực vậy, qua bài Phúc Âm Chúa Nhật VII Thường Niên Năm C tuần này, Chúa Giêsu muốn các môn đệ của Người phải “yêu kẻ thù”, một tình yêu cần phải được tỏ ra bằng ba thái độ cụ thể: làm ơn cho keœ ghen ghét mình, chúc phúc cho keœ nguyền ruœa mình, và cầu nguyện cho keœ ngược đãi mình. Nếu để ý kỹ ba thái độ cụ thể trên đây, chúng ta chẳng những thấy tính cách lành dữ đối chọi nhau, như làm ơn đối lại ghen ghét, chúc phúc đối lại nguyền rủa và cầu nguyện đối lại ngược đãi, mà còn thấy được cả tiến trình đảo ngược của tâm ngôn hành ở những thái độ “yêu kẻ thù” này nữa. Không phải hay sao, phân tích kỹ câu thực hiện đức ái trọn hảo này, nạn nhân phải tỏ ra hành động (“làm ơn”) đối lại với tâm hồn (“ghen ghét”) của kẻ thù, sau đó, nạn nhân còn phải lấy ngôn từ (“chúc phúc”) đối lại với ngôn ngữ (“nguyền rủa”) của kẻ thù, sau hết, nạn nhân phải lấy tâm hồn (“cầu nguyện”) đối lại với hành động (“ngược đãi”) của kẻ thù. Với cả con người tâm ngôn hành sống đức ái trọn hảo như thế, thành phần môn đệ của Chúa Kitô mới đạt đến tầm mức trọn lành như Cha trên trời, như Chúa Giêsu đề cập đến trong Phúc Âm Thánh Mathêu (5:48), hay mới “xót thương như Cha là Đấng thương xót”, như Người phán trong bài Phúc Âm Thánh Luca (6:36) hôm nay.

Tuy nhiên, vấn đề được đặt ra ở đây là, đối với tâm lý trần gian thì xót thương hay thương xót là một vấn đề rất tế nhị và thường đụng chạm dữ dội đến tự ái của con người. Đó là lý do chúng ta vẫn hay nghe thấy những lời nói hay chứng kiến thấy những thái độ cho rằng “tôi không cần các người thương!” Vậy thái độ “tôi không cần các người thương” đây quả thực đúng hay sai, tự trọng hay tự cao, tự vệ hay tự ái?

Trước hết, theo Mạc Khải Thần Linh, một mạc khải được sáng tỏ chẳng những nơi giáo huấn mà còn nơi cả hành động sống động của Chúa Giêsu Kitô, một Con Người lịch sử được tác giả Bức Thư gửi Do Thái ở đoạn 1 câu 3 xác tín “là hiện thân đích thực của hữu thể Cha”, thì phải chân nhận thái độ thương xót là tầm mức cao nhất của tình yêu, có thể nói, là chân dung đích thực của tình yêu, là cốt lõi của tình yêu, đến nỗi, yêu mà không thương thì kể như chưa yêu thực sự hay chưa thực sự yêu, nếu không muốn nói là yêu một cách hàm hồ, một cách hời hợt, một cách vị kỷ, yêu cho tới khi không được như ý thì bỏ, tức yêu một cách giả dối. Không phải hay sao, nếu ngay từ ban đầu con người đang còn ở trong tình trạng công chính nguyên thủy, nghĩa là con người còn đang ở trong tình trạng tốt lành, dễ thương, thì được Thiên Chúa yêu, song một khi họ vừa quay ra phản bội Ngài, bằng việc phải lòng ma quỉ, nghe theo lời đường mật dụ dỗ của hắn mà trắng trợn bỏ Ngài, liền bị Ngài phạt chết ngay lập tức, không còn kịp nhận ra lầm lỗi của mình và thống hối trở về với Ngài nữa, thì chắc loài người sẽ không bao giờ nhận ra Vị “Thiên Chúa là tình yêu”, như Tông Đồ Gioan đã định nghĩa về Ngài trong Thư Thứ Nhất ở đoạn 4, câu 8 và 16.

