|
CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH
BÀI ĐỌC I: Act 13:14, 43-52
“Đây chúng tôi quay về phía các dân ngoại”
Bài trích sác Tông đồ
Công vụ.
Trong những ngày ấy, Phaolô và Barnaba sang qua
Pergê và đến Antiokia xứ Pisiđia; ngày Sabbat, các ngài vào ngồi trong hội đường.
Có nhiều người Do Thái và ṭng giáo theo các ngài, được các ngài khuyên bảo bền
đỗ trong ơn nghĩa Chúa. Đến ngày Sabbat sau, hầu hết cả thành đều đến nghe lời
Thiên Chúa. Các người Do Thái thấy đám đông dân chúng th́ đâm ghen tương, nói
lộng ngôn, chống lại các điều Phaolô giảng dạy, Phaolô và Barnaba can đảm nói
rằng: “Phải giảng lời Thiên Chúa cho các ngươi trước tiên, nhưng v́ các ngươi từ
chối lời Thiên Chúa và tự cho ḿnh không xứng đáng sống đời đời, th́ đây chúng
tôi quay về phía các dân ngoại; vả lại Chúa đă truyền lệnh cho chúng tôi rằng:
“Ta đă đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi nên ơn cứu độ cho đến tận cùng
trái đất”. Nghe vậy, các dân ngoại hân hoan ca tụng lời Chúa; những ai được Chúa
tiền định hưởng sự sống đời đời th́ tin theo, nên lời Chúa được rao giảng khắp
cả vùng. Những người Do Thái xúi giục các phụ nữ khá giả đă ṭng giáo, các thân
hào trong thành, bắt bớ Phaolô và Barnaba, rồi trục xuất ra khỏi ranh giới xứ họ.
C̣n hai ngài, sau khi phủi bụi chân lại cho họ, hai ngài đi đến Icôniô. C̣n các
môn đồ th́ đầy hân hoan và Thánh Thần.
Lời của Chúa.
Đáp ca: (Xin mời Cộng đoàn thưa)
Ta là dân tộc, là đoàn chiên Chúa chăn nuôi.
1.
Hăy phụng sự Chúa với niềm vui vẻ; hăy vào trước thiên nhan với ḷng hân hoan
khoái trá.
2.
Hăy biết rằng Chúa là Thiên Chúa, chính Người đă tạo tác thân ta, và ta thuộc
quyền sở hữu của Người, ta là dân tội là đoàn chiên Chúa chăn nuôi.
3.
V́ Thiên Chúa, Người thiện hảo, ḷng từ bi Người tồn tại muôn đời và ḷng trung
tín Người c̣n tới muôn muôn thế hệ.
BÀI ĐỌC II: Apoc 7:9, 14b-17
“Chiên Con sẽ thống trị họ, và dẫn họ đến nguồn nước ban sự sống”
Bài trích sách Khải
Huyền của Thánh Gioan.
Tôi là Gioan đă xem thấy một đám đông không thể
đếm được, họ thuộc mọi ṇi giống, ḍng họ, dân tộc và tiếng nói, đứng trước ngai
vàng và trước Con Chiên, họ mặc áo trắng dài, tay cầm lá vạn tuế. Họ là những
người từ đau khổ lớn lao mà đến, họ giặt áo và tẩy nó trắng trong máu Con Chiên.
V́ thế, họ ở trước ngai vàng Thiên Chúa, và ngày đêm phụng sự Người trong đền
thánh Chúa, Đấng ngự trên ngai vàng đặt ở giữa họ. Họ sẽ không c̣n đói khát; mặt
trời và nóng bức sẽ không làm khổ họ, v́ Con Chiên đứng trước ngai vàng sẽ thống
trị họ, sẽ dẫn họ đến nguồn nước ban sự sống và Thiên Chúa sẽ lau hết mọi giọt
lệ nơi mắt họ.
Lời của Chúa.
