|
CHÚA NHẬT VII
MTN-C
BÀI ĐỌC I: 1 Sam 26:2, 7-9, 12-13, 22-23
“Chúa trao đức vua trong tay tôi mà tôi không nỡ ra tay”
Bài trích sách Samuel
quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, Saolê cùng với ba ngàn quân
sĩ tinh nhuệ của
Israel kéo xuống hoang địa Ziphê để vây bắt Đavít. Ban đêm Đavít và Abisai đến
nơi quân sĩ đóng, và thấy Saolê đang nằm ngủ trong lều, cây giáo của ông thì cắm
xuống đất ở phía lều, Abner và quân sĩ thì ngủ chung quanh ông. Abisai liền nói
với Đavít rằng: “Hôm nay, Thiên Chúa đã trao kẻ thù trong tay ngài; vậy giờ đây
xin cho tôi lấy giáo đâm ông ấy một phát thâu xuống đất, không cần đến phát thứ
hai”. Nhưng Đavít nói với Abisai rằng: “Chớ giết ngài, vì có ai đưa tay phạm đến
Đấng Chúa xức dầu mà vô tội đâu?” Rồi Đavít lấy cây giáo và bình nước ở phía đầu
của Saolê và cả hai ra đi. Không ai hay biết và không ai thức dậy, nhưng mọi
người vẫn ngủ, vì Chúa khiến họ ngủ say. Đavít sang phía bên kia, đứng trên ngọn
núi đàng xa, đôi bên cách xa nhau. Ngài hô lên rằng: “Đây là ngọn giáo của nhà
vua, một trong các cận vệ của vua hãy qua đây mà lấy, Chúa sẽ báo đáp cho mỗi
người tùy theo sự công minh và thành tín của họ, vì hôm nay Chúa trao đức vua
trong tay tôi mà tôi không nỡ ra tay giết đấng được Chúa xức dầu”.
Lời của Chúa.
Đáp ca: (Xin mời Cộng đoàn thưa)
Chúa là Đấng từ bi và hay thương xót.
1.
Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và toàn thể con người tôi, hãy chúc tụng
danh Người. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của
Người.
2.
Người đã tha thứ cho mọi điều sai lỗi, và chữa ngươi khỏi mọi tật nguyền. Người
chuộc mạng ngươi khỏi chỗ vong thân, Người đội đầu ngươi bằng mão từ bi, ân sủng.
3.
Chúa là Đấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân. Người
không xử với chúng tôi như chúng tôi đắc tội, và không trả đũa theo điều oan
trái chúng tôi.
4.
Cũng như từ đông sang tây xa vời vợi, Người đã ném tội lỗi xa khỏi chúng tôi.
Cũng như người cha yêu thương con cái, Chúa yêu thương những ai kính sợ Người.
BÀI ĐỌC II: 1 Cor 15:45-49
“Như chúng ta đã mang hình ảnh của người thuộc địa giới thì chúng ta cũng sẽ
mang hình ảnh người thiên quốc như vậy”
Bài trích thơ thứ nhất
của Thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, Ađam cũ là người có sự sống, còn
Ađam mới thì có thần trí ban sự sống. Những điều có trước, không phải thuộc linh
giới, mà là thuộc thể giới, rồi mới đến cái thuộc về linh giới. Người thứ nhất
bởi đất mà ra, thì thuộc về địa giới, còn người thứ hai bởi trời mà đến, thì
thuộc thiên giới. Người thuộc địa giới đó thế nào, thì những người khác thuộc
địa giới cũng vậy; và người thuộc thiên giới đó thế nào, thì những người khác
thuộc thiên giới cũng vậy. Bởi thế, như chúng ta đã mang hình ảnh của người
thuộc địa giới, thì chúng ta cũng sẽ mang hình ảnh người thiên quốc như vậy.
Lời của Chúa.
(Xin mời Cộng đoàn đứng)
Alleluia, alleluia. — Lạy Chúa, lời của Chúa là thần trí và là sự sống; Chúa có
những lời ban sự sống đời đời. — Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 6:27-38
“Các con hãy tỏ lòng thương xót như Cha các con hay thương xót”
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô
theo Thánh Luca
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng:
“Thầy bảo các con đang nghe Thầy đây: Các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho
những kẻ ghét mình, hãy chúc phúc cho những kẻ nguyền rủa mình, hãy cầu nguyện
cho những kẻ vu khống mình. Ai vả má con bên nầy, thì đưa cả má bên kia; ai lột
áo ngoài của con, thì con cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin, thì con hãy cho
và ai lấy gì của con, thì đừng đòi lại. Các con muốn người ta làm điều gì cho
các con, thì hãy làm cho người ta như vậy. Nếu các con yêu những kẻ yêu các con,
thì còn ân nghĩa gì nữa? Vì cả những người tội lỗi cũng yêu những ai yêu họ. Và
nếu các con làm ơn cho những kẻ làm ơn cho các con, thì còn ân nghĩa gì nữa? Cả
những người tội lỗi cũng làm như vậy. Và nếu các con cho ai vay mượn mà trông
người ta trả lại, thì còn ân nghĩa gì? Cả những người tội lỗi cũng cho những kẻ
tội lỗi vay mượn, để rồi được trả lại sòng phẳng. Vậy các con hãy yêu kẻ thù,
hãy làm ơn và cho vay mượn mà không trông báo đền. Phần thưởng của các con bấy
giờ sẽ lớn lao, và các con sẽ là con cái Đấng Tối Cao, vì Người nhân hậu với
những kẻ bội bạc và những kẻ gian ác. Vậy các con hãy ở nhân từ như Cha các con
là Đấng nhân từ. Đừng xét đoán, thì các con sẽ khỏi bị xét đoán; đừng kết án,
thì các con khỏi bị kết án; Hãy tha thứ, thì các con sẽ được tha thứ. Hãy cho,
thì sẽ cho lại các con; người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn, đã lắc và đầy tràn
mà đổ vào vạt áo các con. Vì các con đong đấu nào, thì cũng sẽ được đong trả lại
bằng đấu ấy”.