Phải, chính vì “Thiên Chúa là tình yêu” mà “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến ban Con một của Ngài, để thế gian nhờ Con mà được sự sống trường sinh”, như chính lời xác nhận của Chúa Giêsu trong Phúc Âm Thánh Gioan ở đoạn 3 câu 16. Thế nhưng, đối tượng được Ngài yêu thương ban chính bản thân của mình là Con Ngài cho đây lại là một thế gian đã bị trở nên ô uế, bất xứng với bản tính Chí Thiện, Chí Tôn, Chí Thánh của Ngài, đúng như nhận định của Vị Tông Đồ Dân Ngoại trong Thư gửi Giáo Đoàn Rôma ở đoạn 5 câu 8: “Thiên Chúa đã tỏ cho chúng ta thấy Ngài yêu thương chúng ta ở chỗ đang khi chúng ta còn là những tội nhân thì Chúa Kitô đã chết đi cho chúng ta”. Có nghĩa là, Vị Tông Đồ Dân Ngoại còn nói rõ hơn cũng trong cùng bức thư này ở đoạn 8 câu 32, đó là, “Thiên Chúa đã không dung tha cho Con mình, một phó nạp Người vì tất cả chúng ta”. Bởi thế, chính Con Thiên Chúa nhập thể, Đấng đã xác nhận trong Phúc Âm Thánh Gioan ở đoạn 3 câu 17: “Thiên Chúa không sai Con mình đến thế gian để luận phạt thế gian mà là để thế gian nhờ Người mà được cứu độ”, cũng là Đấng đã thực sự, như lời Người tuyên bố trong Phúc Âm Thánh Mathêu ở đoạn 20 câu 28: “Con Người đến không phải để được hầu hạ mà là để hầu hạ, để hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho nhiều người”. Và, như lịch sử đã cho chúng ta thấy, đúng như Người đã tuyên bố trong Phúc Âm Thánh Gioan Người ở đoạn 10 câu 10, Người thực sự đã là một “vị mục tử nhân hậu, vị mục tử nhân hậu hiến mạng sống mình vì chiên, để cho chúng được sự sống, một sự sống viên mãn hơn”, khi Người giang tay trên câp thập giá vô cùng đau thương và nhục nhã.

Nếu cũng ở Bài Giảng Trên Núi, Giêsu đã kêu gọi các môn đệ trong Phúc Âm Thánh Mathêu ở đoạn 5 câu 48: “Các con hãy nên trọn lành như Cha trên trời của các con là Đấng trọn lành”, và trong Phúc Âm Thánh Luca hôm nay, ở đoạn 6 câu 36, Chúa Giêsu lại kêu gọi: “Các con hãy xót thương như Cha là Đấng thương xót”, thì không phải xót thương là trọn lành hay sao, và nên trọn lành chính là tỏ lòng xót thương hay sao? Phúc Âm Thánh Luca hôm nay còn cho biết thêm những chi tiết cần phải thực hành để có thể tỏ ra con người môn đệ của Người thực sự đã biết “xót thương như Cha là Đấng thương xót”, đó là “không xét đoán… không lên án… thứ tha… ban phát”. Đúng thế, một con người biết xót thương thực sự, họ sẽ không bao giờ dám xét đoán ai theo chủ quan hay thành kiến vốn xu hướng xấu của mình, cho dù họ có thấy cái dở, cái xấu của ai và nơi ai, họ cũng không lên án (con người làm bậy), trái lại, họ rất thông cảm và tìm cách giúp con người đáng thương đó cải tiến (những hành động sai quấy đáng bị lên án và sửa sai). Nếu chính họ là nạn nhân trong cuộc, họ chẳng những, về phần tiêu cực, phải biết “thứ tha” cho kẻ làm khốn mình, mà còn, về phần tích cực, phải “ban phát”, tức “làm ơn cho kẻ ghét mình”, như lời Chúa Giêsu dạy ở đầu bài Phúc Âm. Kitô giáo không phải chỉ có tấm lòng “từ bi hỉ xả” mà còn phải dấn thân “yêu kẻ thù mình” nữa.