(Xin mời Cộng đoàn đứng)
Alleluia, alleluia. — Chúa phán: “Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên
Ta, và các chiên Ta biết Ta”. — Alleluia.
PHÚC ÂM: Joan 10:27-30
“Ta ban cho các chiên Ta được sống đời đời”
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô
theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: “Chiên Tôi th́ nghe
tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi, Tôi cho chúng được sống đời đời,
chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Tôi.
Điều mà Cha Tôi ban cho Tôi, th́ cao trọng hơn tất cả, và không ai có thể cướp
được khỏi tay Cha Tôi, Tôi và Cha Tôi là một”.
Phúc Âm của Chúa.
SUY NIỆM
CHỨNG NHÂN MỚI
Nghe-Thấy-Theo. Đó là 3 yếu tố quan trọng trong đời sống chứng nhân của người
Kitô hữu, đặc biệt, là những chứng nhân của thời đại chúng ta đang sống. Người
tông đồ hay chứng nhân cho Chúa Giêsu hôm nay nếu thiếu những yếu tố này sẽ trở
thành kệch cỡm, giả h́nh và thiếu hấp dẫn. Đức Gioan Phaolô II đă nhận xét về
con người chứng nhân của thời đại này, và theo Ngài, th́ thế giới hôm nay không
thiếu những nhà giảng thuyết, nhưng thiếu những chứng nhân.
Nhận xét trên đến từ phản ảnh trung thực cuộc đời của Chúa Cứu Thế. Ngài đến
trong trần gian, sống giữa đời, ẩn dật và suy niệm đúng 30 năm. Ba mươi năm cầu
nguyện và lắng nghe tiếng Chúa Cha. Đó cũng là 30 năm Ngài nh́n thấy Chúa Cha,
và Chúa Cha nh́n thấy Ngài: “ChaTa và Ta là một” (Gioan 10:30). Và sau khi đă
nghe tiếng Chúa Cha, hiểu được ư của Chúa Cha, Ngài đă lên đường hành đạo. Ba
năm rao giảng Tin Mừng, để rồi kết thúc bằng thảm kịch trên Núi Sọ. Nhờ “nghe-thấy-theo”,
Chúa Giêsu đă trở thành căn nguyên Ơn Cứu Độ của nhân loại.
Thật vậy, h́nh ảnh người chứng nhân của thế kỷ chúng ta đang sống hôm nay cũng
chính là h́nh ảnh mà Chúa Giêsu đă gợi ư, và đă được Thánh kư Gioan ghi lại bằng
một h́nh ảnh quen thuộc: Những con chiên trong một đàn chiên. Những con chiên
hiền lành đă nghe, thấy, và đi theo người chăn chiên.
Nghe tiếng Chúa. Điều quan trọng nhất của người chứng nhân là phải nghe được
tiếng Chúa. Nếu không nghe và nhận ra được tiếng Ngài, chắc chắn chúng ta không
biết Ngài là ai, và điều ǵ Ngài muốn chúng ta làm. Trong tâm lư phát triển, đứa
trẻ khi mở mắt chào đời việc đầu tiên là em nghe được tiếng mẹ. Thính giác hoạt
động trước giúp đem em lại gần với mẹ. Do nghe được tiếng mẹ, em t́m được sự săn
sóc, t́m được hơi ấm và bầu sữa thơm ngon của mẹ. Người Kitô hữu muốn t́m thấy
Chúa Giêsu cũng phải biết nghe và nhận ra tiếng Ngài.