Phúc Âm của Chúa.
SUY NIỆM
XÉT ĐOÁN HAY KHÔNG XÉT ĐOÁN
Trần Mỹ Duyệt
Xét đoán là một hành động thường đem lại những kết quả tai hại cho cả người xét
đoán lẫn người bị xét đoán, nhất là sự xét đoán ấy lại kéo theo hành động kết án
một người. Chính vì thế, không xét đoán và kết án người khác không những là một
triết lý sống, mà còn là một giới luật để ta sống bằng an, hòa thuận với mọi
người: “Đừng xét đoán và ngươi khỏi bị xét đoán. Đừng kết án ai, để khỏi bị kết
án” (Luc 6:37).
Luật sống này nếu áp dụng một cách đứng đắn, đầy đủ, nó sẽ mang lại không những
sự bình an trong tâm hồn, mà còn tạo được sự thông cảm, loại bỏ được rất nhiều
nghi kỵ, đụng chạm, và đổ vỡ trong cuộc sống. Tôi có một người bạn thân mà tôi
cảm phục và nể trọng vì anh không hề xét đoán hoặc kết án ai. Lối sống của anh
phản ảnh lý thuyết “tuyệt đối”. Trong mọi công việc anh dường như muốn đạt tới
mức hoàn hảo nhất. Với cá tính ấy và với lối sống ấy, bình thường người ta rất
dễ khó chịu và đụng chạm. Những người như vậy rất nhậy cảm và dị ứng với những
hành vi sai trái, những khuyết điểm dù nhỏ mọn nhất của những người chung quanh.
Và điều này thường đưa đến kết quả là phê bình, xét đoán; ít nhất là phê bình để
xây dựng, một hình thức tự bào chữa của hành động xét đoán.
Thế nhưng trong cuộc sống, và qua những giao tiếp thường ngày, tôi không hề nghe
anh phê phán hoặc kết án ai bao giờ. Nếu có những chuyện cần phải mổ xẻ, phân
tích, hoặc nhận xét, anh luôn tự bào chữa, hoặc cắt nghĩa tốt cho người khác.
Lối hành xử này đôi khi làm tôi cũng bực mình, và đã có những lần bất đồng ý
kiến. Tuy nhiên, sau cùng thì bạn bè, và ngay cả chính tôi ai cũng phải công
nhận và kính trọng anh vì lối sống ấy.
Nhưng sao Chúa Giêsu lại cấm ta không được xét đoán và kết án? Chúa có lý của
Ngài. Thật vậy, khi một tư tưởng xét đoán hiện ra trong trí ta, lập tức nó bị
choán ngợp bởi những yếu tố chủ quan và khách quan. Khách quan trong những
trường hợp này là những lý lẽ tự biện minh cho hành động xét đoán. Thí dụ, tôi
là người hiểu biết, kinh nghiệm, giầu kiến thức, và học thức. Tôi nắm vững vấn
đề và có đầy đủ tài liệu liên quan đến lỗi lầm hay khuyết điểm của người này,
người khác. Rất tiếc, những ý tưởng ấy lại không khách quan tí nào, và thường bị
chi phối bởi cảm tình, cá tính, bởi ảo tưởng, ảo ảnh, ảo giác và được thổi phồng
bằng thái độ tự tôn, tự đắc về những thành tích của mình. Chính vì thế, theo tâm
lý học, xét đoán là hậu quả của một hành động thiếu trưởng thành và tự tin.
Sự thiếu trưởng thành về tâm lý này không chỉ tạo nên khó khăn, gây phiền phức
cho những người trong cuộc, mà còn làm ngăn trở, tác hại mối tương giao trong
cuộc sống. Vì quá dị ứng và nhậy cảm với những yếu điểm của mình và khuyết điểm
của người khác, nên những người hay xét đoán luôn gây phiền hà, khó chịu, càu
nhàu, kêu ca với mọi người, và mọi hoàn cảnh. Họ rất dễ phê phán, kết án người
này, người khác mặc dù họ có đủ lý lẽ hay không đủ lý lẽ.