Như thế, nếu tình thương là một sự thiện, là một cái gì tuyệt hảo nhất, tuyệt diệu nhất trên trần gian ô trọc đáng thương này, thì ai không cần thương hay coi thường tình thương tức là chẳng những không hiểu được tình thương mà vì thế cũng chẳng hiểu gì về bản thân của mình. Thật vậy, trong Bức Thông Điệp của ĐTC Gioan Phaolô II về Chúa Cha, mang tựa đề: “Giầu Lòng Xót Thương” ban hành ngày 30/11/1980, chúng ta thấy có hai đoạn liên quan đến chiều hướng trên đây, một đoạn về bản chất của tình thương liên hệ với tình yêu, và một đoạn về thái độ của con người ngày nay bất cần tình thương.

“Ai là anh em tôi?”

Trước hết, về bản chất của tình thương liên hệ với tình yêu, ĐTC nhận định ở đoạn 7 như sau: “Tình thương là một chiều kích không thể nào tách rời của tình yêu; nó thực sự như là một danh hiệu thứ hai của tình yêu, đồng thời, là một thể thức đặc biệt cho tình yêu tỏ mình ra và tác dụng ngược lại với thực tại của sự dữ trong thế giới đang chi phối và bủa vây con người, đang thấm vào tận tâm can họ và có khả năng khiến cho họ bị 'tử vong trong Hỏa Ngục' (Mt.10:28)"; và ở giữa đoạn 8, ĐTC nhận định tiếp: “Trong việc hoàn thành cánh chung, tình thương sẽ được mạc khải như là tình yêu, ngược lại, ở giai đoạn tạm thời này, nơi lịch sử nhân loại cũng là lịch sử của tội lỗi và sự chết, tình yêu trước hết phải được mạc khải như là tình thương và cũng phải hiện thực như là tình thương”.

Sau nữa, về thái độ của con người ngày nay bất cần tình thương, ở đoạn 2, ĐTC nhận xét thế này: "Tâm thức ngày nay, có lẽ hơn cả của con người trong quá khứ, tỏ ra chống lại với một vị Thiên Chúa của tình thương, và thực tế cho thấy có khuynh hướng loại trừ ra khỏi đời sống và lấy nó ra khỏi cõi lòng con người ngay cả tư tưởng về tình thương nữa. Từ ngữ và ý niệm về 'tình thương' như gây nên một cái gì bất ổn nơi con người, thành phần mà, nhờ việc tiến triển khổng lồ về khoa học và kỹ thuật chưa bao giờ có trong lịch sử, đã trở nên chủ nhân ông của trái đất, và đã cai trị cùng thống trị nó. Việc thống trị trái đất này, đôi khi được hiểu một chiều và nông cạn, xem ra không còn chỗ cho tình thương”.

Tuy nhiên, dầu sao cũng phải công nhận rằng, trên thực tế, câu nói hay thái độ “tôi không cần đến các người thương”, không nhiều thì ít, cũng mật thiết liên quan đến thái độ của chủ thể tỏ tình thương bằng giọng điệu như: “tôi thấy thương hại người ấy, họ là một người thật là tội nghiệp đáng thương”. Đúng vậy, dù tình thưong tự bản chất của mình có tuyệt vời đến thế nào đi nữa, nếu con người không biết sử dụng nó, thì thay vì nó có tác dụng tốt lại gây ra phản ứng xấu. Sở dĩ đối tượng được thương tỏ ra thái độ “tôi không cần các người thương”, một trong những lý do của thái độ phản ứng đầy tự ái này đó là vì cách tỏ tình thương của chủ thể thương: “tôi thấy thương hại người ấy, họ là một người thật là tội nghiệp đáng thương”.