Nhưng làm thế nào để nghe và nhận ra tiếng Chúa, một tiếng nói êm ái, dịu dàng
và thân thương như tiếng đập của con tim người mẹ hiền, như tiếng th́ thầm của
đôi t́nh nhân, và như tiếng gió thoảng của Thần Khí Thiên Chúa thổi qua trong
cuộc đời của mỗi người. Đôi lúc tiếng ấy cũng vang vọng đâu đó trong những tiếng
nổ long trời, lở đất của bom đạn, của chết chóc và máu lửa. Và cũng đôi lúc,
tiếng ấy lại nghe thấy trong những lao đao, bệnh tật, nghèo túng, và những khắc
nghiệt của kiếp người. Tóm lại, tiếng Chúa vang vọng khắp đó đây và trong rất
nhiều cảnh ngộ của cuộc đời. Làm thế nào để nghe được những tiếng đó. Cầu nguyện,
thinh lặng, và khiêm tốn. Chúa Giêsu cũng đă nghe được tiếng Cha của Ngài trong
âm thầm và cầu nguyện dưới mái nhà Nagiarét.
Sau khi đă nhận ra tiếng mẹ, bước kế tiếp là em bé nh́n rơ mẹ, phân biệt được mẹ
với người lạ. Từ đó, em chỉ hạnh phúc khi nh́n mẹ, ngược lai, em hoảng sợ và
khiếp đảm khi nh́n những người khác không phải là mẹ. Người Kitô hữu, sau khi
nghe và nhận được tiếng Chúa, họ c̣n phải nhận diện được Ngài, cũng như ở trong
tầm nh́n của Ngài. Họ không được đi xa khỏi tầm nh́n Ngài đến độ Ngài không nh́n
ra họ, v́ làm như vậy họ sẽ bị lạc đường: “Ta biết chiên Ta và chúng theo Ta” (Gioan
10: 27).
Như hành động nghe tiếng Ngài, người Kitô hữu lúc này phải nh́n được Ngài qua
từng nhân vật, từng cảnh vật, và từng biến cố cuộc đời. Họ phải có cái nh́n
xuyên thấu bằng cặp mắt đức tin để khám phá ra dung nhan Ngài ẩn hiện chung
quanh ḿnh qua những người ḿnh gặp gỡ, để thương yêu, tha thứ và giúp đỡ; cũng
như qua những biến cố mà họ phải đối diện trong cuộc sống để không thất đảm, hốt
hoảng và mất niềm tin.
Trong vai tṛ chứng nhân, người Kitô hữu không những chỉ nói về Chúa Giêsu, mà
c̣n phải biết tường tận Ngài là ai, h́nh dáng, và ngôn ngữ Ngài như thế nào. V́
người chứng nhân của thời đại mới không chỉ nói về Chúa Giêsu, viết về Chúa
Giêsu, mà c̣n sống đúng như những ǵ ḿnh đă nghe và đă thấy nơi Ngài. Kết quả
của đường lối chứng nhân này sẽ thu hút người nghe v́ họ tin rằng họ đang nghe
những ǵ mà người nói với họ đă xác tín và hành động như vậy.
“Chiên Ta th́ nghe tiếng Ta. Ta biết chúng và chúng theo Ta” (Gioan 10: 27). Đặc
tính trổi vượt nhất của người chứng nhân là sống và làm chứng cho những ǵ ḿnh
nói. Các Tông Đồ xưa là những người đă thấy, đă nghe, và đă sống những ǵ các
Ngài rao giảng. Họ là những người không những thấy những vết đinh nơi tay chân
và vết đâm nơi cạnh sườn Chúa. Hơn thế nữa, như Tôma, họ đă xỏ ngón tay vào
những vết đinh, và thọc bàn tay vào cạnh sườn Chúa, để rồi thâm tín và thốt lên:
“Lậy Chúa tôi. Lậy Thiên Chúa của tôi” (Gioan 20:28).
Nghe được tiếng Chúa, nh́n thấy Chúa, sống chứng nhân những ǵ ḿnh đă nghe và
đă thấy. Có lẽ trong đời sống Kitô hữu, đây là điều khó khăn nhất nhưng cũng
quan trọng nhất. Cũng như trong đời sống chứng nhân, đây là điều thực hành khó
nhất nhưng mang lại hoa trái nhất. V́ khi nói về Chúa Giêsu, người nghe phần
đông sẽ không hiểu ǵ và cũng chẳng mường tượng ra Ngài là ai. Nhưng nếu người
chứng nhân minh chứng cho họ thấy bằng hành động của ḿnh Chúa Giêsu là ai, lập
tức những lời nói của người chứng nhân sẽ có ảnh hưởng rất rơ ràng.
