|
CHÚA NHẬT V PHỤC SINH
BÀI ĐỌC I: Act 14:20b-26
“Các ngài thuật lại những ǵ Thiên Chúa đă làm với các ngài”
Bài trích sách Tông đồ
Công vụ.
Trong những ngày ấy, Phaolô và Barnaba trở lại
Lystra, Icôniô và Antiokia, củng cố tinh thần các môn đồ, khuyên bảo họ giữ vững
đức tin mà rằng: “Chúng ta phải trải qua nhiều nỗi gian truân mới được vào nước
Thiên Chúa”. Nơi mỗi hội thánh, các ngài đặt những vị niên trưởng, rồi ăn chay
cầu nguyện, trao phó họ cho Chúa là Đấng họ tin theo. Sau đó, các ngài sang
Pisiđia, đi đến Pamphylia. Sau khi rao giảng lời Chúa tại Pergê, các ngài xuống
Atilia, rồi từ đó xuống tàu trở về Antiokia, nơi mà trước đây các ngài đă được
trao phó cho ơn Chúa để làm công việc các ngài mới hoàn thành. Khi đến nơi, các
ngài tụ họp giáo đoàn, thuật cho họ nghe những ǵ Thiên Chúa đă làm với các ngài
và đă mở ḷng cho nhiều dân ngoại nhận biết đức tin.
Lời của Chúa.
Đáp ca: (Xin mời Cộng đoàn thưa)
Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa, tôi sẽ chúc tụng danh Chúa đến muôn đời.
1.
Chúa nhân
ái và từ bi, chậm bất b́nh và giàu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi loài, và từ
bi với mọi công cuộc của Chúa.
2.
Lạy Chúa,
mọi công cuộc của Chúa hăy ca ngợi Chúa, và các thánh nhân của Ngài hăy chúc
tụng Ngài. Thiên hạ hăy nói lên vinh quang nước Chúa, và hăy đề cao quyền năng
của Ngài.
3.
Để con cái
loài người nhận biết quyền năng, và vinh quang cao cả nước Chúa. Nước Ngài là
nước vĩnh cửu muôn đời, chủ quyền Ngài tồn tại qua muôn thế hệ.
BÀI ĐỌC II: Apoc 21:1-5a
“Thiên Chúa sẽ lau khô mọi giọt lệ ở mắt họ”
Bài trích sách Khải
Huyền của Thánh Gioan.
Tôi là Gioan đă thấy trời mới và đất mới. V́ trời
cũ và đất cũ đă qua đi, và biển cũng không c̣n nữa. Và tôi là Gioan đă thấy
thành thánh Giêrusalem mới, tự trời xuống, từ nơi Thiên Chúa: tề chỉnh như tân
nương được trang điểm cho tân lang của ḿnh. Và tôi nghe có tiếng lớn tự ngai
vàng phán ra: “Đây là Thiên Chúa ở với loài người, và chính Thiên Chúa sẽ ở với
họ. Người sẽ lau khô mọi giọt lệ ở mắt họ. Sự chết chóc sẽ không c̣n nữa, cũng
không c̣n than khóc, không c̣n kêu la, không c̣n đau khổ: bởi v́ các việc cũ đă
qua đi. Và Đấng ngự trên ngai vàng đă phán rằng: “Này đây, Ta đổi mới mọi sự”.
Lời của Chúa.
(Xin mời Cộng đoàn đứng)
Alleluia, alleluia. — Chúa phán: “Thầy ban cho các con
điều răn mới là các con hăy yêu thương nhau, như Thầy đă yêu thương các con”. —
Alleluia.
PHÚC ÂM: Joan 13:31-33a, 34-35
“Thầy ban cho các con điều răn mới là các con hăy yêu thương nhau”
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô
theo Thánh Gioan.
Khi Giuđa ra khỏi pḥng tiệc, Chúa Giêsu liền phán:
“Bây giờ Con Người được vinh hiển và Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người. Nếu
Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người, th́ Thiên Chúa lại cho Người được vinh hiển
nơi chính ḿnh, và Thiên Chúa sẽ cho Người được vinh hiển. Các con yêu quư, Thầy
chỉ c̣n ở với các con một ít nữa thôi. Thầy ban cho các con điều răn mới là các
con hăy yêu thương nhau. Như Thầy đă yêu thương các con, th́ các con cũng hăy
yêu thương nhau. Căn cứ vào điều nầy mà mọi người nhận biết các con là môn đệ
của Thầy, là nếu các con yêu thương nhau”.
