|
CHÚA NHẬT PHỤC SINH
BÀI ĐỌC I: Act 10:34a, 37-43
“Chúng tôi đă ăn uống với Người, sau khi Người từ cơi chết sống lại”
Bài trích sách Tông đồ
Công vụ.
Trong những ngày ấy, Phêrô lên tiếng nói rằng:
“Như anh em biết điều đă xảy ra trong toàn cơi Giuđêa, khởi đầu từ Galilêa, sau
khi Gioan rao giảng phép rửa: ấy là Chúa Giêsu thành Nagiarét. Thiên Chúa đă
dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu cho Người. Người đi khắp nơi, ban bố ơn
lành và chữa mọi người bị quỉ ám, bởi v́ Thiên Chúa ở cùng Người. Và chúng tôi,
chúng tôi là chứng nhân tất cả những ǵ Người đă làm trong nước Do Thái, và tại
Giêrusalem, Người là Đấng người ta đă giết treo Người trên thập giá. Nhưng ngày
thứ ba, Thiên Chúa đă cho Người sống lại và hiện ra không phải với toàn dân, mà
là với chúng tôi là nhân chứng Thiên Chúa đă tuyển chọn trước, chính chúng tôi
đă ăn uống với Người sau khi Người từ cơi chết sống lại. Và Người đă truyền cho
chúng tôi rao giảng cho toàn dân và làm chứng rằng chính Người đă được Thiên
Chúa tôn làm quan án xét xử kẻ sống và kẻ chết. Mọi tiên tri đều làm chứng về
Người rằng: Tất cả những ai tin vào Người, th́ nhờ danh Người mà được tha tội.
Lời của Chúa.
Đáp ca: (Xin mời
Cộng đoàn thưa)
Đây là ngày Chúa đă lập ra, chúng ta hăy mừng rỡ hân hoan về ngày đó.
1.
Hăy cảm tạ
Chúa, v́ Chúa hảo tâm, v́ đức từ bi của Người muôn thuở. Hỡi nhà Israel, hăy
xướng lên: “Đức từ bi của Người muôn thuở”.
2.
Tay hữu
Chúa đă hành động mănh liệt, tay hữu Chúa đă cất nhắc tôi lên. Tôi không chết,
nhưng tôi sẽ sống, và tôi sẽ loan truyền công cuộc của Chúa.
3.
Phiến đá
mà những người thợ xây loại bỏ, đă biến nên tảng đá góc tường. Việc đó đă do
Chúa làm ra, việc đó kỳ diệu trước mặt chúng ta.
BÀI ĐỌC II: Col 3:1-4
“Anh em hăy t́m những sự trên trời, nơi Đức Kitô ngự”
Bài trích thơ Thánh
Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Côlossê.
Anh em thân mến, nếu anh em đă sống lại với Đức
Kitô, anh em hăy t́m những sự trên trời, nơi Đức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa.
Anh em hăy nghĩ đến những sự trên trời, chớ đừng nghĩ đến những sự dưới đất. V́
anh em đă chết, và sự sống anh em được ẩn giấu với Đức Kitô trong Thiên Chúa.
Khi Đức Kitô là sự sống anh em xuất hiện, bấy giờ anh em sẽ xuất hiện với Người
trong vinh quang.
Lời của Chúa.
CA TIẾP LÊN
Các Kitô hữu hăy tiến dâng lời khen ngợi hy lễ Vượt Qua.
Chiên con đă cứu chuộc
đoàn chiên mẹ:
Đức Kitô vô tội, đă ḥa giải tội nhân với Chúa Cha.
Sống và chết hai bên song đấu cách diệu kỳ, tướng lănh sự sống đă chết đi, nhưng
vẫn sống mà cai trị.
Hỡi Maria, hăy nói cho chúng tôi nghe bà đă thấy ǵ trên quăng đường đi?
Tôi đă thấy mồ Đức Kitô đang sống và vinh quang của Đấng phục sinh, thấy các
thiên thần làm chứng, thấy khăn liệm và y phục.
Đức Kitô là hy vọng của tôi đă phục sinh, Người đi trước chư vị tới xứ Galilêa.
Chúng tôi biết Đức Kitô đă sống lại thật từ cơi chết!
Lạy Chúa, Vua chiến thắng, xin thương xót chúng tôi.
(Xin mời Cộng đoàn đứng)
Alleluia, alleluia. — Lễ Vượt Qua của chúng ta là Đức Kitô
đă hiến tế; vậy chúng ta hăy mừng lễ trong Chúa. — Alleluia.
PHÚC ÂM: Joan 20:1-9
“Người phải sống lại từ cơi chết”
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô
theo Thánh Gioan.
Ngày đầu tuần, Maria Mađalêna đi ra mồ từ sáng sớm
khi trời c̣n tối và bà thấy tảng đá đă được lăn ra khỏi mồ, bà liền chạy về t́m
Simon-Phêrô và người môn đệ khác được Chúa Giêsu yêu mến, bà nói với các ông
rằng: “Người ta đă lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đă để
Thầy ở đâu”. Phêrô và môn đệ kia ra đi đến mồ. Cả hai cùng chạy, nhưng môn đệ
kia chạy nhanh hơn Phêrô, và đến mồ trước. Ông cúi ḿnh xuống thấy những khăn
liệm để đó, nhưng ông không vào trong. Vậy Simon-Phêrô theo sau cũng tới nơi,
ông vào trong mồ và thấy những dây băng nhỏ để đó, và khăn liệm che đầu Người
trước đây, khăn nầy không để lẫn với dây băng, nhưng cuộn lại để riêng một chỗ.
Bấy giờ môn đệ kia mới vào dù ông đă tới mồ trước. Ông thấy và ông tin, v́ chưng
các ông c̣n chưa hiểu rằng, theo Kinh Thánh, th́ Người phải sống lại từ cơi chết.
Phúc Âm của Chúa.
SUY NIỆM
VINH QUANG BA NGÔI NƠI VIỆC CHÚA KITÔ PHỤC SINH
ĐTC GPII Bài Giáo Lư Năm Thánh
2000 số 10, Thứ Tư
10/5/2000
1-
Đích điểm cuối cùng trong cuộc hành tŕnh suốt cả cuộc đời của Chúa Kitô không
phải là ngôi mộ tăm tối mà là bầu trời sáng ngời Phục Sinh. Đức tin Kitô Giáo
được xây trên mầu nhiệm này (x 1Cor 15:1-20), như Giáo Lư Giáo Hội Công Giáo
đă nhắc lại cho chúng ta thấy: “Việc Phục Sinh của Chúa Giêsu là chân lư tuyệt
đỉnh của niềm tin chúng ta đặt nơi Chúa Kitô, một niềm tin được cộng đồng Kitô
hữu tiên khởi tin tưởng và sống như là một chân lư chính yếu; được Truyền Thống
chuyển đạt như là một chân lư nền tảng; được các văn kiện Tân Ước thiết lập; và
được rao giảng như là một phần chính yếu của mầu nhiệm vượt qua đi liền với thập
giá” (số 638).
Một tác giả thần bí Tây Ban Nha
thuộc thế kỷ 16 đă nói: “Càng căng buồm lướt sóng người ta càng khám phá thấy
trong Thiên Chúa những vùng biển cả” (Friar Luis de Léon). Giờ đây chúng ta muốn
thực hiện một cuộc hải tŕnh đi vào vùng biển mênh mông của mầu nhiệm này, hướng
tới ánh sáng hiện diện của Thiên Chúa Ba Ngôi trong những biến cố Phục Sinh.
Việc hiện diện này kéo dài cả 50 ngày sau Phục Sinh.
2-
Không giống như các bản văn ngụy kinh, các bản Phúc Âm được Giáo Hội công nhận
không tŕnh bày biến cố Phục Sinh lẻ loi một ḿnh mà là với việc Chúa Kitô phục
sinh hiện diện một cách mới mẻ và khác nhau giữa các môn đệ của Người.
Chính tính cách mới mẻ này đă làm nên đặc tính của cảnh
tượng đầu tiên là những ǵ chúng ta đang muốn suy tư đây. Đó là lần xuất
hiện diễn ra tại một thành Giêrusalem vào lúc vẫn c̣n mờ nhạt ánh sáng rạng đông,
ở chỗ, một người phụ nữ là Maria Mai Linh và một người đàn ông đă gặp nhau tại
một nghĩa trang. Thoạt tiên người phụ nữ không nhận ra người đàn ông đang tiến
lại gần ḿnh, song người đó lại là chính Giêsu Nazarét, Đấng chị đă nghe lời
Người nói và là Đấng đă làm thay đổi cuộc đời của chị. Để
nhận ra Người, chị cần phải có một nguồn kiến thức khác với lư trí và cảm quan
của chị. Đó là đường lối đức tin đă mở ra cho chị khi
chính chị nghe thấy gọi đích danh tên của ḿnh (x Jn
20:11-18).
Chúng ta hăy chú ư tới cảnh tượng này, đến những lời của
Đấng Phục Sinh. Người nói: “Thày đang về cùng Cha Thày cũng là Cha của
các con, cùng Thiên Chúa của Thày cũng là Thiên Chúa của các con” (Jn 20:17),
như thế là Người tỏ cho thấy Cha trên trời, Đấng mà Chúa Kitô, khi thân thưa
“Cha ơi”, muốn nhấn mạnh đến mối liên hệ đặc biệt chuyên nhất của Người, khác
với mối liên hệ giữa Chúa Cha và các môn đệ của Người: “Cha của các con”. Nguyên
trong Phúc Âm theo Thánh Mathêu mà thôi, Chúa Giêsu
đă 17 lần gọi Thiên Chúa là “Cha ơi”. Thánh kư thứ bốn sử dụng hai từ ngữ Hy Lạp
khác nhau, một là hyios để nói lên vai tṛ con cái hoàn toàn và trọn vẹn
của Chúa Kitô, và chữ kia là tekna để ám chỉ về việc chúng ta là con cái
thực sự của Thiên Chúa song không phải là con cái chính cống.
3-
Cảnh tượng thứ hai đưa chúng ta từ Giêrusalem tới một ngọn núi ở phía bắc xứ
Galilêa. Ở đó đă xẩy ra một cuộc Kitô hiển, tức là việc Đấng
Phục Sinh tỏ ḿnh ra cho các Vị Tông Đồ (x Mt 28:16-20).
Đây là một biến cố long trọng của việc mạc khải, nhận biết
và sứ vụ. Bằng quyền toàn năng cứu độ của ḿnh, Người đă truyền cho Giáo
Hội phải loan báo Phúc Âm, rửa tội và giảng dạy các dân nước để nhờ đó họ sống
theo các giới luật của Người. Chúa Ba Ngôi đă hiện lên nơi những lời chính yếu
này, những lời được lập lại nơi công thức Rửa Tội Kitô Giáo qua thừa tác của
Giáo Hội: “Các con hăy rửa tội cho họ (tất cả mọi dân nước) nhân danh Cha và Con
và Thánh Thần” (Mt 28:19)
Một cây bút Kitô Giáo xưa kia là
Theodore Mopsuestia (ở vào thế kỷ thứ bốn sang thế kỷ thứ năm) đă chú giải như
sau: “Những lời nhân danh Cha và Con và Thánh Thần tỏ cho thấy rằng ai
mới chính là tác nhân ban cho chúng ta các ơn lành của Phép Rửa: như ơn tái sinh,
ơn canh tân, ơn bất tử, ơn bất hoại, ơn bất ải, ơn được giải cứu khỏi sự chết,
khỏi bị làm nô lệ cũng như khỏi tất cả mọi sự dữ, ơn được hưởng tự do và tham dự
vào những phúc lợi sau này. Đó là lư do tại sao chúng ta được rửa tội!
Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần được kêu cầu để anh em
nhận ra nguồn mạch những ơn lành của Phép Rửa” (Bài giảng II Về Phép Rửa,
17).
4-
Giờ đây chúng ta bước sang cảnh tượng thứ ba để suy tưởng.
Cảnh này đưa chúng ta về lại thời gian Chúa Giêsu c̣n bước đi trên những con
đường của Đất Thánh, với những lời Người nói và việc Người làm. Trong lễ
Lều Tạm vào mùa thu của nước Do Thái bấy giờ, Người
đă loan báo rằng: “Ai có khát th́ hăy đến với Tôi mà uống.
Ai tin vào Tôi th́, như Thánh Kinh đă viết, ‘từ ḷng họ những gịng sông chảy
nước sự sống sẽ tuôn ra’” (Jn
7:37-38).
Thánh Kư Gioan đă giải thích những lời này một cách xác đáng theo ư nghĩa của
vinh quang Phục Sinh cũng như theo tặng ân Thánh Linh thế này: “Người nói điều
này về Thần Linh, Đấng mà những ai tin vào Người cần phải được lănh nhận; Thần
Linh chưa được thông ban là v́ Chúa Giêsu chưa được vinh hiển” (Jn 7:39).
Vinh quang Phục Sinh đă được
thông ban và cùng với vinh quang này là tặng ân Thần Linh trong ngày Lễ Ngũ Tuần,
ngày Chúa Giêsu báo trước cho các Vị Tông Đồ của Người biết vào ngay buổi tối
ngày Người Phục Sinh. Hiện ra trên Căn Thượng Lầu, Người thở hơi trên các vị mà
phán: “Các con hăy nhận lấy Thánh Linh” (Jn 20:22).
5-
Như thế là Chúa Cha và Thần Linh hiệp nhất với Chúa Con vào giây phút tuyệt đỉnh
của Việc Cứu Chuộc. Đó là những ǵ Thánh Phaolô xác nhận ở một đoạn hết sức rơ
ràng trong Bức Thư gửi Giáo Đoàn Rôma, một đoạn thánh nhân nhắc lại việc Chúa Ba
Ngôi thực sự có liên quan tới Cuộc Phục Sinh của Chúa Kitô cũng như cuộc phục
sinh của tất cả chúng ta: “Nếu Thần Linh của Đấng phục sinh Chúa Giêsu từ trong
kẻ chết ở trong anh em th́ Đấng đă phục sinh Đức Kitô… từ trong kẻ chết cũng sẽ
ban sự sống cho thân xác chết chóc của anh em, nhờ cùng một Thần Linh của Ngài
là Đấng ngự trong anh em” (Rm 8:11).
Điều kiện để thực hiện lời hứa
này cũng đă được Thánh Tông Đồ cho biết trong cùng Bức Thư trên: “Nếu môi miệng
anh em tuyên xưng rằng Giêsu là Chúa và ḷng trí anh em tin rằng Thiên Chúa đă
phục sinh Người từ trong kẻ chết th́ anh em sẽ được cứu độ” (Rm 10:9). Khía cạnh
Ba Ngôi trong việc tuyên xưng đức tin hợp với bản chất Ba Ngôi nơi biến cố Phục
Sinh. Thật vậy, “không có Thánh Linh không ai có thể nói
‘Giêsu là Chúa’” (1Cor 12:3), và những ai nói điều này, tuyên xưng điều này đều
là để “cho vinh quang của Thiên Chúa là Cha” (Phil
2:11).
Vậy chúng ta hăy chấp nhận đức
tin của mầu nhiệm vượt qua và niềm vui từ đó mà ra, bằng việc lấy chính bản
thánh ca Vọng Phục Sinh của Giáo Hội Đông Phương như là của ḿnh để xướng lên
rằng: “Ôi Chúa, tất cả mọi sự đă được việc Chúa Phục Sinh soi chiếu, và thiên
đàng lại được mở ra. Tất cả mọi tạo vật chúc tụng Chúa và mỗi ngày hiến dâng lên
Chúa một bản thánh ca. Tôi tôn vinh quyền năng của Chúa Cha và của Chúa Con; tôi
chúc tụng quyền bính của Chúa Thánh Thần, Ba Ngôi Thiên Chúa bất phân chia, tự
hữu và đồng bản thể, Đấng hiển trị muôn muôn đời” (Kinh nguyện của Thánh
Gioan Đamascênô, Thứ Bảy Tuần Thánh, giọng thứ ba).
(Đaminh Maria
Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ Tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ,
17/5/2000)
CHUYỆN VỚ VẨN
“Từ mồ trở
về, họ đă kể lại mọi việc cho nhóm Mười Một và những người khác. Các bà khác
cùng đi với họ cũng kể lại cho các Tông Đồ, nhưng những lời đó, các ông cho là
chuyện vớ vẩn, nên không tin” (Lc 24: 9-11).
Đúng là một chuyện vớ vẩn. Chuyện đàn bà con nít. Mới sáng sớm tinh sương đă ḷ
ṃ ra mồ để rồi sợ hăi, và cuống quít lên. B́nh thường, đàn ông con trai một
ḿnh đi ra nghĩa trang hay lạc vào một băi tha ma trong những thời điểm như thế
cũng đă rợn tóc gáy và ngán ngẩm lắm rồi nói chi đến các bà, các cô. Trong những
trường hợp như vậy chỉ một tiếng động nhỏ, hay một cành lá bị gió đưa nghe xào
xạc cũng đủ tạo thành những ấn tượng làm cho người ta sợ hăi. Theo tâm lư th́
khi đă có ấn tượng sợ hăi, lập tức người ta run rẩy, và hồi hộp. Hoặc ngược lại
người ta hồi hộp rồi tạo ra ấn tượng sợ hăi. Một người sợ hăi th́ càng chạy càng
thấy sợ, hay một người càng chạy càng thấy hồi hộp sợ hăi. Trường hợp của các
phụ nữ mà Tin Mừng đă kể lại trong sáng sớm Chúa Nhật Phục Sinh cũng có cùng một
tâm lư như vậy.
Khóc lóc v́ thương Thầy. Lo sợ v́ không biết làm cách nào để vào được trong mồ.
Nhưng khi ḥn đá che cửa mồ mở sẵn th́ lại bàng hoàng sợ hăi. Nhất là khi tự
nhiên lại thấy sự xuất hiện của mấy thiên thần trong mộ. Từ sợ hăi đến vui mừng.
Từ vui mừng đến quên sót, lú lẫn khiến các bà không c̣n định thần và b́nh tĩnh
đủ để thuật lại những ǵ ḿnh đă thấy, những ǵ ḿnh đă nghe, nên kể lể lung
tung. Thánh Máccô đă phân tích và ghi lại tâm lư của các bà như sau: “Các bà
chạy ra khỏi mồ trốn đi, run rẩy kinh hồn chẳng dám nói ǵ với ai v́ sợ hăi” (Mc
16: 8). Sự hoang mang và lo lắng ấy c̣n lây lan tới cả các Tông Đồ. Thánh Kư
Luca ghi lại phản ứng của các ông như sau: “Từ mồ trở về, họ đă kể lại mọi việc
cho nhóm Mười Một và những người khác. Các bà khác cùng đi với họ cũng kể lại
cho các Tông Đồ, nhưng các ông cho là chuyện vớ vẩn, nên không tin” (Luc 24:9).
Nhưng để chắc ăn hơn th́ Phêrô cũng đă ra mồ. Thánh Kinh kể rằng: “Tuy nhiên
Phêrô đă đứng dậy và chạy ra mồ. Ông cúi xuống nhưng không thấy ǵ, ngoài trừ
các khăn liệm. Do đó ông ra khỏi mồ ḷng đầy hoang mang về những ǵ đă xẩy ra”
(Luc 24: 9-12).
Các Thánh Kư khi thuật lại biến cố phục sinh của Chúa Giêsu đă có cùng một nhận
xét rất rơ ràng rằng, những người đầu tiên khám phá ra việc Chúa phục sinh là
những phụ nữ. Những phụ nữ với ḷng yêu mến và tin theo Chúa ngay từ ban đầu.
Nhưng các Thánh Kư cũng cho biết là những người chứng nhận và xác định việc Chúa
sống lại là các Tông Đồ, trong đó có Phêrô và Gioan. Chi tiết này đă được Thánh
Gioan kể lại: “Khi nghe thế, Phêrô và môn đệ kia đi ra mồ. Họ cùng chạy bên nhau,
nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn Phêrô và đến mồ trước. Ông đă không vào nhưng
chỉ cúi nh́n vào trong và thấy những khăn liệm ở dưới đất. Cùng lúc Simon Phêrô
tới sau và vào trong mồ. Ông thấy những khăn liệm trên đất, và nh́n thấy tấm
khăn phủ đầu không nằm chung với những khăn liệm, nhưng được cuốn lại và để
riêng ra. Lúc đó người môn đệ đă đến trước mới vào trong mồ. Ông đă thấy và đă
tin. Thật vậy, trước đó các ông không hiểu rằng theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải
sống lại từ cơi chết” (Gio 20: 3-10).
Đến đây th́ chuyện tưởng như vớ vẩn kia đă mang một ư nghĩa hoàn toàn khác. Nó
không c̣n là chuyện vớ vẩn theo cái nghĩa đàn bà con nít nữa, mà đă trở thành
một mầu nhiệm sự sống và mầu nhiệm cứu độ của nhân loại. Chúa Giêsu đă phục sinh
và đă sống lại từ cơi chết. Việc Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá. Việc
Ngài chịu mai táng và phục sinh như vậy là một chuyện có thật. Nhưng cho đến
nay, vẫn c̣n nhiều người chưa tin. Và như các Tông Đồ lúc ban đầu, nhiều Kitô
hữu ngày nay vẫn cho rằng đó chỉ là chuyện vớ vẩn. V́ sao? V́ thiếu những chứng
nhân. V́ loan báo một cách vụng về và lúng túng. Và v́ nhiều ngưỡi không muốn
t́m hiểu và nh́n vào biến cố ấy.
Thật vậy, nếu không có những tâm hồn yêu mến Chúa một cách sốt sắng, nồng nàn
như Mađalêna và các phụ nữ được nhắc tới trong Thánh Kinh, chưa chắc ǵ biến cố
phục sinh của Chúa được các Tông Đồ biết đến. Nhưng rồi cũng các bà, và những
người như các bà, v́ lúng túng, vụng về, hoặc v́ quá t́nh cảm nên làm cho biến
cố ấy mất đi tính chất rơ ràng và khả tín của nó. Thật vậy, nhiều Kitô hữu không
phải là không tin hoặc không nói về Chúa. Nhưng v́ không chủ tâm vào việc t́m
ṭi, học hỏi, nên khi tŕnh bày về Chúa họ đă để cho những yếu tố t́nh cảm, hoặc
cảm xúc cá nhân làm cho ơn cứu độ của Ngài mất đi tính cách thuyết phục, và quan
trọng của nó. Và sau cùng, v́ thiếu những người như Phêrô, như Gioan. Thiếu
những người dám chạy ra mồ và cúi xuống nh́n mồ. Thiếu những người dám đối diện
với lương tâm ḿnh. Dám trực diện với đời sống tâm linh, dám chấp nhận Chúa Kitô
Phục Sinh.
Chúa sống lại và ra khỏi mồ. Ngài không c̣n ở trong mồ tối nữa. Ngài đang ở đâu
đó để đón bạn và tôi như Ngài đă đến Galilêa trước để đón tiếp các môn đệ Ngài
sau khi phục sinh từ cơi chết. Nhưng để nhận ra Ngài, trước hết chúng ta phải đi
ra mồ, phải chạy, phải cúi xuống nh́n vào trong mồ để khám phá ra sự thật về
quyền năng sống lại của Ngài. Tức là phải t́m, phải hiểu, và phải xác tín về
Ngài bằng cách chấp nhận và đem Ngài vào cuộc sống, vào cuộc đời ḿnh. Chỉ khi
đó, chúng ta mới có can đảm cùng chết với Ngài và hiểu được thế nào là cùng Ngài
phục sinh.
Trần Mỹ
Duyệt
Ngôi Mộ Trống: Dấu Chứng Phục Sinh
Theo Phụng
Niên của Giáo Hội chỉ có hai lễ rất trọng đáng được gọi là Đại Lễ, đó là Đại Lễ
Phục Sinh và Đại Lễ Giáng Sinh. Bởi v́, về phương diện Phụng Vụ, trước và sau
hai Đại Lễ này đều có một tuần bảy đặc biệt, và chính ngày lễ c̣n có nhiều lễ
khác nhau nữa. Trước hết, về tuần bảy sau hai Đại Lễ này, kể cả chính Ngày Đại
Lễ, được gọi là Tuần Bát Nhật, Tuần Bát Nhật Phục Sinh và Tuần Bát Nhật Giáng
Sinh, các lễ trọng khác, kể cả Lễ Chúa Ba Ngôi hay Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống
cũng không có; và tuần bảy trước hai Đại Lễ này, có Tuần Thánh trước Đại Lễ Phục
Sinh và Tuần Lễ đặc biệt từ 18 tới 24 trước Đại Lễ Giáng Sinh. Chưa hết, về
chính ngày lễ, Đại Lễ Giáng Sinh có tất cả 4 lễ khác nhau, Lễ Vọng, Lễ Đêm, Lễ
Sáng và Lễ Ngày, c̣n Đại Lễ Phục Sinh có 3 lễ khác nhau, đó là Lễ Vọng, Lễ Sáng
và Lễ Chiều. Mỗi thánh lễ khác nhau của hai Đại Lễ này đều có Bài Phúc Âm rất
thích hợp cho thời điểm của Thánh Lễ được cử hành. Chẳng hạn Lễ Chiều Phục Sinh
có bài Phúc Âm về việc Chúa Giêsu hiện ra với hai môn đệ đi về làng Emmau chiều
hôm đó.
Sở dĩ chúng tôi chọn bài Phúc Âm cho Lễ Vọng Phục Sinh v́ hầu hết chúng ta
thường tham dự Thánh Lễ này hơn các Thánh Lễ Ban Ngày và Ban Chiều Phục Sinh, dù
Thánh Lễ Vọng có dài bởi các nghi thức, và nhất là bởi các bài đọc ôn lại lịch
sử cứu độ Thiên Chúa đă thực hiện từ khi tạo thành trời đất, trong đó con người
đă sa ngă, song được Ngài hứa cứu độ, cho đến khi Ngài thực sự và hoàn tất lời
hứa của ḿnh, bằng cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô, Đấng đă tử nạn và phục sinh,
đúng như lề luật và lời tiên tri loan báo, nhất là lời của chính Chúa Kitô đă
báo trước 3 lần cho các môn đệ biết. Riêng về ba bài Phúc Âm cho Thánh Lễ Vọng
Phục Sinh hôm nay của cả ba chu kỳ phụng vụ A, B và C, chúng ta cũng thấy rất
thích hợp với thời điểm Vọng Phục Sinh. Bởi v́, ba bài Phúc Âm cho Thánh Lễ Vọng
Phục Sinh chưa nói ǵ tới việc Chúa Kitô chính thức hiện ra, mà chỉ nói đến
những dấu hiệu cho thấy Người đă sống lại rồi mà thôi. Tuy trong bài Phúc Âm
theo Thánh Mathêu của Năm A, ở đoạn cuối có nói đến việc Người hiện ra với các
phụ nữ, nhưng thực ra vẫn chưa phải là lần đầu tiên và là lần chính thức Người
hiện ra với các tông đồ là thành phần chứng nhân tiên khởi của Người, thành phần
Người sẽ sai đi khắp thế gian.
Đó là lư do chúng ta thấy trong bài Phúc Âm Chúa Giêsu Phục Sinh đă thúc giục
các bà đi báo tin cho các tông đồ. Bài học đầu tiên được rút ra ở đây là giáo
dân hay tu sĩ dù có được hân hạnh Chúa Mẹ hiện ra mạc khải tư cho biết một điều
ǵ đó, như ở Paris năm 1830, ở Lộ Đức năm 1854, hay ở Fatima năm 1917, cũng phải
được Giáo Hội cứu xét và chuẩn nhận qua hàng giáo phẩm của thẩm quyền địa phương.
Thế nhưng, Phúc Âm Thánh Luca của chu kỳ Năm C hôm nay lại cho chúng ta thấy kết
quả của việc các bà báo tin thế này: “Nhưng những lời đó, các ông cho là chuyện
vớ vẩn, nên các ông không tin. Dầu vậy, Phêrô cũng đứng dậy chạy ra mồ, nhưng
khi cúi xuống nh́n, ông chỉ thấy những khăn liệm nằm đó và ông trở về nhà, rất
đỗi ngạc nhiên về sự đă xẩy ra”. Vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao, cũng như
các tông đồ khác không tin lời các bà báo tin, Phêrô lại chạy ra mồ và tỏ ra
ngạc nhiên khi thấy dấu lạ?
Thật ra, ngay lúc Chúa Kitô tử giá nằm trong mồ tự ḿnh sống lại, không ai biết
được sự kiện đă diễn biến ra sao? Giây phút Lời Nhập Thể trong ḷng Trinh Nữ
Maria, cũng như giây phút Người được sinh ra cũng thế, không ai trong loài người
chúng ta, kể cả tạo vật diễm phúc nhất và gần Người nhất là Mẹ Maria, cũng không
biết được đă xẩy ra như thế nào theo tự nhiên hay theo khoa học. Chính v́ thế,
không phải hễ được thấy Chúa Giêsu, sống với Chúa Giêsu là Mẹ không cần phải có
đức tin nữa, trái lại, đức tin của Mẹ càng phải mạnh mẽ hơn ai hết, đến nỗi, đă
có lúc Mẹ đă hoàn toàn bị mù tối, như có lần Phúc Âm Thánh Luca thuật lại Mẹ
chẳng hiểu ǵ sau khi nghe thiếu nhi Giêsu 12 tuổi trả lời câu Mẹ trách yêu
Người, khi t́m thấy Người trong đền thờ sau ba ngày lạc mất. Quả đúng như lời bà
Thánh Isave nói trong Phúc Âm Thánh Luca, Mẹ có phúc v́ đă tin hơn là có phúc v́
được cưu mang và cho Con Thiên Chúa bú. Về niềm tin tưởng Chúa Kitô sẽ phục sinh,
chúng ta thấy Phúc Âm Nhất Lăm không kể đến tên Mẹ trong số các phụ nữ ra thăm
mồ vào sáng sớm của ngày thứ nhất trong tuần, như Sách Tông Đồ Công Vụ của Thánh
Luca đă nhắc đến việc Mẹ thực sự có mặt cùng với các tông đồ trước Ngày Lễ Ngũ
Tuần để chờ đón Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Nếu Mẹ có phúc v́ đă tin những lời
Chúa phán cùng Mẹ sẽ được thực hiện qua thiên sứ Gabiên, những lời xác nhận Con
Trẻ Mẹ sinh ra sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Đấng Tối Cao, triều đại Người
sẽ vô tận, th́ Mẹ đă vững tin rằng Con Mẹ chắc chắn sẽ sống lại.
Tuy nhiên, vấn đề Chúa Kitô phục sinh vô cùng quan trọng, đến nỗi, nếu Người
không sống lại th́ Người không thực sự là Thiên Chúa, mà đă không thực sự là
Thiên Chúa th́ tất cả những ǵ Người mạc khải về Chúa Ba Ngôi cũng như về quyền
bính tối thượng của Giáo Hội liên quan đến phần rỗi đời đời của con người đều là
giả tạo. Vậy nếu chúng ta tin tưởng vào những điều ấy và rao giảng những điều ấy
th́ quả thực Kitô hữu chúng ta là những kẻ khờ dại nhất và tội nghiệp nhất, đúng
như lời Thánh Phaolô nói trong Thư 1 gửi Giáo Đoàn Côrintô đoạn 15, câu 19. Bởi
đó, Kitô hữu chúng ta dầu sao cũng cần phải biết ḿnh có tin nhảm hay không, có
hoang đường hay không, tức là chúng ta phải biết chắc việc chúng ta tin tưởng
Chúa Kitô thực sự đă sống lại là đúng, chứ không phải chỉ là một câu chuyện bịa
đặt, như nó vẫn c̣n được truyền khẩu trong dân gian Do Thái, được Phúc Âm Thánh
Mathêu ghi lại ở đoạn 28, từ câu 11 đến câu 15, là thi thể của Giêsu Nazarét tử
giá ở trong mồ đă được các môn đệ đến lấy đi.