Người trưởng thành và tự tín luôn hành xử khác hẳn. Họ cởi mở và thoải mái nhưng
luôn chừng mực. Họ hiểu khuyết điểm và sự yếu kém của mình và của con người. Họ
mong mỏi và kiếm tìm sự hoàn thiện và tuyệt đối, nhưng chấp nhận sự yếu đuối và
tương đối. Trước mặt họ không phải là ai có tội hay có lỗi, mà là phải khách
quan đặt mìnnh vào hoàn cảnh khác nhau của mỗi người để thông cảm, chia sẻ, và
nâng đỡ. Vì biết mình, biết người và cảm thông được thân phận con người, nên họ
không vội vã phê bình, xét đoán và kết án. Họ là người đến trước, bắt tay và tự
giới thiệu mình trong những lần gặp gỡ và hội hè. Họ không ngồi chờ người khác
đến bắt tay và giới thiệu mình với họ. Bởi vì họ tự biết mình và tự tin ở mình,
nên không hoảng sợ khi đứng trước mặt một người khác, mặc dù người ấy là ai. Do
đó, họ trút bỏ được mặc cảm tự ty, và cũng không cần xét nét, đoán xét người
khác. Họ là bạn của mọi người, chứ không phải mọi người là bạn của họ.
Không biết, và không phải là chủ nhân của trí tuệ con người mà dám làm công việc
của Đấng biết, và làm chủ trí tuệ con người là một hành động kiêu ngạo. Nó làm
cho Thượng Đế nổi giận, cũng như Ngài đã nổi giận với Adong và Evà trong vườn
Diệu Quang khi hai vị này muốn bằng Ngài. Ngoài ra, hành động xét đoán và kết án
còn đem đến những bất công cho người bị xét đoán.
Yếu tố chủ quan hay cũng gọi là yếu tố tiêu cực trong xét đoán, là người xét
đoán lúc nào cũng chỉ nhìn và suy nghĩ đến những điều tiêu cực, những cái xấu,
và những việc làm mà họ nghĩ là sai trái của người khác. Hành động này nếu được
thổi phồng bằng mặc cảm, ghen tương, và sự thù ghét thì hậu quả thật trầm trọng.
Nó sẽ gây một ấn tượng về người bị xét đoán mà phải cần đến yếu tố thời gian mới
có thể gột rửa được.
Đến đây thì xét đoán và hành động xét đoán đã lan lây qua một khía cạnh khác, là
thành kiến. Tôi có thành kiến về người này, người kia. Tôi có thành kiến về hành
động này hay hành động khác. Thí dụ, người Công Giáo hiện nay đang bị bao vây
bởi thành kiến về đời sống và sự thánh thiện của các linh mục. Những thành kiến
này đến từ dư luận, ác cảm cá nhân, thù ghét, ghen tương của một số người đối
với một số linh mục hoặc Giám Mục. Nhưng việc xét đoán nông nổi và “vơ đũa cả
nắm” ấy đã tạo nên một tác dụng hết sức trầm trọng và bất lợi cho đời sống tâm
linh của một số người. Kết quả là một số người Công Giáo đã bỏ đạo.
Ngoài ra, xét đoán còn ảnh hưởng cả đến ngôn ngữ và hành vi của người xét đoán.
Vì nghĩ rằng người nào đó không tốt nên ta có sẵn thứ ngôn ngữ và hành vi không
xứng hợp mỗi khi phải đối diện. Ta cho rằng họ không đáng cho mình nể trọng,
giao thiệp, hoặc kết thân. Xét đoán trong trường hợp này đã đi đến kết án. Ta
kết án một người dựa vào những gì mình xét đoán.
Nhưng điều quan trọng là người xét đoán ít khi sống bình an; ngược lại, họ luôn
luôn bị xét đoán bằng chính lương tâm của họ. Cái làm họ khổ nhất là luôn nhìn
thấy mình có lỗi, và phải tìm kiếm lý lẽ để bào chữa lỗi mình. Thử hỏi có một ai
trên đời này mà không có lỗi, chính vì thế, họ trở thành sợ hãi và hoảng hốt khi
nghe ai phê bình hoặc nhận xét về họ. Nếu sự hoảng sợ này đến cao điểm, có thể
dẫn đến sự bất ổn về tâm lý. Từ đó, họ thu kín, và tránh né. Đa nghi, và hoảng
sợ đó là kết quả của những tâm hồn mất bình an, mà kết quả là tính hay xét đoán
và kết án người này, người khác.
Tóm lại, khi Chúa Giêsu bảo đừng xét đoán và kết án, Ngài không bảo ta chỉ dừng
lại ở hành động xét đoán hay phê phán, kết tội người này người khác. Nhưng Ngài
bảo ta phải nhìn vào chính mình, để tỏ ra rộng lượng, tha thứ, và thông cảm với
anh chị em mình. Đây là khởi điểm của đức ái, của sự bình an tâm hồn, và của một
đời sống hài hòa, hạnh phúc: “Đừng xét đoán và ngươi khỏi bị xét đoán. Đừng kết
án ai, để khỏi bị kết án” (Luc 6:37).
Tình Thương là Cốt Lõi của Tình Yêu và là Tột
Đỉnh Trọn Lành
“Tôi không cần các người thương”
Bài Phúc Âm Chúa Nhật VII Thường Niên Năm C tuần này, tiếp theo bài Phúc Âm tuần
trước về việc Chúa Giêsu chúc phúc nguyền rủa liên quan đến tứ phúc đức và tứ ác
đức, thuật lại việc Chúa Giêsu dạy các môn đệ những phúc đức trọn lành, cho đến
độ sống nhân từ như Cha trên trời với mọi người, nhất là đối với những người thù
địch của mình.
Ở đây, như mở đầu Bài Giảng Trên Núi được Thánh Ký Mathêu thuật lại, mục đích
Chúa dạy các môn đệ của Người như thế là vì Người muốn các môn đệ của Người phải
sống trọn lành, chẳng những hơn thành phần tội nhân, thành phần dân ngoại, mà
còn hơn cả thành phần luật sĩ và biệt phái thông luật song không giữ luật hay
giữ luật theo hình thức chứ không phải theo tinh thần của luật là đức ái.
Tất cả những gì Chúa Giêsu dạy trong suốt cả bài Phúc Âm này là những điều Người
muốn khai triển hay dẫn giải về câu chủ yếu đầu tiên Người nói: “Các con hãy yêu
keœ thù, hãy làm ơn cho những keœ ghét mình, hãy chúc phúc cho những keœ ngược
đãi mình, hãy cầu nguyện cho những keœ vu khống mình”. Bởi vì, ai thực hành được
câu đầu tiên này là thực hành hết những gì Người dạy thi hành ở phần dưới sau đó,
hay nói ngược lại, ai thi hành được tất cả những gì Người dạy sau khi nói câu đó
là người thi hành được câu đầu tiên này.
Thực vậy, qua bài Phúc Âm Chúa Nhật VII Thường Niên Năm C tuần này, Chúa Giêsu
muốn các môn đệ của Người phải “yêu kẻ thù”, một tình yêu cần phải được tỏ ra
bằng ba thái độ cụ thể: làm ơn cho keœ ghen ghét mình, chúc phúc cho keœ nguyền
ruœa mình, và cầu nguyện cho keœ ngược đãi mình. Nếu để ý kỹ ba thái độ cụ thể
trên đây, chúng ta chẳng những thấy tính cách lành dữ đối chọi nhau, như làm ơn
đối lại ghen ghét, chúc phúc đối lại nguyền rủa và cầu nguyện đối lại ngược đãi,
mà còn thấy được cả tiến trình đảo ngược của tâm ngôn hành ở những thái độ “yêu
kẻ thù” này nữa. Không phải hay sao, phân tích kỹ câu thực hiện đức ái trọn hảo
này, nạn nhân phải tỏ ra hành động (“làm ơn”) đối lại với tâm hồn (“ghen ghét”)
của kẻ thù, sau đó, nạn nhân còn phải lấy ngôn từ (“chúc phúc”) đối lại với ngôn
ngữ (“nguyền rủa”) của kẻ thù, sau hết, nạn nhân phải lấy tâm hồn (“cầu nguyện”)
đối lại với hành động (“ngược đãi”) của kẻ thù. Với cả con người tâm ngôn hành
sống đức ái trọn hảo như thế, thành phần môn đệ của Chúa Kitô mới đạt đến tầm
mức trọn lành như Cha trên trời, như Chúa Giêsu đề cập đến trong Phúc Âm Thánh
Mathêu (5:48), hay mới “xót thương như Cha là Đấng thương xót”, như Người phán
trong bài Phúc Âm Thánh Luca (6:36) hôm nay.
Tuy nhiên, vấn đề được đặt ra ở đây là, đối với tâm lý trần gian thì xót thương
hay thương xót là một vấn đề rất tế nhị và thường đụng chạm dữ dội đến tự ái của
con người. Đó là lý do chúng ta vẫn hay nghe thấy những lời nói hay chứng kiến
thấy những thái độ cho rằng “tôi không cần các người thương!” Vậy thái độ “tôi
không cần các người thương” đây quả thực đúng hay sai, tự trọng hay tự cao, tự
vệ hay tự ái?
Trước hết, theo Mạc Khải Thần Linh, một mạc khải được sáng tỏ chẳng những nơi
giáo huấn mà còn nơi cả hành động sống động của Chúa Giêsu Kitô, một Con Người
lịch sử được tác giả Bức Thư gửi Do Thái ở đoạn 1 câu 3 xác tín “là hiện thân
đích thực của hữu thể Cha”, thì phải chân nhận thái độ thương xót là tầm mức cao
nhất của tình yêu, có thể nói, là chân dung đích thực của tình yêu, là cốt lõi
của tình yêu, đến nỗi, yêu mà không thương thì kể như chưa yêu thực sự hay chưa
thực sự yêu, nếu không muốn nói là yêu một cách hàm hồ, một cách hời hợt, một
cách vị kỷ, yêu cho tới khi không được như ý thì bỏ, tức yêu một cách giả dối.
Không phải hay sao, nếu ngay từ ban đầu con người đang còn ở trong tình trạng
công chính nguyên thủy, nghĩa là con người còn đang ở trong tình trạng tốt lành,
dễ thương, thì được Thiên Chúa yêu, song một khi họ vừa quay ra phản bội Ngài,
bằng việc phải lòng ma quỉ, nghe theo lời đường mật dụ dỗ của hắn mà trắng trợn
bỏ Ngài, liền bị Ngài phạt chết ngay lập tức, không còn kịp nhận ra lầm lỗi của
mình và thống hối trở về với Ngài nữa, thì chắc loài người sẽ không bao giờ nhận
ra Vị “Thiên Chúa là tình yêu”, như Tông Đồ Gioan đã định nghĩa về Ngài trong
Thư Thứ Nhất ở đoạn 4, câu 8 và 16.
Phải, chính vì “Thiên Chúa là tình yêu” mà “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến ban
Con một của Ngài, để thế gian nhờ Con mà được sự sống trường sinh”, như chính
lời xác nhận của Chúa Giêsu trong Phúc Âm Thánh Gioan ở đoạn 3 câu 16. Thế nhưng,
đối tượng được Ngài yêu thương ban chính bản thân của mình là Con Ngài cho đây
lại là một thế gian đã bị trở nên ô uế, bất xứng với bản tính Chí Thiện, Chí Tôn,
Chí Thánh của Ngài, đúng như nhận định của Vị Tông Đồ Dân Ngoại trong Thư gửi
Giáo Đoàn Rôma ở đoạn 5 câu 8: “Thiên Chúa đã tỏ cho chúng ta thấy Ngài yêu
thương chúng ta ở chỗ đang khi chúng ta còn là những tội nhân thì Chúa Kitô đã
chết đi cho chúng ta”. Có nghĩa là, Vị Tông Đồ Dân Ngoại còn nói rõ hơn cũng
trong cùng bức thư này ở đoạn 8 câu 32, đó là, “Thiên Chúa đã không dung tha cho
Con mình, một phó nạp Người vì tất cả chúng ta”. Bởi thế, chính Con Thiên Chúa
nhập thể, Đấng đã xác nhận trong Phúc Âm Thánh Gioan ở đoạn 3 câu 17: “Thiên
Chúa không sai Con mình đến thế gian để luận phạt thế gian mà là để thế gian nhờ
Người mà được cứu độ”, cũng là Đấng đã thực sự, như lời Người tuyên bố trong
Phúc Âm Thánh Mathêu ở đoạn 20 câu 28: “Con Người đến không phải để được hầu hạ
mà là để hầu hạ, để hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho nhiều người”. Và, như
lịch sử đã cho chúng ta thấy, đúng như Người đã tuyên bố trong Phúc Âm Thánh
Gioan Người ở đoạn 10 câu 10, Người thực sự đã là một “vị mục tử nhân hậu, vị
mục tử nhân hậu hiến mạng sống mình vì chiên, để cho chúng được sự sống, một sự
sống viên mãn hơn”, khi Người giang tay trên câp thập giá vô cùng đau thương và
nhục nhã.
Nếu cũng ở Bài Giảng Trên Núi, Giêsu đã kêu gọi các môn đệ trong Phúc Âm Thánh
Mathêu ở đoạn 5 câu 48: “Các con hãy nên trọn lành như Cha trên trời của các con
là Đấng trọn lành”, và trong Phúc Âm Thánh Luca hôm nay, ở đoạn 6 câu 36, Chúa
Giêsu lại kêu gọi: “Các con hãy xót thương như Cha là Đấng thương xót”, thì
không phải xót thương là trọn lành hay sao, và nên trọn lành chính là tỏ lòng
xót thương hay sao? Phúc Âm Thánh Luca hôm nay còn cho biết thêm những chi tiết
cần phải thực hành để có thể tỏ ra con người môn đệ của Người thực sự đã biết
“xót thương như Cha là Đấng thương xót”, đó là “không xét đoán… không lên án…
thứ tha… ban phát”. Đúng thế, một con người biết xót thương thực sự, họ sẽ không
bao giờ dám xét đoán ai theo chủ quan hay thành kiến vốn xu hướng xấu của mình,
cho dù họ có thấy cái dở, cái xấu của ai và nơi ai, họ cũng không lên án (con
người làm bậy), trái lại, họ rất thông cảm và tìm cách giúp con người đáng
thương đó cải tiến (những hành động sai quấy đáng bị lên án và sửa sai). Nếu
chính họ là nạn nhân trong cuộc, họ chẳng những, về phần tiêu cực, phải biết
“thứ tha” cho kẻ làm khốn mình, mà còn, về phần tích cực, phải “ban phát”, tức
“làm ơn cho kẻ ghét mình”, như lời Chúa Giêsu dạy ở đầu bài Phúc Âm. Kitô giáo
không phải chỉ có tấm lòng “từ bi hỉ xả” mà còn phải dấn thân “yêu kẻ thù mình”
nữa.
Như thế, nếu tình thương là một sự thiện, là một cái gì tuyệt hảo nhất, tuyệt
diệu nhất trên trần gian ô trọc đáng thương này, thì ai không cần thương hay coi
thường tình thương tức là chẳng những không hiểu được tình thương mà vì thế cũng
chẳng hiểu gì về bản thân của mình. Thật vậy, trong Bức Thông Điệp của ĐTC Gioan
Phaolô II về Chúa Cha, mang tựa đề: “Giầu Lòng Xót Thương” ban hành ngày
30/11/1980, chúng ta thấy có hai đoạn liên quan đến chiều hướng trên đây, một
đoạn về bản chất của tình thương liên hệ với tình yêu, và một đoạn về thái độ
của con người ngày nay bất cần tình thương.
“Ai là anh em tôi?”
Trước hết, về bản chất của tình thương liên hệ với tình yêu, ĐTC nhận định ở
đoạn 7 như sau: “Tình thương là một chiều kích không thể nào tách rời của tình
yêu; nó thực sự như là một danh hiệu thứ hai của tình yêu, đồng thời, là một thể
thức đặc biệt cho tình yêu tỏ mình ra và tác dụng ngược lại với thực tại của sự
dữ trong thế giới đang chi phối và bủa vây con người, đang thấm vào tận tâm can
họ và có khả năng khiến cho họ bị 'tử vong trong Hỏa Ngục' (Mt.10:28)"; và ở
giữa đoạn 8, ĐTC nhận định tiếp: “Trong việc hoàn thành cánh chung, tình thương
sẽ được mạc khải như là tình yêu, ngược lại, ở giai đoạn tạm thời này, nơi lịch
sử nhân loại cũng là lịch sử của tội lỗi và sự chết, tình yêu trước hết phải
được mạc khải như là tình thương và cũng phải hiện thực như là tình thương”.
Sau nữa, về thái độ của con người ngày nay bất cần tình thương, ở đoạn 2, ĐTC
nhận xét thế này: "Tâm thức ngày nay, có lẽ hơn cả của con người trong quá khứ,
tỏ ra chống lại với một vị Thiên Chúa của tình thương, và thực tế cho thấy có
khuynh hướng loại trừ ra khỏi đời sống và lấy nó ra khỏi cõi lòng con người ngay
cả tư tưởng về tình thương nữa. Từ ngữ và ý niệm về 'tình thương' như gây nên
một cái gì bất ổn nơi con người, thành phần mà, nhờ việc tiến triển khổng lồ về
khoa học và kỹ thuật chưa bao giờ có trong lịch sử, đã trở nên chủ nhân ông của
trái đất, và đã cai trị cùng thống trị nó. Việc thống trị trái đất này, đôi khi
được hiểu một chiều và nông cạn, xem ra không còn chỗ cho tình thương”.
Tuy nhiên, dầu sao cũng phải công nhận rằng, trên thực tế, câu nói hay thái độ
“tôi không cần đến các người thương”, không nhiều thì ít, cũng mật thiết liên
quan đến thái độ của chủ thể tỏ tình thương bằng giọng điệu như: “tôi thấy
thương hại người ấy, họ là một người thật là tội nghiệp đáng thương”. Đúng vậy,
dù tình thưong tự bản chất của mình có tuyệt vời đến thế nào đi nữa, nếu con
người không biết sử dụng nó, thì thay vì nó có tác dụng tốt lại gây ra phản ứng
xấu. Sở dĩ đối tượng được thương tỏ ra thái độ “tôi không cần các người thương”,
một trong những lý do của thái độ phản ứng đầy tự ái này đó là vì cách tỏ tình
thương của chủ thể thương: “tôi thấy thương hại người ấy, họ là một người thật
là tội nghiệp đáng thương”.
Đúng thế, tình thương là một sự thiện nâng con người đáng thương lên chứ không
phải để ấn họ xuống càng sâu hơn. Đó là lý do, cũng trong Thông Điệp “Giầu Lòng
Thương Xót” như vừa trích dẫn, ở cuối đoạn 6, ĐTC đã nhận định “Ý nghĩa chân
thực và xứng hợp của tình thương không chỉ ở tại việc nhìn vào sự dữ luân lý,
thể lý hay vật lý một cách thấm thía và thương hại: Tình thương được biểu hiện
qua bộỉ mặt chân thực và xứng hợp của nó là khi nó phục hồi được giá trị, nâng
cao và rút tỉa được sự thiện từ tất cả mọi hình thức của sự dữ đang hiện diện
nơi thế giới cũng như nơi con người”. Theo ý hướng của lời ĐTC Gioan Phaolô II
vừa diễn tả thì điển hình nhất của lòng xót thương chân thực và trọn hảo này đã
được Chúa Giêsu diễn tả qua dụ ngôn người Samaritanô nhân lành trong Phúc Âm
Thánh Luca ở đoạn 10 từ câu 33 đến câu 35, một kiểu xót thương nhanh nhẹn xuống
lừa, ôm lấy nạn nhân xa lạ đang ngấp ngoái, vội vàng đem đi chữa trị cho đến khi
lành mạnh, chứ không phải thái độ thương theo kiểu chủ nhân ông, theo kiểu trịch
thượng từ cao nhìn xuống, kiểu thương hại, kiểu bố thí, kiểu “đồ con nít, không
thèm chấp”, “không có ý nên tha cho” (vậy thì có ý thì không tha?) v.v.
Hơn thế nữa, để tỏ lòng thương người, chúng ta chẳng những phải biết tôn trọng
phẩm giá của họ mà còn phải làm sao đồng hóa với họ nữa, ở chỗ, chúng ta phải
biết tỏ ra thông cảm với họ, đến độ trở thành đáng thương như họ, giống trường
hợp của chính Đấng chẳng những đã hóa thành nhục thể và ở với loài người, mà còn
đồng hóa với tình trạng bần cùng nhất của loài người, nghĩa là cũng chịu “đói
khát, trần truồng, xa lạ, tù ngục, bệnh nạn” như là “một trong những người anh
em hèn mọn nhất” của Người, như Người đã tự nhận trong Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn
25 khi nói về ngày chung thẩm. Đó là lý do, trong cùng Thông Điệp vừa được trích
dẫn, ở giữa đoạn 8, ĐTC đã nói đến thân phận đáng thương của Con Ngài như sau:
“Theo một ý nghĩa đặc biệt, Thiên Chúa cũng mạc khải tình thương của Ngài ra khi
Ngài mời gọi con người 'hãy thương xót' Con Một của Ngài, một con người tử giá”.
Tóm lại, theo tôi, con người càng xót thương thì càng trở nên đáng thương, đúng
như mối Phúc Đức Thứ Năm trong Tám Mối Phúc Đức: “Phúc cho ai biết xót thương vì
sẽ được thương xót”. Và dấu hiệu chứng tỏ chúng ta có thực sự thương người hay
chăng, là ở chỗ chúng ta có “trở nên mọi sự cho mọi người” hay chăng, một tình
trạng được Thánh Phaolô nói tới trong Thư Thứ Nhất gửi Giáo Đoàn Côrintô ở đoạn
9 câu 23? Nếu có, con người mới được hoàn toàn hiệp thông với Thiên Chúa, một
mối hiệp thông là chính thực tại của đức ái trọn hảo, của tầm vóc nên trọn lành
như Cha trên trời là Đấng trọn lành vậy.
Tinh thần thương xót là tột đỉnh của tình yêu
theo Lời Chúa trong bài Phúc Âm hôm nay rất đúng ở môi trường hôn nhân ngày nay.
Thật thế, vì hôn Nhân bắt nguồn từ yêu thương, bởi thế, hôn nhân chỉ bền vững và
trọn hảo trong yêu thương. Tuy nhiên, kinh nghiệm cho thấy, yêu mà không thương
chỉ là một tình yêu một thời, nông nổi và dễ vỡ. Yêu mà không thương con người
chỉ tìm kiếm những cái đẹp, cái tốt nơi nhau, hay những cái của nhau hợp với
mình và lợi cho mình mà thôi, nếu không tìm thấy cái đẹp, cái hay, cái tốt, cái
lợi cho mình, trái lại, còn gặp thấy hay còn nhìn thấy những cái xấu, cái dở,
cái ngứa tai gai mắt nơi nhau thì làm sao có thể chấp nhận nhau được mà không
tiến tới chỗ ly dị nhau.
Còn
yêu đi với thương là yêu cả những gì không hợp với mình, cả những gì bất toàn
nơi nhau, cả những gì đáng được thông cảm và nâng đỡ. Thương đây không phải là
thương hại, từ trên nhìn xuống, mà là thái độ tôn trọng ngôi vị của nhau, với
tất cả bản chất làm nên con người cá biệt của nhau. Chính vì thương là chấp nhận
nhau ngôi vị của nhau chứ không phải lấn át, tẩy chay hay kỳ thị nhau, đi tới
chỗ chia rẽ và đổ vỡ, thì tình thương chính là tuyệt đỉnh của tình yêu và dấu
chứng tình yêu đích thực. Đó là lý do chỉ khi nào con người yêu nhau đến độ biết
thương nhau họ mới có thể hiệp nhất nên một với nhau mà thôi. Bởi vì, tình yêu
là ơn gọi hiệp thông!
Theo
chiều hướng yêu bao giờ cũng đi với thương và thương là tột đỉnh của tình yêu,
là cốt lõi của tình yêu như thế mà tôi bao giờ cũng chúc hôn như sau: một là dài
- “Xin TÌNH YÊU nhân duyên đã hiệp nhất đôi tân hôn nên một trong đời sống hôn
nhân đạt đến tầm mức toàn hảo của mình trong TÌNH THƯƠNG linh thánh”; hai là
ngắn - “Chúc đôi TÂN HÔN tràn đầy HẠNH PHÚC trong YÊU THƯƠNG”.
Chính vì con người yêu nhau còn ở mức độ công
bằng, mức độ tối thiểu, mức độ mà cả dân ngoại và thành phần tội nhân cũng làm
được (x Mt 5:46-47), tức theo kiểu “ai là anh em của tôi?” (Lk 10:29), hay theo
khuynh hướng chọn lựa người để yêu, theo ý thích và thiện ích của mình, ai yêu
tôi thì tôi yêu lại, tôi chỉ yêu những người hợp với tôi thôi, mà thực tế cho
thấy con người không thể nào thoát khỏi thái độ đối xử với nhau theo phản ứng tự
nhiên, “mắt đền mắt răng đền răng”. Đó là lý do, như lịch sử cho thấy, con người
đã không thể giải quyết được vấn đề kinh tế và chính trị theo công ích và cho
công ích, đến nỗi họ đã đi đến chỗ đánh đấm nhau hết sức dữ dội và dai dẳng.
Tình hình Thánh Địa là một trường hợp hết sức điển hình cho thấy đường lối giải
quyết những xung khắc lợi lộc bằng việc (Palestine) khủng bố tấn công và (Do
Thái) tấn công khủng bố, như càng xẩy ra kinh hoàng từ đầu thiên niên kỷ thứ ba
tới nay, đã thực sự đi đến ngõ cụt và càng gây thêm máu đổ mạng vong vô ích.
Trong Sứ Điệp cho Ngày Hòa Bình Thế Giới 2002 và 2004, Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô II đã lập lại tinh thần bác ái trọn lành, tinh thần thứ tha yêu thương kẻ
thù của Kitô giáo theo lời Chúa Giêsu dạy trong bài Phúc Âm hôm nay, như sau:
“Nỗi khổ đau vĩ đại của các dân tộc cũng như
của những con người, ngay cả của những người trong số bạn bè và quen biết của
Tôi, do chế độ độc tài Nazi và Cộng Sản gây ra, Tôi không bao giờ quên được và
cũng không thôi nguyện cầu. Tôi thường ngẫm nghĩ đến một vấn đề dai dẳng này là
chúng ta làm thế nào để phục hồi lại trật tự về luân lý và xã hội, một trật tự
bị lọt vào bàn tay của tình trạng bạo loạn khiếp đảm như thế?… Những cột trụ của
nền hòa bình chân thực là công lý và là một mẫu yêu thương biết thứ tha (Sứ Điệp
Hòa Bình 2002 đoạn 2). Thế nhưng, trong những hoàn cảnh hiện nay, chúng ta làm
sao có thể nói đến công lý và thứ tha như là nguồn gốc và là điều kiện để tạo
lập hòa bình đây? Cho dù có khó khăn đến mấy đi nữa, chúng ta cũng có thể nói và
phải nói đến những vấn đề này… Thứ tha phản ngược lại với uất hận và trả thù,
chứ không phải với công lý. Thật vậy, hòa bình thực sự là ‘việc của công lý’ (Is
32:17). Bởi thế hòa bình đích thực là hoa trái của công lý, một nhân đức luân lý
và là một bảo toàn về pháp lý đưa đến chỗ biết hoàn toàn tôn trọng quyền lợi và
nghĩa vụ của con người, cũng như đưa đến việc phân phối công bằng cả về những
thiện ích lẫn gánh nặng. Thế nhưng, vì công lý của loài người luôn mỏng dòn và
bất hảo, lệ thuộc hẳn vào những giới hạn và cái tôi của con người cũng như của
phái nhóm, mà nó phải cần đến lòng thứ tha và cần phải thực hiện bằng một tấm
lòng thứ tha, một lòng thứ tha hàn gắn chữa lành và tái thiết những mối liên hệ
trần thế bị trục trặc tận căn gốc của chúng. Điều này đúng là như thế, ở những
hoàn cảnh lớn nhỏ, ở tầm mức riêng tư hay bao rộng, ở cả ngay lãnh vực quốc tế
nữa. Thứ tha không thể nào phản ngược lại với công lý, như thể thứ tha là bỏ qua
nhu cầu cần phải sửa lại những gì sai quấy. Trái lại, nó là tầm mức trọn vẹn của
công lý… Công lý và thứ tha đều là những gì thiết yếu cho việc hàn gắn ấy” (Sứ
Điệp Hòa Bình 2002 đoạn 3)
“Để kết thúc những nhận định này, Tôi cảm
thấy cần phải lập lại là, để thiết lập một nền hòa bình chân thực trên thế giới,
công lý phải được nên trọn trong đức bác ái. Chắc chắn luật lệ là đường lối đầu
tiên dẫn đến hòa bình, và dân chúng cần phải được dạy cho biết tôn trọng luật lệ
này. Tuy nhiên, người ta không thể tiến đến cùng đích của đạo lộ này trừ phi
công lý được yêu thương bổ khuyết cho. Công lý và yêu thương đôi khi có vẻ là
những lực lượng phản nghịch nhau. Thật vậy, chúng chính là nhị diện của một thực
tại duy nhất, là hai chiều kích của đời sống con người cần phải tương nhập trùng
phùng. Kinh nghiệm lịch sử đã cho thấy điều này quả thực như thế. Nó cho thấy
công lý thường không thể tách mình khỏi cái cảm giác bị nhục nhã, cảm giác hận
thù và thậm chí cảm giác thỏa mãn trước đau khổ của người khác. Tự mình, công lý
không đủ. Thật vậy, nó có thể phản bội chính mình, trừ phi nó biết hướng về một
thứ mãnh lực sâu xa hơn đó là yêu thương. Vì lý do này, Tôi vẫn thường nhắc nhở
Kitô hữu cũng như tất cả mọi con người thiện chí là cần phải thứ tha để giải
quyết những vấn đề giữa cá nhân với nhau và các dân tộc với nhau. Hòa bình không
thể nào có nếu thiếu thứ tha! Tôi xin lập lại điều này một lần nữa ở đây, khi
Tôi đặc biệt nghĩ đến tình trạng khủng hoảng liên miên ở Palestine và Trung Đông:
sẽ không thể nào tìm được một giải pháp cho các thứ vấn đề rắc rối nghiêm trọng
gây khổ đau dai dẳng cho các dân ở vùng này cho tới khi thực hiện một quyết định
vượt trên lý lẽ của một thứ công lý căn bản và hướng về lý lẽ của lòng thứ tha.
Kitô hữu biết rằng yêu thương là lý do để Thiên Chúa thực hiện mối liên hệ với
con người. Chính yêu thương đã làm cho Ngài đợi chờ con người đáp ứng. Bởi thế,
yêu thương cũng là một hình thức cao quí nhất và sáng giá nhất nơi mối liên hệ
khả thể giữa loài người với nhau. Bởi thế tình yêu cần phải dậy men nơi hết mọi
lãnh vực của đời sống con người và bao hàm cả lãnh vực quốc tế. Chỉ có một thứ
nhân loại được chủ trị bởi ‘nền văn minh yêu thương’ mới có thể hoan hưởng một
nền hòa bình chân thực và bền vững mà thôi” (Sứ Điệp Hòa Bình 2004, đoạn 10)
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
|