Phúc Âm của Chúa.
SUY NIỆM
ĐIỀU RĂN MỚI
Trong Thánh
Kinh, Thiên Chúa đă truyền cho Maisen 10 giới răn, nhưng với Chúa Giêsu, th́
phải thêm một giới răn nữa, giới răn yêu thương: “Thầy ban cho anh em một điều
răn mới, là anh em hăy yêu thương nhau” (Gioan 13:34). T́nh yêu là một giới răn.
Nói một cách khác, theo Chúa Giêsu, không yêu thương nhau là một vi phạm, một
lỗi lầm, một tội. Và đó là yếu tố mới mẻ trong giới luật này.
Toàn bộ Tin Mừng được Chúa Giêsu rao giảng đă nói lên ư nghĩa của giới răn mới –
giới răn t́nh yêu. Chính Chúa Giêsu trong suốt cuộc đời trần thế và đặc biệt
trong thời gian rao giảng Tin Mừng, Ngài không làm ǵ hơn, không nói ǵ hơn, và
cũng không phổ biến ǵ hơn ngoài giới luật yêu thương. Ngài đă làm sống lại và
đổi mới lối nh́n của nhân loại về t́nh yêu. Nhờ giáo lư này, nhân loại mới có
dịp nhận ra t́nh yêu Thiên Chúa dành cho mọi người và từng người. Hơn thế nữa,
nhờ giới luật mới này, Ngài đă muốn tạo điều kiện dễ dàng cho con người để có
thể trở thành con cái Thiên Chúa, và có thể chiếm hữu được nước Trời. V́ có ǵ
dễ dăi hơn t́nh yêu.
T́nh yêu. Ai trên cơi đời này cũng cần t́nh yêu. Không ai có thể sống được nếu
thiếu t́nh yêu. Ở tuổi nào, ở giai cấp nào trong xă hội người ta cũng cần t́nh
yêu. Những người mà nhân loại gọi là hung thần, bạo chúa, những kẻ đầu trộm,
đuôi cướp, những kẻ sống ngoài lề xă hội, thật ra họ cũng vẫn muốn yêu và được
yêu. Do đó, khi Chúa Giêsu gọi t́nh yêu là giới răn của Ngài, Ngài đă muốn tạo
cơ hội để mọi người được làm Kitô hữu, làm môn đệ Ngài. Và hơn thế, Ngài muốn
cho mọi người biết rằng Ngài là một Thiên Chúa của T́nh Yêu: “Thiên Chúa là T́nh
Yêu” (1 Gioan 4:16).
Như vậy, người Kitô hữu, người môn đệ Chúa Giêsu khi đem t́nh yêu vào cuộc đời
ḿnh, trao ban và lănh nhận t́nh yêu không ǵ hơn là làm cho giới răn yêu thương
nở hoa, phong phú, và đem lại ư nghĩa tích cực cho đời. Khi yêu nhau, người ta
tặng quà, tặng hoa, hoặc tặng nhau những ân cần, săn đón, những vuốt ve, chiều
chuộng. Nhưng yêu như Chúa yêu, và nh́n t́nh yêu như Chúa nh́n không chỉ dừng
lại ở những món quà, những săn sóc cần thiết, hoặc những tiếng nói yêu đương.
T́nh yêu mà Chúa Giêsu muốn nói đến ở đây được t́m thấy trong dụ ngôn người
Samaritanô hiền hậu. Dụ ngôn người thanh niên hoang đàng. Dụ ngôn người thiếu
phụ ngoại t́nh. C̣n về phần Thiên Chúa, ta t́m thấy nơi biến cố Nhập Thể, trong
Nhà Tiệc Ly, trong vườn Giệtsimani, trong dinh tổng trấn Philatô, và trên Núi Sọ.
Đó là một t́nh yêu hoàn toàn dâng hiến, phục vụ. Yêu đến thí mạng sống cho người
ḿnh yêu: “Không ai có t́nh yêu lớn hơn người thí mạng sống ḿnh v́ người ḿnh
yêu” (Gioan 15:13).
Yêu như Chúa yêu. Yêu cho đến chết. Đây là điều mới mẻ của giới răn t́nh yêu mà
Chúa Giêsu muốn ta phải tự khám phá và áp dụng vào cuộc sống. Và khi áp dụng vào
cuộc sống, chúng ta sẽ trở thành môn đệ Ngài: “Người ta cứ dấu này mà nhận ra
các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau” (Gioan 13:35).