Trước hết, chúng ta cần minh định hai điều liên quan đến đức tin của Kitô hữu
chúng ta như sau. Thứ nhất, đức tin vượt trên tất cả mọi quan sát giác quan và
lư luận thường t́nh, bằng không, đức tin cũng chỉ là hay không hơn ǵ khoa học
tự nhiên hay triết học siêu h́nh. Tuy nhiên, không phải v́ thế mà đức tin là
những ǵ mê tín dị đoan, không cần hay không có chứng cớ để tin. Trái lại, theo
Giáo Lư của Giáo Hội Công Giáo số 156, đức tin của Kitô hữu rất hợp với lư trí
của tất cả mọi người. Đó là lư do Chúa Giêsu mới quả quyết với các tông đồ trong
Phúc Âm Thánh Gioan ở đoạn 14 câu 29 rằng:” Thày nói điều này cho các con biết
bây giờ, trước khi sự việc xẩy ra, để khi sự việc xẩy ra th́ các con sẽ tin”.
Vậy, áp dụng đường lối cần phải có dấu chứng đức tin này vào sự kiện Chúa Giêsu
phục sinh từ trong kẻ chết, chúng ta thấy được những ǵ và những điều đó có đáng
tin hay chăng?
Trước hết, theo các Phúc Âm của Thánh Lễ Vọng Phục Sinh thuật lại, th́ dấu chứng
đức tin phục sinh duy nhất về việc Chúa Giêsu sống lại là ngôi mộ trống! Phúc Âm
Thánh Luca Năm C hôm nay cho thấy rơ điều này qua câu “Thấy ḥn đá lăn ra khỏi
mồ, nhưng bước vào, các bà không thấy xác Chúa Giêsu đâu cả”. Xác Chúa Giêsu
không ở trong mồ th́ cũng chưa chắc là Người đă sống lại, hay đă được các môn đệ
lấy trộm như tin đồn trong dân gian Do Thái. Tuy nhiên, theo Phúc Âm Mathêu
thuật lại, mồ của Chúa đă được thuộc hạ của Hồi Đồng Do Thái canh giữ hết sức
cẩn thận và nghiêm ngặt, như họ xin phép Philatô và được phép làm như thế, v́
chính họ đă nghe Chúa Kitô khi c̣n sống nói về đền thờ thân thể Người là cứ phá
nó đi sau ba ngày Người sẽ dựng lại, nghĩa là sẽ sống lại. Nên họ sợ rằng, nếu
không canh giữ cẩn thận ngôi mộ của Người th́ xác của Người sẽ bị lấy đi, làm
dân chúng lại tưởng Người sống lại như lời Người nói mà tin Người là Con Thiên
Chúa th́ nguy. Trong khi đó, thành phần môn đệ vẫn nhút nhát của Người, đến nỗi
vị trưởng đoàn đă chối Thày ba lần trước câu hỏi của một cô tớ gái thuộc gia vị
thượng tế, th́ làm sao có thể dám mon men đến ngôi mộ canh gác cẩn mật ấy lấy
xác của Người đi được?
Chưa hết, dấu hiệu ngôi một trống, ngôi mộ không c̣n xác của Người trong mồ,
không phải chỉ là một sự việc xẩy ra ngẫu nhiên và bất ngờ, mà là một sự việc đă
được tiên báo trước, chẳng những bởi những ǵ đă được viết trong Sách Thánh của
Dân Do Thái, mà c̣n bởi chính Đấng biết ḿnh sẽ sống lại, như lời thiên thần
nhắc nhở các phụ nữ đến thăm mồ trong Phúc Âm Thánh Luca hôm nay: “Các bà hăy
nhớ lại những ǵ Người đă nói với các bà khi Người c̣n ở Galilêa. Người đă nói:
Con Người phải bị nộp vào tay những kẻ tội lỗi, bị đóng đanh vào thập giá và
ngày thứ ba sẽ sống lại”. Như thế, ngôi mộ trống là dấu chứng đức tin duy nhất
và hùng hồn nhất cho thấy việc Chúa Giêsu thực sự đă sống lại từ trong kẻ chết
đúng như lời Người tiên phán vậy thưa chị và quí vị thính giả.
Tóm lại, đối với những ai đă thực sự tin rằng Chúa Kitô là Lời Nhập Thể, là
Thiên Chúa Làm Người, như Maria Mẹ của Người đă tin, th́ việc Người sống lại là
điều tất yếu phải xẩy ra. Bởi v́, theo thần học, Người là một ngôi vị có hai bản
tính, và bản tính nhân loại của Người được nên một với bản tính thần linh của
Người, nên dù linh hồn của Người có ĺa khỏi thân xác trên cây thập giá, th́ xác
của Người vẫn không bao giờ bị tách khỏi thần tính bất diệt, do đó, thân xác của
Người phải sống lại, chứ không thể nào bị hư đi, đúng như lời Thánh Vịnh 16, câu
10 đă báo trước: “Chúa sẽ không bỏ rơi linh hồn tôi trong âm phủ và sẽ không để
tôi trung của Ngài bị hư nát”.
Những luận cứ thần học về mầu nhiệm Ngôi Hiệp của hai bản tính nơi Chúa Kitô, và
chứng từ Thánh Kinh liên quan đến lịch sử có thể chứng minh cho thấy việc Chúa
Kitô thực sự đă sống lại từ trong cơi chết. Luận cứ và chứng từ này, một có thể
sử dụng để tŕnh bày cho người ngoài Kitô giáo, đó là chứng từ Thánh Kinh liên
quan đến lịch sử, và một cho chính Kitô hữu, đó là luận cứ thần học về mầu nhiệm
Ngôi Hiệp của hai bản tính nơi Người. Phần Chúa Kitô, để chứng thực cho các môn
đệ của ḿnh thấy rằng Người đă thực sự sống lại từ trong cơi chết, theo các Phúc
Âm thuật lại, Người chẳng những đă phải dùng đến những chứng từ tự nhiên bề
ngoài, mà c̣n phải trực tiếp tác động bề trong của các vị ấy nữa, bằng một tiến
tŕnh tỏ ḿnh cho mắt của các vị, rồi tới trí của các vị, sau cùng là đến ḷng
của các vị.
Thật vậy, trước hết Chúa Kitô Phục Sinh đă tỏ ḿnh cho mắt các môn đệ của Người
thấy rằng Người thực sự đă sống lại, trước hết, ở chỗ Người đă ăn uống trước mắt
các vị và cho các vị thấy những dấu vết khổ nạn của Người, nghĩa là Người cho
các vị thấy rằng thân xác các vị đang thấy đó không phải là ma quái mà là chính
thân xác Thày của các vị; sau đó, Người c̣n nhắc cho trí các vị nhớ lại các lời
Thánh Kinh Cựu Ước báo trước cuộc Vượt Qua của Người từ sự chết đến sự sống,
nghĩa là Người muốn tỏ cho các vị biết rằng, việc Người phục sinh là một chuyện
có thật chứ không phải hoang đường giả tạo; sau hết, Người c̣n cần phải mở ḷng
của các vị ra, nhờ đó các vị mới hiểu được các lời Thánh Kinh ấy, để các vị
chẳng những có thể chấp nhận một sự thật vô cùng siêu việt nhưng lại hết sức
hiển nhiên, đó là Thày của các vị đă thực sự sống lại từ trong cơi chết, mà c̣n
có thể loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho mọi tạo vật như được Người sai đi, bằng
việc làm chứng nhân cho Người, Đấng Thiên Sai, Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần, nơi mọi
dân tộc tới tận cùng trái đất.
Sở dĩ Kitô hữu hậu sinh chúng ta tin Chúa Kitô Phục Sinh là do chứng từ của các
vị tông đồ, những chứng nhân tiên khởi, những vị đă nh́n tận mắt thân xác phục
sinh của Chúa Kitô và đă thấu tận tâm can mầu nhiệm Người phục sinh, do đó, các
vị đă dám hy sinh mạng sống ḿnh để minh chứng chân lư bất diệt, chân lư Thày là
Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Thật vậy, v́ sống lại từ trong cơi chết,
Giêsu Nazarét, nhân vật đă bị Hội Đồng Do Thái lên án tử và nhà cầm quyền
Philatô của đế quốc Rôma tuyên án tử giá, chính là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng
sống, Đấng đă hóa thành nhục thể, đă tử nạn và phục sinh, để con người có thể
hiệp thông với Thiên Chúa, được thông phần bản tính thiện hảo và sự sống thần
linh của Thiên Chúa.
Đúng thế, tự ḿnh, Thiên Chúa không thể nào chết được, như Người phán trong Phúc
Âm Thánh Gioan ở đoạn 10 câu 18: “Không ai có thể lấy được mạng sống của Tôi”.
Song Thiên Chúa đă mặc lấy bản tính loài người để có thể chết cho nhân loại thế
nào, như Người cũng phán tiếp ngay trong cùng câu Phúc Âm trên: “Tôi tự ư bỏ sự
sống của Tôi và Tôi có quyền lấy nó lại”, th́ nhân loại vốn không thể sống
trường sinh vinh phúc cũng nhờ thần tính bất tử của Người mà được sống đời đời
như vậy. Đó là lư do Vị Thiên Chúa Nhập Thể đă phán trong Phúc Âm Thánh Gioan
đoạn 11 câu 25: “Thày là sự sống lại và là sự sống”. Đó là tất cả ư nghĩa của
Tin Mừng Phục Sinh, một Tin Mừng cho thấy nhân loại chúng ta nói chung và Kitô
hữu chúng ta nói riêng, nhờ Chúa Kitô, Thiên Chúa Nhập Thể, chúng ta đă được
vượt qua sự chết mà vào sự sống, bằng Thần Linh của Người ban cho nhân tính của
chúng ta khi Người thở hơi trên các tông đồ, và ngự trong tâm hồn của chúng ta
khi chúng ta lănh nhận Phép Rửa.
Phải, chính Vị Thần Linh này, theo Thánh Phaolô trong Thư gửi Giáo Đoàn Rôma ở
đoạn 8 câu 11, sau cùng sẽ làm cho thân xác hèn hạ, chết chóc, hạn hẹp của loài
người chúng ta được sống lại bất diệt và trở nên giống như thân xác hiển vinh
của Người, xứng với thân phận của một loài “linh ư vạn vật” được dựng nên theo
h́nh ảnh Thiên Chúa, với một bản tính diễm phúc trong muôn loài tạo vật đă được
Người mặc lấy để hóa thân làm người như chúng ta và ở giữa chúng ta. Ôi thân
phận con người chúng ta cao cả và có phúc là chừng nào! Alleluia, Hăy vui lên!
Alleluia, hăy vui lên, chúng ta hăy vui lên, Alleluia! Alleluia! Alleluia!
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
|