Đúng thế, tình thương là một sự thiện nâng con người đáng thương lên chứ không phải để ấn họ xuống càng sâu hơn. Đó là lý do, cũng trong Thông Điệp “Giầu Lòng Thương Xót” như vừa trích dẫn, ở cuối đoạn 6, ĐTC đã nhận định “Ý nghĩa chân thực và xứng hợp của tình thương không chỉ ở tại việc nhìn vào sự dữ luân lý, thể lý hay vật lý một cách thấm thía và thương hại: Tình thương được biểu hiện qua bộỉ mặt chân thực và xứng hợp của nó là khi nó phục hồi được giá trị, nâng cao và rút tỉa được sự thiện từ tất cả mọi hình thức của sự dữ đang hiện diện nơi thế giới cũng như nơi con người”. Theo ý hướng của lời ĐTC Gioan Phaolô II vừa diễn tả thì điển hình nhất của lòng xót thương chân thực và trọn hảo này đã được Chúa Giêsu diễn tả qua dụ ngôn người Samaritanô nhân lành trong Phúc Âm Thánh Luca ở đoạn 10 từ câu 33 đến câu 35, một kiểu xót thương nhanh nhẹn xuống lừa, ôm lấy nạn nhân xa lạ đang ngấp ngoái, vội vàng đem đi chữa trị cho đến khi lành mạnh, chứ không phải thái độ thương theo kiểu chủ nhân ông, theo kiểu trịch thượng từ cao nhìn xuống, kiểu thương hại, kiểu bố thí, kiểu “đồ con nít, không thèm chấp”, “không có ý nên tha cho” (vậy thì có ý thì không tha?) v.v.

Hơn thế nữa, để tỏ lòng thương người, chúng ta chẳng những phải biết tôn trọng phẩm giá của họ mà còn phải làm sao đồng hóa với họ nữa, ở chỗ, chúng ta phải biết tỏ ra thông cảm với họ, đến độ trở thành đáng thương như họ, giống trường hợp của chính Đấng chẳng những đã hóa thành nhục thể và ở với loài người, mà còn đồng hóa với tình trạng bần cùng nhất của loài người, nghĩa là cũng chịu “đói khát, trần truồng, xa lạ, tù ngục, bệnh nạn” như là “một trong những người anh em hèn mọn nhất” của Người, như Người đã tự nhận trong Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 25 khi nói về ngày chung thẩm. Đó là lý do, trong cùng Thông Điệp vừa được trích dẫn, ở giữa đoạn 8, ĐTC đã nói đến thân phận đáng thương của Con Ngài như sau: “Theo một ý nghĩa đặc biệt, Thiên Chúa cũng mạc khải tình thương của Ngài ra khi Ngài mời gọi con người 'hãy thương xót' Con Một của Ngài, một con người tử giá”.

Tóm lại, theo tôi, con người càng xót thương thì càng trở nên đáng thương, đúng như mối Phúc Đức Thứ Năm trong Tám Mối Phúc Đức: “Phúc cho ai biết xót thương vì sẽ được thương xót”. Và dấu hiệu chứng tỏ chúng ta có thực sự thương người hay chăng, là ở chỗ chúng ta có “trở nên mọi sự cho mọi người” hay chăng, một tình trạng được Thánh Phaolô nói tới trong Thư Thứ Nhất gửi Giáo Đoàn Côrintô ở đoạn 9 câu 23? Nếu có, con người mới được hoàn toàn hiệp thông với Thiên Chúa, một mối hiệp thông là chính thực tại của đức ái trọn hảo, của tầm vóc nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành vậy.

Tinh thần thương xót là tột đỉnh của tình yêu theo Lời Chúa trong bài Phúc Âm hôm nay rất đúng ở môi trường hôn nhân ngày nay. Thật thế, vì hôn Nhân bắt nguồn từ yêu thương, bởi thế, hôn nhân chỉ bền vững và trọn hảo trong yêu thương. Tuy nhiên, kinh nghiệm cho thấy, yêu mà không thương chỉ là một tình yêu một thời, nông nổi và dễ vỡ. Yêu mà không thương con người chỉ tìm kiếm những cái đẹp, cái tốt nơi nhau, hay những cái của nhau hợp với mình và lợi cho mình mà thôi, nếu không tìm thấy cái đẹp, cái hay, cái tốt, cái lợi cho mình, trái lại, còn gặp thấy hay còn nhìn thấy những cái xấu, cái dở, cái ngứa tai gai mắt nơi nhau thì làm sao có thể chấp nhận nhau được mà không tiến tới chỗ ly dị nhau.