Yêu như Chúa yêu. Yêu mới mẻ là mở rộng ṿng tay đón nhận sự trở về, sự xám hối,
và thành tâm cải thiện của người chồng bê bối, vô trách nhiệm, rượu chè, cờ bạc,
và đĩ điếm. Của người vợ trắc nết đă bỏ nhà theo trai. Của đứa con đi hoang,
băng đảng, du đăng, mang thai nhưng nay thấy hối lỗi mà t́m về.
Yêu như Chúa yêu. Yêu mới mẻ là sẵn sàng đối thoại với người hàng xóm, người bạn
cùng sở làm, người anh chị em đă làm thiệt hại, đă nói xấu, nói hành, đă vu
khống, và đă miệt thị ta nhưng đă biết lỗi, nhận lỗi và xin lỗi.
Yêu như Chúa yêu. Yêu mới mẻ là không kết án ai dù thấy người đó xem như có lỗi.
Không phê b́nh, chỉ trích ai, dù người đó bề ngoài coi như kém cỏi hơn ta.
Trường hợp người thiếu phụ bị bắt quả tang lúc phạm tội ngoại t́nh là một thí dụ.
Chúa Giêsu đă không kết án chị như những Pharisiêu và kinh sư. Có lẽ Ngài đă
nh́n thấy những tâm sự khó xử của chị, những yếu đuối và những thâm ư của con
người, mà chị chỉ là nạn nhân đáng thương. V́ vậy, Ngài chỉ nói với chị: “Ta
cũng không luận tội con. Hăy về và đừng phạm nữa” (Gioan 8:11).
Yêu như Chúa Yêu. Yêu mới mẻ là cùng vào pḥng Tiệc Ly với Chúa để nh́n và bắt
chước gương Ngài. Một Thiên Chúa làm người đang qú xuống rửa, lau và hôn chân
các môn đệ, trong đó có chân của Phêrô người sẽ chối Chúa. Chân của Giuđa, kẻ sẽ
phản nộp Ngài.
Yêu như Chúa yêu. Yêu mới mẻ là cùng vào vườn Cây Dầu với Chúa Giêsu để chứng
kiến cơn xao động năo nề của Ngài trước cái giá phải trả cho t́nh yêu: “Linh hồn
Thầy buồn rầu đến nỗi chết” (Mathêu 26:38). Ngài buồn v́ thấy nhân loại quay
lưng trước t́nh yêu của Ngài. Ngài buồn v́ sự hy sinh của Ngài sẽ trở thành bản
án cho nhiều linh hồn không đón nhận t́nh yêu hy sinh ấy.
Và sau cùng yêu như Chúa yêu. Yêu mới mẻ là cùng theo Chúa Giêsu lên núi Sọ. Ở
đây hăy để ḷng ḿnh lắng đọng trước những tiếng thở hổn hển và đau đớn của một
thân xác đă ră rời v́ bị tra tấn. Trước sức đè bẹp của thói vong ân và tệ bạc
của loài người, nhưng Chúa vẫn nói với Chúa Cha: “Xin tha cho chúng v́ chúng lầm
chẳng biết” (Luca 23:34).
Yêu như thế quả là mới mẻ. Là một lối yêu mới của Thiên Chúa. Lối yêu của những
môn đệ Ngài. T́nh yêu chứng nhân như Chân Phước Têrêxa Calcutta, một nữ tu nghèo,
nhỏ thó, yếu đuối và bệnh tật. Một người không viết nhiều, không nói nhiều,
nhưng chỉ biết quên ḿnh hy sinh và phục vụ những anh chị em nghèo, bệnh tật,
cùi hủi và bị đời quên lăng, bỏ rơi bên các hè phố, xó xỉnh của thủ đô Tân Đề Ly
bên Ấn Độ. Như Đức Giám Mục Cassaigne, người đă bỏ Ṭa Giám Mục Saigon để về
sống với những anh chị em cùi người Thượng tại Dilinh, Việt Nam. Như Thánh
Maximilian Kolbe người đă chấp nhận chết thay cho một bạn tù trong trại tù Đức
Quốc Xă. Và yêu như những bà mẹ, người vợ, ông bố, người chồng sẵn sàng tha thứ,
chấp nhận, và chịu đựng những phản bội của chồng, của vợ. Những người cha, người
mẹ sẵn sàng tha thứ và đón nhận những đứa con hư hỏng nay biết thống hối trở về
như người cha già trong Phúc Âm.
Thế giới hôm nay, thế giới của văn minh và tiến bộ. Nhưng cũng là thế giới của
chiến tranh, bạo loạn, khủng bố, và chết chóc. Thế giới thiếu vắng t́nh người.
Thế giới mà sự lạnh lùng của con người đang làm băng giá và chai cứng bao con
tim. Thế giới của t́nh yêu đồng tính. Của t́nh yêu trai gái sống chung mà không
bao giờ đi tới hôn nhân. Thế giới của phá thai. Trong thế giới ấy, giới luật mới
của Chúa là một giới luật cần thiết. Ngài đang cần nhiều chứng nhân hành động,
trong đó có bạn và tôi. Ngài muốn nhờ ta cùng tiếp tay với Ngài mở rộng biên
giới t́nh yêu của Ngài. Sức khỏe, tài năng, và sự giầu có phú túc của ta, Ngài
muốn mượn nó để phổ biến sứ điệp t́nh yêu Ngài. Và Ngài muốn ta là một chứng
nhân của t́nh yêu đổi mới ấy.
Trần Mỹ Duyệt
Yêu Thương Trọn Hảo là Tôn Vinh Chúa Kitô Phục
Sinh
Bài Phúc Âm
hôm nay có hai phần rơ ràng: phần đầu về vinh hiển của Chúa Kitô và phần thứ hai
về giới răn mới của Người. Trước hết, về vinh hiển của Chúa Kitô, theo chiều
hướng cũng như theo ư nghĩa của riêng bài Phúc Âm hôm nay th́ “vinh hiển” của
Chúa Kitô được Người nói đến ở đây chính là ǵ? Và phần vinh hiển này của Người
với phần về giới răn mới của Người có liên quan ǵ với nhau không mà lại được
Giáo Hội cho đọc bài Phúc Âm có cả hai phần này chung với nhau như vậy?
Nếu căn cứ vào chiều hướng cũng như vào ư nghĩa của riêng bài Phúc Âm hôm nay
th́ “vinh hiển” của Chúa Kitô được Người nói đến ở đây, theo tôi, có tất cả là
ba khía cạnh, khía cạnh về việc tỏ ḿnh ra, khía cạnh về quyền thống trị và khía
cạnh về được nhận biết như sau.
Trước hết, về khía cạnh “vinh hiển” của Chúa Kitô ở việc tỏ ḿnh ra, chúng ta
thấy được ở ngay câu văn mở đầu của bài Phúc Âm hôm nay, đó là câu: “Khi Giuđa
ra khỏi pḥng tiệc, Chúa Giêsu liền phán: ‘Giờ đây Con Người được vinh hiển…’”.
“Giuđa ra khỏi pḥng tiệc” để làm ǵ? Phúc Âm Thánh Gioan, trong cùng đoạn với
bài Phúc Âm hôm nay, ở câu 26 và 27, cho biết về Giuđa ngay trước lúc đó là:
“Chúa Giêsu nhúng miếng bánh vào đĩa mà trao cho Giuđa, con của Simon Ích-Ca.
Ngay sau đó Satan đă nhập vào ḷng hắn”, và Phúc Âm Thánh Luca, ở đoạn 22, câu 3
và 4, đă tiết lộ cho chúng ta biết rơ về âm mưu của Giuđa “ngay sau đó” thế này:
“Bấy giờ Satan chiếm lấy Giuđa gọi là Ích-Ca, một phần tử trong Nhóm 12 Vị. Hắn
ra đi để bàn bạc với các trưởng tế cùng các viên chức về cách trao nộp Người cho
họ”.
Như thế, theo chiều hướng và ư nghĩa của riêng bài Phúc Âm hôm nay th́ câu Chúa
Giêsu nói: “Giờ đây Con Người được vinh hiển” nghĩa là, kể từ “khi Giuđa ra khỏi
pḥng tiệc” là đă tới giờ, tới lúc Người chịu khổ nạn và tử giá, nhờ đó, Người
có thể tỏ ḿnh ra, nghĩa là có thể nhờ đó “làm chứng cho chân lư” (Jn 18:37),
chân lư ở chỗ: Người thực sự là Đấng Thiên Sai, “là Đức Kitô, Con Thiên Chúa
hằng sống”, đúng như lời tuyên xưng của tông đồ Phêrô ở đoạn 16 câu 16 Phúc Âm
Thánh Mathêu. Chưa hết, sự kiện Người chứng thực Người thực sự là Đấng Thiên Sai,
qua việc “Người đă vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá” (Phil 2:8), c̣n
cho thấy chính Cha là Đấng đă sai Người nữa. Đó là lư do Chúa Giêsu chẳng những
nói: “Giờ đây Con Người được vinh hiển”, mà c̣n tiếp “và Thiên Chúa cũng được
hiển vinh nơi Người”.
Đó là khía cạnh thứ nhất, khía cạnh “vinh hiển” của Chúa Kitô ở nơi việc Người
tỏ ḿnh ra. Sau đây là khía cạnh thứ hai, khía cạnh “vinh hiển” của Chúa Kitô ở
nơi việc hiển linh của Người.
Cũng theo chiều hướng và ư nghĩa của bài Phúc Âm hôm nay, th́ khía cạnh thứ hai
và thứ ba nơi “vinh hiển” của Chúa Kitô được chứa đựng trong câu Phúc Âm “nếu
Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người, th́ Thiên Chúa lại làm cho Người được vinh
hiển nơi chính ḿnh Ngài, và chẳng bao lâu nữa Ngài sẽ làm cho Người được hiển
vinh”. Khía cạnh thứ hai và thứ ba nơi “vinh hiển” của Chúa Kitô đó là khía cạnh
về việc hiển linh của Người và khía cạnh về việc Người được nhận biết.
Đúng thế, khía cạnh “vinh hiển” của Chúa Kitô là việc hiển linh của Người là ở
chỗ Người phục sinh từ trong kẻ chết v́ Người chính là Thiên Chúa, hay, như kiểu
diễn tả của tông đồ Phêrô qua Bài Giảng Tiên Khởi trong Sách Tông Vụ đoạn 2 câu
24 là: “Thiên Chúa đă giải cứu Người khỏi xiềng xích sự chết và làm cho Người
phục sinh”. Theo tôi, đó chính là ư nghĩa của câu “Nếu Thiên Chúa được vinh hiển
nơi Người, th́ Thiên Chúa lại làm cho Người được vinh hiển nơi chính ḿnh Ngài”.
Tức nếu Thiên Chúa thực sự là Đấng đă sai Con Ḿnh xuống thế, như được Con của
Ngài chứng thực qua cuộc tử nạn và tử giá của Người, th́ thực sự “Thiên Chúa
được vinh hiển nơi Người”, và một khi được vinh hiển nơi Con như thế, “th́ Thiên
Chúa lại làm cho Người được vinh hiển nơi chính ḿnh Ngài”, ở chỗ, Ngài làm cho
Người sống lại để chứng tỏ Người thực sự “là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”,
Đấng “đồng bản thể với Đức Chúa Cha”, như Kinh Tin Kính tuyên xưng, Đấng thực sự
là Thiên Chúa, đúng như Người đă tự xưng và tuyên bố với dân Do Thái trong bài
Phúc Âm Thánh Gioan tuần trước: “Tôi và Cha Tôi là một”.
Như thế th́ lời Chúa Giêsu nói “và chẳng bao lâu nữa Thiên Chúa sẽ làm cho Người
được hiển vinh” được áp dụng vào khía cạnh thứ hai nơi “vinh hiển” của Chúa Kitô,
phải chăng nghĩa là chẳng bao lâu nữa Thiên Chúa sẽ làm cho Chúa Kitô sống lại
từ trong kẻ chết?
Nếu căn cứ vào trạng từ chỉ về thời gian “chẳng bao lâu nữa” th́ chúng ta có thể
nghĩ và nói như thế. V́ lúc Chúa Kitô nói lời này là vào buổi tối Tiệc Ly, th́
khoảng thời gian “chẳng bao lâu nữa” sẽ là Ngày Thứ Nhất trong tuần, ngày Người
sống lại từ trong kẻ chết. Tuy nhiên, nếu xét theo cấu trúc của toàn đoạn văn
cùng với ư hướng của đoạn văn này, th́ mệnh đề độc lập cuối cùng của phần đầu
bài Phúc Âm đây, mệnh đề “và chẳng bao lâu nữa Thiên Chúa sẽ làm cho Người được
hiển vinh”, có được thể hiểu và áp dụng vào khía cạnh thứ ba nơi “vinh hiển” của
Chúa Kitô, đó là khía cạnh Người sẽ được các chứng nhân tiên khởi nhận biết sau
khi sống lại từ trong kẻ chết.
Thật vậy, xét về cấu trúc văn chương của phần đầu đoạn Phúc Âm này, th́ câu “Khi
Giuđa ra khỏi pḥng tiệc, Chúa Giêsu liền phán: ‘Giờ đây Con Người được vinh
hiển và Thiên Chúa cũng được hiển vinh nơi Người’” đă áp dụng cho khía cạnh
“vinh hiển” thứ nhất của Chúa Kitô, khía cạnh “vinh hiển” ở chỗ Người tỏ ḿnh ra
qua cuộc tử nạn của Người để chứng thực Người là Đấng Thiên Sai, và câu “Nếu
Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người, th́ Thiên Chúa lại làm cho Người được vinh
hiển nơi chính ḿnh Ngài, và chẳng bao lâu nữa Ngài sẽ làm cho Người được hiển
vinh”, đă được áp dụng cho khía cạnh thứ hai của “vinh hiển” Người, khía cạnh
Thiên Chúa làm cho Người sống lại hiển linh từ trong kẻ chết để chứng thực cho
con người thấy Người thực sự là “Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, Con và Cha
chỉ là một về bản tính, th́ mệnh đề độc lập cuối cùng trong câu thứ hai, cũng là
mệnh đề thuộc về hay dính liền với câu thứ hai trên đây sẽ được hiểu là, sau khi
đă làm cho Chúa Kitô sống lại từ trong kẻ chết, Thiên Chúa c̣n làm cho Người
được các tông đồ nhận biết Thày của họ nữa, Người chẳng những là Đấng Thiên Sai
mà c̣n là chính Thiên Chúa, đúng như lời tuyên tín của tông đồ Tôma vào lần Chúa
Giêsu hiện ra thứ hai “tám ngày sau”: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi!”.
Tuy nhiên, khía cạnh vinh hiển thứ ba của Chúa Kitô không phải chỉ ở chỗ Người
được một số người thân cận nhận biết sau khi Người sống lại từ trong kẻ chết, mà
c̣n ở chỗ được họ rao giảng như một tin mừng cứu độ cho tất cả mọi tạo vật (x Mk
16:15), nhờ đó Người được cả thế giới nhận biết, và có thể phục hồi mọi sự theo
ư định của Thiên Chúa, như Thánh Phaolô xác tín và viết cho Giáo Đoàn Côrintô ở
đoạn 15 câu 28 thế này: “Khi mà cuối cùng tất cả thuận phục Con, th́ chính Người
sẽ tự qui phục ḿnh cho Đấng bắt mọi sự suy phục Con, để Thiên Chúa là tất cả
trong mọi sự”.
Theo tôi, đó là lư do, ngay sau câu “con các ơi, Thày chẳng c̣n ở với các con
bao lâu nữa”, câu mở đầu phần thứ hai của bài Phúc Âm hôm nay, phần liên quan
đến giới răn mới của Chúa Kitô, Giáo Hội đă bỏ một câu liên quan đến cuộc tử nạn
của Chúa Kitô, đó là câu: “Các con sẽ t́m Thày, nhưng bây giờ Thày nói cho các
con biết những ǵ Thày đă nói với người Do Thái, đó là ‘nơi Tôi đi quí vị không
thể nào tới được’”, mà vào ngay câu, “Thày ban cho các con một giới răn mới…”,
một giới răn mà, nếu được thành phần môn đệ tin Người “là Chúa, là Thiên Chúa”
hết ḷng thực hành đến mức “như Thày đă yêu thương các con”, họ sẽ làm cho Người
được nhận biết, đúng như Người khẳng định cuối bài Phúc Âm hôm nay: “Nếu các con
yêu thương nhau, người ta sẽ nhận biết các con là môn đệ Thày”.
Vậy yêu thương trọn hảo, yêu thương như Thày yêu thương, chính là tác động tôn
vinh Chúa Kitô, là tác động chứng tỏ quyền lực phục sinh toàn năng của Người
chiến thắng tội lỗi và sự chết, là làm cho vương quốc của Người trị đến trên thế
gian này.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
|