Chúa Giêsu biết Ngài sắp về cùng Chúa Cha. Ngài đă chuẩn bị cho các Tông Đồ, để
các ông vào đời và làm chứng cho Tin Mừng Cứu Độ. Ngài biết sứ vụ này không dễ
dàng, v́ các ông sẽ phải gặp nhiều thử thách đến từ việc cứng ḷng tin của con
người, nhất là từ những cám dỗ của ma quỉ. Chính v́ thế, Ngài đă hiện ra với các
ông, và như lần này, Ngài đă dậy các ông về một phương thức truyền giáo thiết
thực với tâm lư con người, đó là “nghe-thấy-theo”. Ngài muốn các ông cũng như
những ai sau này sẽ làm chứng nhân cho Ngài phải hiểu rằng chính họ là người
trước hết phải nghe được tiếng Ngài, biết được Ngài, và nhất là sống với Ngài.
Như vậy, từ hôm nay, mỗi khi tôi gặp những khó khăn, những người làm cho tôi khó
chịu, và nhất là những bất trắc trong cuộc sống, tôi phải dừng lại ít giây phút
để hỏi ḿnh: “Chúa Giêsu đó có phải không? Ngài đang muốn nói với tôi điều ǵ?
Và Ngài muốn tôi làm ǵ trong vai tṛ chứng nhân cho Ngài giữa ḍng đời hôm
nay?”
Trần Mỹ
Duyệt
Chiên hóa sói - dê thành chiên
Như Mùa
Vọng có 4 tuần lễ và Mùa Chay có 6 tuần lễ Mùa Phục Sinh gồm có 7 tuần lễ. Mùa
Vọng có 4 tuần lễ là khoảng thời gian tiêu biểu cho 4 ngàn năm Cựu Ước trông đợi
Chúa Cứu Thế. Mùa Chay có 6 tuần lễ, nói cho chính xác th́ chỉ có hơn 5 tuần lễ,
tức có đúng 40 ngày, từ Thứ Tư Lễ Tro tới Chúa Nhật Lễ Lá, một khoảng thời gian
đặc biệt tưởng kính 40 ngày Chúa Kitô ăn chay và chịu cám dỗ trong hoang địa.
Mùa Phục Sinh có 7 tuần lễ, hay 50 ngày, từ Đại Lễ Chúa Phục Sinh tới Lễ Chúa
Thánh Thần Hiện Xuống, cũng gọi là Lễ Ngũ Tuần theo niên lịch phụng vụ Do Thái.
Trong 7 tuần lễ Mùa Phục Sinh, từ Chúa Nhật Thứ Tư trở đi, tuy c̣n trong Mùa
Phục Sinh, chúng ta sẽ không c̣n đọc bài Phúc Âm nào về việc Chúa Kitô Phục Sinh
hiện ra với các tông đồ nữa, ngoại trừ vào Lễ Chúa Giêsu Thăng Thiên, Thứ Năm
trong Tuần Thứ Sáu Mùa Phục Sinh, tức đúng 40 ngày sau khi Người sống lại từ
trong kẻ chết. Đó là lư do Giáo Hội chọn bài Phúc Âm theo Thánh Gioan nói đến
Mục Tử và chiên. V́ ư nghĩa của bài Phúc Âm liên quan đến vai tṛ mục tử mà Chúa
Nhật Thứ Tư Phục Sinh c̣n được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, như Chúa Nhật
Thứ Hai Phục Sinh được gọi là Chúa Nhật Kính Chúa T́nh Thương. Về lư do tại sao
c̣n trong Mùa Phục Sinh mà lại đọc các bài Phúc Âm không liên quan ǵ đến việc
Chúa Kitô Phục Sinh hiện ra như ba tuần đầu, theo tôi, là v́ chủ đề hay ư nghĩa
của cả Mùa Phục Sinh này có thể được tóm gọn trong câu Chúa Kitô tuyên bố được
Phúc Âm Thánh Gioan ghi lại ở đoạn 11 câu 25, đó là: “Thày là sự sống lại và là
sự sống”.