Còn yêu đi với thương là yêu cả những gì không hợp với mình, cả những gì bất toàn nơi nhau, cả những gì đáng được thông cảm và nâng đỡ. Thương đây không phải là thương hại, từ trên nhìn xuống, mà là thái độ tôn trọng ngôi vị của nhau, với tất cả bản chất làm nên con người cá biệt của nhau. Chính vì thương là chấp nhận nhau ngôi vị của nhau chứ không phải lấn át, tẩy chay hay kỳ thị nhau, đi tới chỗ chia rẽ và đổ vỡ, thì tình thương chính là tuyệt đỉnh của tình yêu và dấu chứng tình yêu đích thực. Đó là lý do chỉ khi nào con người yêu nhau đến độ biết thương nhau họ mới có thể hiệp nhất nên một với nhau mà thôi. Bởi vì, tình yêu là ơn gọi hiệp thông!

Theo chiều hướng yêu bao giờ cũng đi với thương và thương là tột đỉnh của tình yêu, là cốt lõi của tình yêu như thế mà tôi bao giờ cũng chúc hôn như sau: một là dài - “Xin TÌNH YÊU nhân duyên đã hiệp nhất đôi tân hôn nên một trong đời sống hôn nhân đạt đến tầm mức toàn hảo của mình trong TÌNH THƯƠNG linh thánh”; hai là ngắn - “Chúc đôi TÂN HÔN tràn đầy HẠNH PHÚC trong YÊU THƯƠNG”.

Chính vì con người yêu nhau còn ở mức độ công bằng, mức độ tối thiểu, mức độ mà cả dân ngoại và thành phần tội nhân cũng làm được (x Mt 5:46-47), tức theo kiểu “ai là anh em của tôi?” (Lk 10:29), hay theo khuynh hướng chọn lựa người để yêu, theo ý thích và thiện ích của mình, ai yêu tôi thì tôi yêu lại, tôi chỉ yêu những người hợp với tôi thôi, mà thực tế cho thấy con người không thể nào thoát khỏi thái độ đối xử với nhau theo phản ứng tự nhiên, “mắt đền mắt răng đền răng”. Đó là lý do, như lịch sử cho thấy, con người đã không thể giải quyết được vấn đề kinh tế và chính trị theo công ích và cho công ích, đến nỗi họ đã đi đến chỗ đánh đấm nhau hết sức dữ dội và dai dẳng. Tình hình Thánh Địa là một trường hợp hết sức điển hình cho thấy đường lối giải quyết những xung khắc lợi lộc bằng việc (Palestine) khủng bố tấn công và (Do Thái) tấn công khủng bố, như càng xẩy ra kinh hoàng từ đầu thiên niên kỷ thứ ba tới nay, đã thực sự đi đến ngõ cụt và càng gây thêm máu đổ mạng vong vô ích. Trong Sứ Điệp cho Ngày Hòa Bình Thế Giới 2002 và 2004, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã lập lại tinh thần bác ái trọn lành, tinh thần thứ tha yêu thương kẻ thù của Kitô giáo theo lời Chúa Giêsu dạy trong bài Phúc Âm hôm nay, như sau:

“Nỗi khổ đau vĩ đại của các dân tộc cũng như của những con người, ngay cả của những người trong số bạn bè và quen biết của Tôi, do chế độ độc tài Nazi và Cộng Sản gây ra, Tôi không bao giờ quên được và cũng không thôi nguyện cầu. Tôi thường ngẫm nghĩ đến một vấn đề dai dẳng này là chúng ta làm thế nào để phục hồi lại trật tự về luân lý và xã hội, một trật tự bị lọt vào bàn tay của tình trạng bạo loạn khiếp đảm như thế?… Những cột trụ của nền hòa bình chân thực là công lý và là một mẫu yêu thương biết thứ tha (Sứ Điệp Hòa Bình 2002 đoạn 2). Thế nhưng, trong những hoàn cảnh hiện nay, chúng ta làm sao có thể nói đến công lý và thứ tha như là nguồn gốc và là điều kiện để tạo lập hòa bình đây? Cho dù có khó khăn đến mấy đi nữa, chúng ta cũng có thể nói và phải nói đến những vấn đề này… Thứ tha phản ngược lại với uất hận và trả thù, chứ không phải với công lý. Thật vậy, hòa bình thực sự là ‘việc của công lý’ (Is 32:17). Bởi thế hòa bình đích thực là hoa trái của công lý, một nhân đức luân lý và là một bảo toàn về pháp lý đưa đến chỗ biết hoàn toàn tôn trọng quyền lợi và nghĩa vụ của con người, cũng như đưa đến việc phân phối công bằng cả về những thiện ích lẫn gánh nặng. Thế nhưng, vì công lý của loài người luôn mỏng dòn và bất hảo, lệ thuộc hẳn vào những giới hạn và cái tôi của con người cũng như của phái nhóm, mà nó phải cần đến lòng thứ tha và cần phải thực hiện bằng một tấm lòng thứ tha, một lòng thứ tha hàn gắn chữa lành và tái thiết những mối liên hệ trần thế bị trục trặc tận căn gốc của chúng. Điều này đúng là như thế, ở những hoàn cảnh lớn nhỏ, ở tầm mức riêng tư hay bao rộng, ở cả ngay lãnh vực quốc tế nữa. Thứ tha không thể nào phản ngược lại với công lý, như thể thứ tha là bỏ qua nhu cầu cần phải sửa lại những gì sai quấy. Trái lại, nó là tầm mức trọn vẹn của công lý… Công lý và thứ tha đều là những gì thiết yếu cho việc hàn gắn ấy” (Sứ Điệp Hòa Bình 2002 đoạn 3)

“Để kết thúc những nhận định này, Tôi cảm thấy cần phải lập lại là, để thiết lập một nền hòa bình chân thực trên thế giới, công lý phải được nên trọn trong đức bác ái. Chắc chắn luật lệ là đường lối đầu tiên dẫn đến hòa bình, và dân chúng cần phải được dạy cho biết tôn trọng luật lệ này. Tuy nhiên, người ta không thể tiến đến cùng đích của đạo lộ này trừ phi công lý được yêu thương bổ khuyết cho. Công lý và yêu thương đôi khi có vẻ là những lực lượng phản nghịch nhau. Thật vậy, chúng chính là nhị diện của một thực tại duy nhất, là hai chiều kích của đời sống con người cần phải tương nhập trùng phùng. Kinh nghiệm lịch sử đã cho thấy điều này quả thực như thế. Nó cho thấy công lý thường không thể tách mình khỏi cái cảm giác bị nhục nhã, cảm giác hận thù và thậm chí cảm giác thỏa mãn trước đau khổ của người khác. Tự mình, công lý không đủ. Thật vậy, nó có thể phản bội chính mình, trừ phi nó biết hướng về một thứ mãnh lực sâu xa hơn đó là yêu thương. Vì lý do này, Tôi vẫn thường nhắc nhở Kitô hữu cũng như tất cả mọi con người thiện chí là cần phải thứ tha để giải quyết những vấn đề giữa cá nhân với nhau và các dân tộc với nhau. Hòa bình không thể nào có nếu thiếu thứ tha! Tôi xin lập lại điều này một lần nữa ở đây, khi Tôi đặc biệt nghĩ đến tình trạng khủng hoảng liên miên ở Palestine và Trung Đông: sẽ không thể nào tìm được một giải pháp cho các thứ vấn đề rắc rối nghiêm trọng gây khổ đau dai dẳng cho các dân ở vùng này cho tới khi thực hiện một quyết định vượt trên lý lẽ của một thứ công lý căn bản và hướng về lý lẽ của lòng thứ tha. Kitô hữu biết rằng yêu thương là lý do để Thiên Chúa thực hiện mối liên hệ với con người. Chính yêu thương đã làm cho Ngài đợi chờ con người đáp ứng. Bởi thế, yêu thương cũng là một hình thức cao quí nhất và sáng giá nhất nơi mối liên hệ khả thể giữa loài người với nhau. Bởi thế tình yêu cần phải dậy men nơi hết mọi lãnh vực của đời sống con người và bao hàm cả lãnh vực quốc tế. Chỉ có một thứ nhân loại được chủ trị bởi ‘nền văn minh yêu thương’ mới có thể hoan hưởng một nền hòa bình chân thực và bền vững mà thôi” (Sứ Điệp Hòa Bình 2004, đoạn 10)

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL