Thứ 7

Ngày 10/4: Thánh Ezekiel

Là một tiên tri của dân Do Thái trong thời lưu đầy ở Babylon.

Tiên tri được bảo phải viết một cuốn Sách Thánh mang tên của ông.

 

 

 

LỄ VỌNG PHỤC SINH

 

Bài Sách Thánh 1: St. 1, 1-2, 2

 

1 Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất.2 Đất c̣n trống rỗng, chưa có h́nh dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước.

3 Thiên Chúa phán: "Phải có ánh sáng." Liền có ánh sáng.4 Thiên Chúa thấy rằng ánh sáng tốt đẹp. Thiên Chúa phân rẽ ánh sáng và bóng tối.5 Thiên Chúa gọi ánh sáng là "ngày", bóng tối là "đêm". Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ nhất.

6 Thiên Chúa phán: "Phải có một cái ṿm ở giữa khối nước, để phân rẽ nước với nước."7 Thiên Chúa làm ra cái ṿm đó và phân rẽ nước phía dưới ṿm với nước phía trên. Liền có như vậy.8 Thiên Chúa gọi ṿm đó là "trời". Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ hai.

9 Thiên Chúa phán: "Nước phía dưới trời phải tụ lại một nơi, để chỗ cạn lộ ra." Liền có như vậy.10 Thiên Chúa gọi chỗ cạn là "đất", khối nước tụ lại là "biển". Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp.

11 Thiên Chúa phán: "Đất phải sinh thảo mộc xanh tươi, cỏ mang hạt giống, và cây trên mặt đất có trái, ra trái tuỳ theo loại, trong có hạt giống." Liền có như vậy.12 Đất trổ sinh thảo mộc, cỏ mang hạt giống tuỳ theo loại, và cây ra trái, trong trái có hạt giống tuỳ theo loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp.13 Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ ba.

14 Thiên Chúa phán: "Phải có những vầng sáng trên ṿm trời, để phân rẽ ngày với đêm, để làm dấu chỉ xác định các đại lễ, ngày và năm.15 Đó sẽ là những vầng sáng trên ṿm trời để chiếu soi mặt đất." Liền có như vậy.16 Thiên Chúa làm ra hai vầng sáng lớn: vầng sáng lớn hơn để điều khiển ngày, vầng sáng nhỏ hơn để điều khiển đêm; Người cũng làm ra các ngôi sao.17 Thiên Chúa đặt các vầng sáng trên ṿm trời để chiếu soi mặt đất,18 để điều khiển ngày và đêm, và để phân rẽ ánh sáng với bóng tối. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp.19 Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ tư.

20 Thiên Chúa phán: "Nước phải sinh ra đầy dẫy những sinh vật lúc nhúc, và loài chim phải bay lượn trên mặt đất, dưới ṿm trời."21 Thiên Chúa sáng tạo các thủy quái khổng lồ, cùng mọi sinh vật vẫy vùng lúc nhúc dưới nước tuỳ theo loại, và mọi giống chim bay tuỳ theo loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp.22 Thiên Chúa chúc phúc cho chúng rằng: "Hăy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy biển; và chim phải sinh sản cho nhiều trên mặt đất."23 Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ năm.

24 Thiên Chúa phán: "Đất phải sinh ra các sinh vật tuỳ theo loại: gia súc, loài ḅ sát và dă thú tuỳ theo loại." Liền có như vậy.25 Thiên Chúa làm ra dă thú tuỳ theo loại, gia súc tuỳ theo loại và loài ḅ sát dưới đất tuỳ theo loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp.

26 Thiên Chúa phán: "Chúng ta hăy làm ra con người theo h́nh ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dă thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật ḅ dưới đất."

27 Thiên Chúa sáng tạo con người theo h́nh ảnh ḿnh,

Thiên Chúa sáng tạo con người theo h́nh ảnh Thiên Chúa,

Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ.

28 Thiên Chúa ban phúc lành cho họ, và Thiên Chúa phán với họ: "Hăy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hăy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật ḅ trên mặt đất."29 Thiên Chúa phán: "Đây Ta ban cho các ngươi mọi thứ cỏ mang hạt giống trên khắp mặt đất, và mọi thứ cây có trái mang hạt giống, để làm lương thực cho các ngươi.30 C̣n đối với mọi dă thú, chim trời và mọi vật ḅ dưới đất mà có sinh khí, th́ Ta ban cho chúng mọi thứ cỏ xanh tươi để làm lương thực. Liền có như vậy."31 Thiên Chúa thấy mọi sự Người đă làm ra quả là rất tốt đẹp! Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ sáu.

1 Thế là trời đất cùng với mọi thành phần đă hoàn tất.2 Ngày thứ bảy, Thiên Chúa đă hoàn thành công việc Người làm. Khi làm xong mọi công việc của Người, ngày thứ bảy, Thiên Chúa nghỉ ngơi.

 

 

Bài Sách Thánh 2: St. 22, 1-18

 

1 Sau các việc đó, Thiên Chúa thử ḷng ông Áp-ra-ham. Người gọi ông: "Áp-ra-ham! " Ông thưa: "Dạ, con đây! "2 Người phán: "Hăy đem con của ngươi, đứa con một yêu dấu của ngươi là I-xa-ác, hăy đi đến xứ Mô-ri-gia mà dâng nó làm lễ toàn thiêu ở đấy, trên một ngọn núi Ta sẽ chỉ cho."

3 Sáng hôm sau, ông Áp-ra-ham dậy sớm, thắng lừa, đem theo hai đầy tớ và con ông là I-xa-ác, ông bổ củi dùng để đốt lễ toàn thiêu, rồi lên đường đi tới nơi Thiên Chúa bảo.4 Sang ngày thứ ba, ông Áp-ra-ham ngước mắt lên, thấy nơi đó ở đàng xa.5 Ông Áp-ra-ham bảo đầy tớ: "Các anh ở lại đây với con lừa, c̣n cha con tôi đi lên tận đàng kia; chúng tôi làm việc thờ phượng, rồi sẽ trở lại với các anh."

6 Ông Áp-ra-ham lấy củi dùng để đốt lễ toàn thiêu đặt lên vai I-xa-ác, con ông. Ông cầm lửa và dao trong tay, rồi cả hai cùng đi.7 I-xa-ác thưa với cha là ông Áp-ra-ham: "Cha! "8 Ông Áp-ra-ham đáp: "Cha đây con! " Cậu nói: "Có lửa, có củi đây, c̣n chiên để làm lễ toàn thiêu đâu? " Ông Áp-ra-ham đáp: "Chiên làm lễ toàn thiêu, chính Thiên Chúa sẽ liệu, con ạ." Rồi cả hai cùng đi.

9 Tới nơi Thiên Chúa đă chỉ, ông Áp-ra-ham dựng bàn thờ tại đó, xếp củi lên, trói I-xa-ác con ông lại, và đặt lên bàn thờ, trên đống củi.10 Rồi ông Áp-ra-ham đưa tay ra cầm lấy dao để sát tế con ḿnh.

11 Nhưng sứ thần của ĐỨC CHÚA từ trời gọi ông: "Áp-ra-ham! Áp-ra-ham! " Ông thưa: "Dạ, con đây! "12 Người nói: "Đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm ǵ nó! Bây giờ Ta biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa: đối với Ta, con của ngươi, con một của ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc! "13 Ông Áp-ra-ham ngước mắt lên nh́n, th́ thấy phía sau có con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây. Ông Áp-ra-ham liền đi bắt con cừu ấy mà dâng làm lễ toàn thiêu thay cho con ḿnh.14 Ông Áp-ra-ham đặt tên cho nơi này là "ĐỨC CHÚA sẽ liệu." Bởi đó, bây giờ có câu: "Trên núi ĐỨC CHÚA sẽ liệu."