Bởi thế, không lạ ǵ, nếu theo dơi các bài Phúc Âm liên tục cho lễ hằng ngày
trong Mùa Phục Sinh, th́ ngay sau Tuần Bát Nhật Phục Sinh, tức tuần lễ liên quan
đến phần đầu của chủ đề này, phần về sự việc “Thày là sự sống lại”, Giáo Hội đă
chọn đọc loạt bài Phúc Âm theo Thánh Gioan về thực tại “Thày là sự sống” cho sáu
tuần c̣n lại trong Mùa Phục Sinh. Ư nghĩa Lời Chúa trong 6 tuần c̣n lại trong
Mùa Phục Sinh này thứ tự cho thấy như sau: tuần thứ hai, về việc cần tái sinh
mới được vào Nước Thiên Chúa, nghĩa là mới được sống đời đời; tuần thứ ba, về sự
sống đời đời được ban cho thế gian nơi bánh hằng sống bởi trời xuống là huyết
nhục Chúa Kitô; tuần thứ bốn, về sự sống đời đời được thông ban cho chiên qua
việc tự hiến của vị mục tử nhân lành; tuần thứ năm, về hoa trái sự sống được trổ
sinh nhờ t́nh yêu thương huynh đệ và bởi mối hiệp nhất với Chúa Kitô như cành
nho dính liên thân nho; tuần thứ sáu, tuần có Lễ Thăng Thiên, về sự sống của
Giáo Hội trong Thần Chân Lư là Đấng được sai đến sau khi Chúa Kitô về cùng Cha;
sau cùng, tuần thứ bảy, về sự sống đời đời được bắt nguồn từ Mạc Khải Thần Linh
là Chúa Kitô và được chăn nuôi bởi vị mục tử tối cao ở nơi con người Phêrô đại
diện Chúa Kitô.
Thật vậy, kể từ sau Tuần Bát Nhật Phục Sinh, chúng ta đang cử hành Mầu Nhiệm
Chúa Kitô là Sự Sống, điển h́nh là Chúa Nhật Thứ Tư tuần này, với bài Phúc Âm
chỉ có 4 câu hết sức ngắn ngủi nhưng đầy ư nghĩa thâm sâu, trong đó có lời Chúa
Giêsu minh định: “Tôi cho chúng sự sống đời đời”.
Thành phần được Chúa Kitô ban sự sống đời đời cho đây chính là chiên của Người,
như Người xác định ở ngay đầu bài Phúc Âm hôm nay: “Chiên của Tôi th́ nghe tiếng
Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi”. Vấn đề được đặt ra ở đây là, nếu tâm lư
chung hay đặc tính làm nên thành phần chiên của Chúa Kitô, như Người đă khẳng
định, đó là việc chiên nghe tiếng của Người, th́ như vậy chúng ta có thể đi đến
hai hệ luận hay kết luận saau đây:
Hệ luận hay kết luận thứ nhất có thể hiểu rằng những ai không nghe tiếng của
Người, v́ không muốn nghe hay không có khả năng nghe, th́ không phải là chiên
của Người, kể cả kẻ đă thực sự thuộc về đàn chiên Giáo Hội của Người, qua việc
họ lănh nhận Bí Tích Rửa Tội đi nữa?
Hệ luận hay kết luận thứ hai là: nếu căn cứ vào cùng nguyên tắc “chiên Tôi th́
nghe tiếng Tôi”, th́ dù chưa thuộc về đàn chiên Giáo Hội của Chúa Kitô, song ai
có khả năng hay thiện tâm muốn nghe tiếng của Người, cũng là và đă là chiên của
Người rồi, tức cũng được sự sống đời đời, được cứu độ?
Ư nghĩa của bài Phúc Âm hôm nay hoàn toàn ứng nghiệm một cách khít khao với hai
bài Phúc Âm của hai tuần trước, tức là bài Phúc Âm về việc Chúa hiện ra với 7
tông đồ ở bờ biển Tibêria mới tuần Thứ Ba vừa rồi, và bài Phúc Âm về việc tông
đồ Tôma tuyên xưng “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi” ở tuần Thứ Hai trước đó.
Thật vậy, bài Phúc Âm hôm nay trước hết được ứng nghiệm nơi bài Phúc Âm tuần vừa
rồi như thế này. Nếu bài Phúc Âm hôm nay Chúa phán “Chiên Tôi th́ nghe tiếng Tôi”,
th́ bài Phúc Âm tuần trước cho thấy, các môn đệ đă nghe lời Chúa bảo “hăy thả
lưới bên phải”, dù vào ngay lúc đó các vị chưa thực sự nhận ra “Thày đó”, v́ tự
lời của Người có sức tác dụng mănh liệt nơi các vị, như đă làm cho hai môn đệ
trên đường đi Emmau nóng lên đang lúc trao đổi với Người mà không biết “Thày đó”.
Chưa hết, nếu trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa c̣n phán: “Tôi biết chúng và chúng
theo Tôi”, th́ bài Phúc Âm tuần trước cũng cho thấy, Chúa Kitô biết các môn đệ
của ḿnh đói, chẳng những đă đích thân làm bữa điểm tâm cho các vị sẵn sàng trên
bờ, mà c̣n đưa đồ ăn đến mời các vị dùng nữa, và các vị đă theo Người ở chỗ nhận
lấy những ǵ Người dọn cho ḿnh và trao cho ḿnh, chứ không từ chối.
Riêng tông đồ Phêrô, Chúa biết ngài hơn ai hết, biết ngài “tinh thần th́ linh
hoạt song xác thịt lại yếu nhược” (Mt 26:41), biết ngài đă phũ phàng và trắng
trợn chối bỏ Người ba lần, đến nỗi, chính miệng Phêrô đă phải tuyên xưng trước
Đấng Phục Sinh: “Thày quá rơ mọi sự”, thế mà, Người vẫn tin tưởng ngài, vẫn kêu
gọi ngài “Hăy theo Thày”, và ngài đă thực sự theo Thày đến cùng, trong vai tṛ
của một “vị mục tử nhân lành hiến mạng sống v́ chiên” (Jn 10:11), vào năm 67,
tại Rôma, Trung Tâm của thế giới Kitô giáo nói chung và của Giáo Hội Công Giáo
Rôma nói riêng hiện giờ.
Ngoài ra, bài Phúc Âm hôm nay c̣n ứng nghiệm lời tuyên xưng của tông đồ Tôma ở
bài Phúc Âm của tuần Thứ Hai nữa. Nếu tông đồ Tôma đă tuyên xưng Chúa Kitô Phục
Sinh là “Chúa”, th́ bài Phúc Âm hôm nay cho thấy Người thực sự là Chúa, khi
Người tuyên bố Người có toàn quyền và toàn năng “ban sự sống đời đời cho chúng
và không ai cướp chúng khỏi tay Tôi được”. Cũng trong bài Phúc Âm tuần Thứ Hai
này, nếu tông đồ Tôma c̣n tuyên xưng Chúa Kitô Phục Sinh là” Thiên Chúa”, th́
bài Phúc Âm hôm nay cho thấy chính Chúa Kitô đă tự nhận bản tính thần linh của
ḿnh khi minh nhiên tuyên bố: “Tôi với Cha Tôi là một”.
Căn cứ vào nguyên tắc “chiên Tôi th́ nghe tiếng Tôi”, như vừa được phân tích và
nhận định theo ư nghĩa xuôi chiều của các bài phúc âm theo phụng vụ Mùa Phục
Sinh trên đây, th́ đă là chiên của Người, như trường hợp các môn đệ, sẽ nghe
thấy tiếng Người là chủ chiên của các vị. Chưa hết, nếu theo ư nghĩa ngược chiều,
dù chưa chính thức thuộc về đàn chiên Giáo Hội của Chúa Kitô, song ai có khả
năng hay có thiện tâm muốn nghe tiếng của Người, cũng là và đă là chiên của
Người rồi, tức cũng được hưởng sự sống đời đời, được cứu độ.
Không phải hay sao, trước khi chính thức thuộc về đàn chiên Giáo Hội của Người
qua việc lănh nhận Phép Rửa th́ thành phần mà Người tuyên bố với tổng trấn
Philatô ở Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 18 câu 37: “Ai t́m kiếm chân lư th́ nghe thấy
tiếng Tôi”, cũng là, thậm chí, đă là chiên của Người rồi. Bằng không th́ Người
đă chẳng tuyên bố trong cùng đoạn 10 của Phúc Âm hôm nay, song ở câu 16 là: “Tôi
c̣n những con chiên khác chưa thuộc về đàn này. Tôi cũng chăn dẫn những con
chiên này nữa, và chúng sẽ nghe tiếng Tôi”?
Như thế, dù chưa thuộc về đàn chiên của Người, chưa chính thức thuộc về Giáo Hội
Người thiết lập như bí tích cứu rỗi muôn dân, thành phần dân ngoại nói chung,
tức thành phần không phải là dân Do Thái, bao gồm những kẻ vô đạo, vô thần, tội
nhân v.v., cũng đă được Chúa Kitô gọi là “chiên” rồi, và v́ đă là “chiên” của
Người nên cả họ nữa cũng được Người âm thầm “chăn đắt” cho tới khi họ nghe thấy
tiếng Người một cách nào đó chỉ có Người biết. Đó là lư do Kitô hữu Công Giáo
chúng ta đừng có mặc nhiên hay minh nhiên khinh thường bất cứ một ai, dù họ khác
niềm tin với ḿnh, hay dù họ có vô thần duy vật đến đâu đi nữa, hoặc họ có tội
lỗi xấu xa đến mấy chăng nữa, kẻo thành phần chiên Kitô hữu chúng ta trở thành
sói dữ chứ không c̣n là chiên, để rồi, thành phần lạc loài trước mắt sói dữ
chúng ta lại trở thành con chiên thứ 100, thành phần chiên được Vị Mục Tử vô
cùng nhân lành hân hoan vui mừng vác trên vai. Đó cũng là lư do Công Đồng
Vaticanô II, qua Hiến Chế Tín Lư Ánh Sáng Muôn Dân về Giáo Hội, đoạn 16, đă
không phủ nhận phần rỗi nơi thành phần thiện tâm ngoài Kitô giáo.
Đúng thế, thân phận chiên Kitô hữu chúng ta hăy coi chừng kẻo chính chúng ta lại
tự thay h́nh đổi dạng biến ḿnh trở thành loài sói dữ hay loài dê vô phúc lúc
nào không biết, như trường hợp của những người Do Thái vốn là dân của Chúa, là
đàn chiên Chúa chăn nuôi, lại bị Chúa tuyên bố phủ nhận trong câu Phúc Âm Thánh
Gioan ngay trước đoạn mở đầu bài Phúc Âm hôm nay, đó là câu 26 như sau: “Quí vị
không chịu tin v́ quí vị không phải là chiên của Tôi”.
Quả vậy, nếu Kitô hữu chúng ta không chịu tỏ ra ḷng tin tưởng của ḿnh bằng
việc tuân giữ lề luật Chúa hay nghe lời Chúa th́ kể như chúng ta không sống thân
phận chiên đi theo vị mục tử của ḿnh vậy. Trái lại, thành phần thành tâm t́m
Chúa, chắc chắn sẽ gặp được Người, như Người đă khẳng định: “Ai t́m kiếm chân lư
sẽ nghe thấy tiếng Tôi”. Điển h́nh như năm trường hợp sau đây.
Thứ nhất là trường hợp của Ba Vương Đạo Sĩ từ Phương Đông xa xôi, không hề biết
ǵ về Mạc Khải Thần Linh trong Cựu Ước của người Do Thái, về lời hứa Đấng Cứu
Tinh Nhân Trần, song các vị cũng đă đến triều bái “vua dân Do Thái mới sinh” (Mt
2:2), “ở Bêlem xứ Giuđa” (Mt 2:6).
Thứ hai là trường hợp của người đàn bà Samaritanô ngoại lai, sống với sáu đời
chồng bất hợp pháp, song vẫn khao khát thứ nước Chúa ban, đến nỗi, chị đă nhận
ra Đấng đang nói với chị và làm cho nhiều người khác đến với Người (xem Jn 4:15,
18, 19, 26, 39).
Thứ ba là trường hợp của người đàn bà tội lỗi trong thành, nhưng đă được tha
nhiều, v́ nàng đă yêu nhiều, bằng việc lấy nước mắt rửa chân cho Người, lấy tóc
mà lau chân Người, rồi hôn chân Người và xức dầu thơm chân Người (xem Lk 7:37,
38, 47, 48).
Thứ bốn là trường hợp của người tử tội bị đóng đanh bên hữu Chúa Giêsu đă được
Người hứa cho lên Thiên Đàng v́ anh đă nhận ra Đức Vua của ḿnh và xin Người cho
ḿnh được vào Vương Quốc của Người (x Lk 23:40-43).
Thứ năm là trường hợp của đám dân ngoại Rôma, trong đó có viên đại đội trưởng
cùng với thuộc hạ của ông, cuối cùng, sau khi thấy cảnh tượng Người chết, đă
nhận biết và tuyên xưng rằng: “Quả thực Người này là Con Thiên Chúa!” (Mt
27:34).
Tóm lại, Lời Chúa Giêsu phán “chiên Tôi th́ nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và
chúng theo Tôi” trong Phúc Âm hôm nay nghĩa là, những ai là chiên của Người chắc
chắn sẽ nhận ra tiếng của Người, ở chỗ, nhờ Thần Linh của Người tác động vào một
lúc nào đó trong đời của họ, họ sẽ nhận ra rằng họ được Thiên Chúa là Cha trên
trời biết đến và yêu thương, Đấng đă đến thế gian t́m kiếm họ qua Lời Nhập Thể,
để mang họ về với Ngài bằng cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đấng Thiên Sai là Đức
Giêsu Kitô, và chính v́ thế, họ đă hết sức cảm kích trở về với Ngài trong tinh
thần và chân lư.
Bài Phúc Âm Chúa Nhật V Phục Sinh Năm C cho chúng ta thâm tín hơn nữa hai câu
Thánh Kinh Tân Ước rất quan trọng: Câu thứ nhất của Chúa Giêsu trong Phúc Âm
Thánh Gioan ở đoạn 6 câu 37, đó là câu: “Tất cả những ǵ Cha ban cho Tôi sẽ đến
với Tôi; và Tôi sẽ không ruồng rẫy những ai đến với Tôi”, và câu thứ hai của
Thánh Phaolô trong Thư gửi Giáo Đoàn Rôma ở đoạn 8 câu 29, đó là câu: “Những ai
Thiên Chúa đă biết trước th́ Ngài cũng tiền định cho họ được nên giống h́nh ảnh
Con của Ngài”.
Phải, thành phần “chiên tôi th́ nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi”
này chính là thành phần đă được Giêsu khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay:
“Không ai có thể cướp mất chúng khỏi tay của Tôi được. Cha Tôi th́ trọng hơn tất
cả mọi sự, nên không ai có thể cướp chúng khỏi tay Cha Tôi được”.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
|