15 Sứ thần của ĐỨC CHÚA từ trời gọi ông Áp-ra-ham một lần nữa16 và nói: "Đây là sấm ngôn của ĐỨC CHÚA, Ta lấy chính danh Ta mà thề: bởi v́ ngươi đă làm điều đó, đă không tiếc con của ngươi, con một của ngươi,17 nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho ḍng dơi ngươi nên đông, nên nhiều như sao trên bầu trời, như cát ngoài băi biển. Ḍng dơi ngươi sẽ chiếm được thành tŕ của địch.18 Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ cầu chúc cho nhau được phúc như ḍng dơi ngươi, chính bởi v́ ngươi đă vâng lời Ta."

 

Bài Sách Thánh 3: Xh. 14, 15

 

1 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê:2 "Ngươi hăy bảo con cái Ít-ra-en quay lại đóng trại đối diện với Pi Ha-khi-rốt, giữa Mích-đôn và biển, đối diện với Ba-an Xơ-phôn; các ngươi sẽ đóng trại ngay đằng trước đó, bên bờ biển.3 Bấy giờ Pha-ra-ô sẽ nói về con cái Ít-ra-en: "Chúng đi luẩn quẩn trong vùng, sa mạc nhốt chúng lại rồi.4 Ta sẽ làm cho ḷng Pha-ra-ô ra chai đá và vua ấy sẽ đuổi theo dân. Nhưng Ta sẽ được vẻ vang hiển hách v́ đă đánh bại Pha-ra-ô cùng toàn thể quân lực của vua ấy, và người Ai-cập sẽ biết Ta là ĐỨC CHÚA." Con cái Ít-ra-en đă làm như vậy.
5 Có tin báo cho vua Ai-cập là dân đă chạy trốn rồi. Pha-ra-ô và bề tôi liền thay ḷng đổi dạ với dân. Chúng nói: "Ta đă làm ǵ vậy? Ta đă thả cho Ít-ra-en đi, thành ra bọn chúng hết làm nô lệ cho ta! "6 Nhà vua cho thắng chiến xa và đem quân đi theo.7 Vua lấy sáu trăm chiến xa tốt nhất, và tất cả các chiến xa của Ai-cập, chiếc nào cũng có chiến binh.8 ĐỨC CHÚA làm cho ḷng Pha-ra-ô vua Ai-cập ra chai đá, và vua ấy đuổi theo con cái Ít-ra-en, trong khi con cái Ít-ra-en đi ra, giơ tay đắc thắng.9 Quân Ai-cập, gồm toàn thể chiến mă, chiến xa của Pha-ra-ô, kỵ binh và quân lực của vua ấy, đuổi theo và bắt kịp họ, khi họ đóng trại bên bờ biển, gần Pi Ha-khi-rốt, đối diện với Ba-an Xơ-phôn.10 Khi Pha-ra-ô tới gần, con cái Ít-ra-en ngước mắt lên th́ thấy người Ai-cập tiến đến sau lưng họ. Con cái Ít-ra-en kinh hăi, liền lớn tiếng kêu cầu ĐỨC CHÚA.11 Họ nói với ông Mô-sê: "Bên Ai-cập không có đủ mồ chôn hay sao, mà ông lại đưa chúng tôi vào chết trong sa mạc? Ông làm ǵ chúng tôi vậy, khi ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai-cập?12 Đó chẳng phải là điều chúng tôi từng nói với ông bên Ai-cập sao? Chúng tôi đă bảo: Cứ để mặc chúng tôi làm nô lệ Ai-cập! Thà làm nô lệ Ai-cập c̣n hơn chết trong sa mạc! "13 Ông Mô-sê nói với dân: "Đừng sợ! Cứ đứng vững, rồi anh em sẽ thấy việc ĐỨC CHÚA làm hôm nay để cứu thoát anh em: những người Ai-cập anh em thấy hôm nay, không bao giờ anh em thấy lại nữa.14 ĐỨC CHÚA sẽ chiến đấu cho anh em. Anh em chỉ có việc ngồi yên."
con cái Ít-ra-en đă đi giữa ḷng biển khô cạn, nước sừng sững như tường thành hai bên tả hữu.30 Ngày đó, ĐỨC CHÚA đă cứu Ít-ra-en khỏi tay quân Ai-cập. Ít-ra-en thấy quân Ai-cập phơi thây trên bờ biển.31 Ít-ra-en thấy ĐỨC CHÚA đă ra tay hùng mạnh đánh quân Ai-cập. Toàn dân kính sợ ĐỨC CHÚA, tin vào ĐỨC CHÚA, tin vào ông Mô-sê, tôi trung của Người.
1 Bấy giờ ông Mô-sê cùng với con cái Ít-ra-en hát mừng ĐỨC CHÚA bài ca sau đây. Họ ca rằng:


 

Bài Phúc Aâm: Mc 16:1-8


1
Vừa hết ngày sa-bát, bà Ma-ri-a Mác-đa-la với bà Ma-ri-a mẹ ông Gia-cô-bê, và bà Sa-lô-mê, mua dầu thơm để đi ướp xác Đức Giê-su.2 Sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc, các bà ra mộ.
3 Các bà bảo nhau: "Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây? "4 Nhưng vừa ngước mắt lên, các bà đă thấy tảng đá lăn ra một bên rồi, mà tảng đá ấy lớn lắm.5 Vào trong mộ, các bà thấy một người thanh niên ngồi bên phải, mặc áo trắng; các bà hoảng sợ.6 Nhưng người thanh niên liền nói: "Đừng hoảng sợ! Các bà t́m Đức Giê-su Na-da-rét, Đấng bị đóng đinh chứ ǵ! Người đă trỗi dậy rồi, không c̣n đây nữa. Chỗ đă đặt Người đây này!7 Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phê-rô rằng Người sẽ đến Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người như Người đă nói với các ông."8 Vừa ra khỏi mộ, các bà liền chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía. Các bà chẳng nói ǵ với ai, v́ sợ hăi.

 

 


Chiêm Ngắm Lời Chúa là Thần Linh

"Bấy giờ thiên thần nói với các phụ nữ (là Mai-Đệ-Liên và Maria kia đến thăm ḍ ngôi mộ và th́nh ĺnh có động đất): Đừng hoảng sợ. Ta biết các người đang t́m Giêsu chịu đóng đanh, song Người không c̣n ở đây. Người đă sống lại đúng như lời Người hứa. Hăy đến mà xem chỗ Người đă nằm. Rồi hăy mau về mà nói cho các môn đệ của Người hay: Người đă sống lại từ trong kẻ chết và nay Người đi trước qúi vị đến Galilêa, ở đó qúi vị sẽ thấy Người. Đó là sứ điệp của ta dành cho các người.": (năm A)' "Khi họ (Mai-Đệ-Liên, Maria mẹ của Giacôbê, và bà Salômê) thấy tảng đá đă bị đẩy ra (Đó là một tảng đá khổng lồ). Tiến vào ngôi mộ, họ thấy một thanh niên trẻ trung ngồi ở bên tay phải, mặc một chiếc áo khoác trắng. Điều này làm họ hết sức hoảng sợ, song chàng thanh niên trấn an họ: 'Các người không cần phải kinh ngạc mà làm chi! Các người đang t́m Giêsu Nazarét, Đấng đă bị đóng đanh. Người đă sống lại rồi' Người không c̣n ở đây nữa. Qúi bà hăy xem nơi Người nằm. Bây giờ qúi bà hăy đi mà nói với các môn đệ của Người và Phêrô hay là: Người sẽ đi trước qúi vị đến Galilêa, ở đó qúi vị sẽ thấy Người như Người đă bảo qúi vị" (năm B)' "Trong khi các phụ nữ (sau khi tiến vào mồ và không thấy xác Chúa Giêsu đâu) c̣n đang ngơ ngác về điều này, th́ có hai nam nhân mặc áo rực sáng hiện ra bên cạnh họ. Các bà hoảng khiếp sấp mặt xuống đất. Vị nam nhân nói với các bà: 'Tại sao các người t́m Đấng đang sống nơi kẻ chết? Người không c̣n ở đây nữa' Người đă sống lại rồi. Hăy nhớ lại điều Người đă nói khi Người c̣n ở Galilêa với các người - đó là Con Người phải bị nộp vào tay các kẻ tội lỗi, bị đóng đanh vào thập giá, và sống lại vào ngày thứ ba" (năm C): "Ban đầu lúc Thiên Chúa dựng nên các tầng trời và đất... Thiên Chúa phán: 'Chúng Ta hăy dựng nên con người theo h́nh ảnh của Chúng Ta, tương tự như Chúng Ta. Chúng hăy làm chủ cá biển, chim trời và xúc vật cũng như tất cả mọi hoang thú cùng mọi loài ḅ sát trên mặt đất. Thiên Chúa đă dựng nên con người theo h́nh ảnh Ngài' theo h́nh ảnh thần linh Ngài đă dựng nên họ' Ngài đă dựng nên họ cả nam lẫn nữ... Thiên Chúa nh́n xem mọi sự Ngài đă làm và Ngài thấy nó thật là tốt đẹp" (bài đọc Cựu Ước 1) - "Địa cầu đầy ân sủng Chúa"' "Thiên Chúa thử thách Abraham... Sứ thần của Chúa từ trời lại gọi Abraham mà nói: 'Ta tự ḿnh thề rằng, Chúa tuyên bố, v́ ngươi đă tỏ ra không tiếc Ta đứa con dấu yêu của ḿnh, Ta sẽ ban muôn vàn ân phúc cho ngươi và làm cho các gịng dơi của ngươi trở nên vô số như sao trời cát biển" (bài đọc Cựu Ước 2) - "Lạy Chúa, xin bảo toàn tôi, v́ tôi t́m nương tựa Chúa"' "Bấy giờ Chúa phán bảo Moisen rằng: 'Hăy giang tay của ngươi ra trên biển cả, để nước ập xuống trên các người Ai Cập, trên các chiến xa và các kỵ binh của họ'... Khi nước ập xuống... Không một người nào trong họ chạy thoát. C̣n dân chúng -ch-Diên đă tiến đi trên đất khô qua giữa ḷng biển, giữa thành nước dựng lên hai bên phải trái. Thế là Chúa đă cứu dân -ch-Diên vào ngày hôm đó khỏi quyền lực của những người Ai Cập" (bài đọc Cựu Ước 3) - "Tôi sẽ ca tụng Chúa, v́ Người uy linh cao cả" (ở đây, theo Sách Lễ Tiếng Anh, câu đáp ca lại xưng hô là "chúng ta")' "Ngài, Đấng trở nên chồng của ngươi, là Đấng Tạo Nên ngươi' danh Ngài là Chúa các đạo binh' Đấng Cứu Tinh của ngươi là Đấng Thánh -ch-Diên, Ngài được gọi là Thiên Chúa của toàn thể trái đất... Tất cả mọi con cái của ngươi sẽ được Chúa dạy dỗ, và b́nh an của con cái ngươi sẽ lớn lao. Ngươi sẽ được thiết lập trong công chính, xa khỏi nỗi lo sợ bị áp bức, khỏi cảnh bị hủy diệt" (bài đọc Cựu Ước 4) - "Lạy Chúa, tôi ca tụng Chúa v́ đă giải thoát tôi"' "Vậy Chúa phán: Tất cả các ngươi là những người khao khát, hăy đến với gịng nước!... Hăy chú tâm mà đến với Ta, lắng nghe th́ các người sẽ được sự sống. Ta sẽ canh tân giao ước vĩnh cửu của Ta với các người, những phúc lợi đă được bảo đảm cho Đavít... Như mưa và tuyết từ trời rơi xuống không trở về cho đến khi nó tưới dội trái đất và làm cho trái đất ph́ nhiêu sinh hoa kết trái thế nào... lời phán ra từ miệng của Ta cũng thế' nó sẽ không trở về với Ta cách vô bổ, song sẽ thực hiện ư muốn của Ta, đạt được mục tiêu mà Ta sai phái" (bài đọc Cựu Ước 5) - "Các ngươi sẽ hân hoan múc nước nơi suối Đấng Cứu Độ"' "-ch-Diên ơi, hăy lắng nghe các giới răn sự sống... Ai đă t́m thấy nơi ở của sự khôn ngoan, ai đă vào được các kho báu của nó? ... Nó là cuốn sách các sắc lệnh của Thiên Chúa, là lề luật bền bỉ muôn đời' tất cả những ai gắn bó với nó sẽ sống, c̣n những ai bỏ rơi nó sẽ chết. Giacóp ơi, hăy quay về mà nhận lấy nó: hăy bước đi nhờ ánh sáng hướng tới quang vinh của nó" (bài đọc Cựu Ước 6) - "Lạy Chúa, Chúa có lời ban sự sống đời đời"' "Vậy lời của Chúa đến với tôi:... Hăy nói cùng nhà -ch-Diên: Đây Chúa là Thiên Chúa phán: Không phải v́ các người mà Ta đă tác hành, hỡi nhà -ch-Diên, mà v́ danh thánh của Ta, danh mà các người đă làm tục hóa giữa các dân nước các người chung sống... Ta sẽ vẩy nước tinh sạch lên các người để thanh tẩy các người khỏi mọi ô uế của các người, cũng như khỏi mọi ngẫu tượng của các người mà Ta sẽ thanh tẩy các người. Ta sẽ ban cho các người một qủa tim mới và đặt thần trí mới trong các người, bằng cách lấy đi khỏi thân thể các người những trái tim bằng đá mà ban cho các ngươi những qủa tim đích thực. Ta sẽ đặt thần trí Ta trong các ngươi, làm cho các ngươi sống theo các luật điều của Ta, cẩn thận giữ các mệnh lệnh của Ta" (bài đọc Cựu Ước 7) - "Ôi lạy Chúa, xin tạo cho tôi qủa tim trong sạch"' "Anh em không biết rằng chúng ta là những người chịu phép rửa trong Chúa Giêsu Kitô là chịu phép rửa trong cái chết của Người hay sao? Nhờ phép rửa trong cái chết của Người, chúng ta chịu mai táng với Người, để như Đức Kitô nhờ vinh quang của Cha mà sống lại từ kẻ chết thế nào, cả chúng ta nữa cũng được sống một đời sống mới như vậy".


Cảm Nghiệm Lời Chúa là Sự Sống:

"Con Người hiến mạng: đă sống lại rồi". Phụng Vụ Lời Chúa trong Thánh Lễ Vọng Phục Sinh hôm nay có hai điều đáng chú ư, hai điều nói lên rất đúng với ư nghĩa "vọng" Phục Sinh. Điều thứ nhất, đó là, trong tất cả 7 bài đọc Cựu Ước nói về lịch sử, giao ước và điều kiện cứu độ, Giáo Hội không chọn bài Sách Thánh nào nhắc đến việc hai nguyên tổ sa phạm cả. Điều thứ hai, đó là, trong 3 bài đọc Phúc Âm Nhất Lăm cho cả 3 năm A-B-C, không hề nói ǵ đến việc Chúa Giêsu chính thức hiện ra với các môn đệ của Người sau khi Người đă sống lại từ trong kẻ chết, mà mới chỉ đề cập đến việc thiên thần hiện ra báo tin "Người đă sống lại rồi' Người không c̣n ở đây nữa", cho các phụ nữ đến thăm mồ của Người "vào rạng đông ngày thứ nhất trong tuần" mà thôi.

Theo Phúc Âm của Chu Kỳ Phụng Vụ năm A, ở đoạn cuối, dù có đề cập đến một chút việc "Chúa Giêsu th́nh ĺnh hiện ra trước mặt họ (là các phụ nữ đang vừa mừng vừa sợ chạy về báo tin như được thiên thần cho biết)", th́ mục đích của Người cũng chỉ muốn dùng các phụ nữ này báo tin cho các môn đệ của Người mà thôi. Ở đây, các phụ nữ, có thể nói là tiêu biểu cho thành phần giáo dân, dù được diễm phúc hân hạnh nh́n thấy Chúa Phục Sinh trước các môn đệ của Người, thành phần tượng trưng cho hàng giáo phẩm trong Giáo Hội, các người phụ nữ này dầu sao cũng chỉ đóng vai sứ giả mang tin cho các vị mục tử của ḿnh mà thôi, thành phần "nhân chứng của Người" (bài đọc 1 Chúa Nhật 3 Phục Sinh), cũng là thành phần Người chính thức muốn dùng để "làm chứng về điều này" (Phúc Âm Chúa Nhật 3 Phục Sinh).

V́ tinh thần của Thánh Lễ "vọng" Phục Sinh, đối với Giáo Hội, có một ư nghĩa nhận lănh Tin Mừng Phục Sinh như thế, do đó, vấn đề tội lỗi và sự chết không được nhắc đến nữa, v́ Giáo Hội đă đề cập đến trong cả Mùa Chay và Tuần Thánh rồi. Về tội lỗi, bài đọc về sự việc hai nguyên tổ sa phạm đă được Giáo Hội cố ư nhắc đến khi chọn bài đọc này làm bài đọc thứ nhất trong Chúa Nhật thứ nhất Mùa Chay. Tội lỗi th́ thuộc về Mùa Chay, thời điểm Giáo Hội lập nên để nhắc nhở con cái ḿnh hăy bắt chước Chúa Giêsu, qua việc chay tịnh 40 ngày, "không nguyên sống bởi bánh mà c̣n bởi mọi lời từ miệng Thiên Chúa phán ra" (Phúc Âm Chúa Nhật 1 Mùa Chay năm A và C). Về sự chết, Giáo Hội đă dùng Phụng Vụ Lời Chúa bày tỏ cho con cái ḿnh thấy qua cuộc tử nạn của Chúa Kitô trong Tuần Thánh, nhất là vào Chúa Nhật Vượt Qua và Thứ Sáu Vượt Qua. Thứ Bảy Tuần Thánh, tuy vẫn c̣n là thời điểm của Tuần Lễ Vượt Qua, nhưng đă gần đến thời điểm tưởng niệm cuộc Phục Sinh của Chúa Kitô, do đó, trong Thánh Lễ Vọng Phục Sinh, Phụng Vụ Lời Chúa đă bắt đầu hướng về ân sủng và sự sống.

Về ân sủng, theo thứ tự của 7 bài đọc Cựu Ước, Giáo Hội tưởng niệm lại những việc Thiên Chúa đă làm cho chung loài người và đă làm cho cả loài người qua dân được Ngài tuyển chọn. Trước hết, ân sủng của Thiên Chúa làm cho chung loài người là ở chỗ, "Thiên Chúa phán: 'Chúng Ta hăy dựng nên con người theo h́nh ảnh của Chúng Ta, tương tự như Chúng Ta. Chúng hăy làm chủ cá biển, chim trời và xúc vật cũng như tất cả mọi hoang thú cùng mọi loài ḅ sát trên mặt đất. Thiên Chúa đă dựng nên con người theo h́nh ảnh Ngài' theo h́nh ảnh thần linh Ngài đă dựng nên họ' Ngài đă dựng nên họ cả nam lẫn nữ... Thiên Chúa nh́n xem mọi sự Ngài đă làm và Ngài thấy nó thật là tốt đẹp" (bài đọc 1). Do đó, lời đáp ca sau bài đọc thứ nhất mới tuyên xưng và tung hô rằng: "địa cầu đầy ân sủng Chúa" (đáp ca sau bài đọc 1).

Sau nữa, ân sủng của Chúa làm cho chung loài người qua dân riêng của Ngài, ở chỗ, Ngài đă "tự thề hứa" (bài đọc 2) với họ qua tổ phụ Abraham, cũng như đă dùng tay Moisen mà cứu họ cho "khỏi quyền lực của những người Ai Cập" (bài đọc 3), để họ có thể nhờ đó nhận biết "Đấng Cứu Tinh của (họ) là Đấng Thánh -ch-Diên... là Thiên Chúa của toàn thể trái đất" (bài đọc 4).

Tuy nhiên, ân sủng của Thiên Chúa ban cho chung nhân loại qua dân riêng của Ngài, theo ư định của Thiên Chúa cũng như tự bản chất thần linh của ḿnh, sẽ "như mưa và tuyết từ trời rơi xuống không trở về cho đến khi nó tưới dội trái đất và làm cho trái đất ph́ nhiêu sinh hoa kết trái" (bài đọc 5), nơi "tất cả những người khao khát đến với gịng nước..." (bài đọc 5), tức thành phần đáp lại lời Thiên Chúa mong ước và kêu gọi: "Hăy chú tâm mà đến với Ta, lắng nghe th́ các người sẽ được sự sống" (bài đọc 5).

Bởi đó, "sự sống" này không phải ở tại việc họ giữ lời Chúa, cho bằng ở tại chính thần lực của lời Chúa, được thể hiện qua và phát xuất từ cái gọi là "các giới răn sự sống" (bài đọc 6), "là cuốn sách các sắc lệnh của Thiên Chúa, là lề luật bền bỉ muôn đời' tất cả những ai gắn bó với nó sẽ sống, c̣n những ai bỏ rơi nó sẽ chết" (bài đọc 6). Đó là lư do "không phải v́ các người mà Ta đă tác hành, hỡi nhà -ch-Diên, mà v́ danh thánh của Ta, danh mà các người đă làm tục hóa giữa các dân nước các người chung sống... Ta sẽ vẩy nước tinh sạch lên các người để thanh tẩy các người khỏi mọi ô uế của các người, cũng như khỏi mọi ngẫu tượng của các người mà Ta sẽ thanh tẩy các người. Ta sẽ ban cho các người một qủa tim mới và đặt thần trí mới trong các người, bằng cách lấy đi khỏi thân thể các người những trái tim bằng đá mà ban cho các ngươi những qủa tim đích thực. Ta sẽ đặt thần trí Ta trong các ngươi, làm cho các ngươi sống theo các luật điều của Ta, cẩn thận giữ các mệnh lệnh của Ta" (bài đọc 7).

Lạy Chúa là Cha chúng con ở trên trời, qua cuộc tử nạn của Con Một Chúa, Chúa đă mạc khải cho loài người chúng con thấy ḷng Chúa vô cùng yêu thương chúng con một cách nhưng không và tuyệt hảo. Xin cho chúng con là "tất cả những ai tùng phục Người" (bài đọc 2), qua việc lănh nhận Bí Tích Rửa Tội, luôn luôn ư thức được rằng, chúng con "là những người đă chịu phép rửa trong Chúa Giêsu Kitô th́ đă chịu phép rửa trong cái chết của Người. Nhờ phép rửa trong cái chết của Người, chúng (con) chịu mai táng với Người, để như Đức Kitô nhờ vinh quang của Cha mà sống lại từ kẻ chết thế nào, cả chúng (con) nữa cũng được sống một đời sống mới như vậy... Con người cũ của chúng (con) đă bị đóng đanh cùng với Người, để thân xác tội lỗi của chúng (con) bị tiêu diệt đi và chúng (con) không c̣n làm tôi cho tội lỗi nữa... (Nhưng chúng con) phải coi ḿnh đă chết cho tội nhưng sống cho (Chúa) trong Đức Giêsu Kitô" (bài đọc Tân Ước). Trong đêm Vọng Phục Sinh này, một thời điểm mang ư nghĩa "vượt qua" thật sự và hoàn toàn nhất, "Lạy Chúa, (chúng con) ca tụng Chúa v́ Chúa đă giải thoát (chúng con)" (đáp ca sau bài đọc 4), "(chúng con) ca tụng Chúa v́ (Chúa) uy linh cao cả" (đáp ca sau bài đọc 3). "Lạy Chúa, xin bảo xin bảo toàn (chúng con) v́ (chúng con) t́m nương tựa Chúa" (đáp ca sau bài đọc 2), "Chúa có lời ban sự sống đời đời" (đáp ca sau bài đọc 6). "Ôi lạy Chúa, xin tạo cho (chúng con) qủa tim trong sạch" (đáp ca sau bài đọc 7), để "(chúng con) sẽ múc nước nơi suối Đấng Cứu Độ" (đáp ca sau bài đọc 5).