|
BÀI ĐỌC I: Jer 1:4-5, 17-19
“Ta sẽ đặt ngươi là tiên tri trong các dân tộc” Trong thời vua Giosia, lời Chúa phán cùng tôi rằng: “Trước khi Ta tạo thành ngươi trong ḷng mẹ, Ta đă biết ngươi, và trước khi ngươi ra khỏi ḷng mẹ, Ta đă hiến thánh ngươi. Ta đă đặt ngươi làm tiên tri trong các dân tộc. Vậy phần ngươi, ngươi phải thắt lưng, hăy chỗi dậy, và nói cho họ biết tất cả những điều Ta truyền dạy cho ngươi. Đừng run sợ trước mặt họ, v́ Ta không làm cho ngươi kinh hăi trước mặt họ. Hôm nay Ta làm cho ngươi nên một thành tŕ vững chắc, một cây cột bằng sắt, một vách thành bằng đồng, trước mặt các vua Giuđa, các hoàng tử, các tư tế và dân chúng xứ nầy. Họ sẽ chiến đấu chống ngươi, nhưng họ không thắng được ngươi, v́ Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi”.
Lời của Chúa.
Đáp ca: (Xin mời Cộng đoàn thưa) 1. Lạy Chúa, tôi t́m đến nương nhờ Ngài, xin đừng để tôi tủi hổ muôn đời; theo đức công minh Chúa, xin cứu nguy và giải thoát tôi, xin ghé tai về bên tôi và giải cứu. 2. Xin trở nên thạch động để tôi dung thân, và chiến lũy vững bền hầu cứu độ tôi: v́ Chúa là Đá Tảng, là chiến lũy của tôi. Lạy Chúa tôi, xin cứu tôi khỏi tay đứa ác. 3. Bởi Ngài là Đấng tôi mong đợi, thân lạy Chúa, lạy Chúa, Ngài là hy vọng của tôi tự hồi thanh xuân. Ngay từ trong bụng mẹ, tôi đă nép ḿnh vào Chúa, từ trong thai mẫu, Chúa là Đấng bảo vệ tôi, tôi đă luôn luôn cậy trông vào Chúa. 4. Miệng tôi sẽ loan truyền sự Chúa công minh và suốt ngày kể ra ơn Ngài giúp đỡ. Lạy Chúa, Chúa đă dạy tôi từ hồi niên thiếu, và tới bây giờ tôi cho là những sự lạ của Ngài.
“Đức tin, đức cậy, đức mến vẫn tồn tại, nhưng
đức mến là trọng hơn cả” Anh em thân mến, anh em hăy cầu mong những ơn cao trọng hơn. Và tôi chỉ bảo cho anh em một đường hoàn hảo nhất. Nếu tôi nói được các thứ tiếng của loài người và thiên thần, mà tôi không có bác ái, th́ tôi chỉ là tiếng đồng la vang dội hoặc năo bạt vang động. Và nếu tôi được nói tiên tri, thông biết mọi mầu nhiệm và mọi khôn ngoan: nếu tôi có đầy ḷng tin, đến đỗi chuyển dời được núi non, mà không có bác ái, th́ tôi vẫn là không. Nếu tôi phân phát mọi của cải tôi có, để nuôi kẻ nghèo khó, nếu tôi nộp ḿnh để chịu thiêu đốt, mà tôi không có bác ái, th́ không làm ích ǵ cho tôi. Bác ái là kiên tâm, là nhân hậu. Bác ái không đố kÿ, không khoác lác, không kiêu hănh, không ích kỷ, không nổi giận, không suy tưởng điều xấu, không vui mừng trước bất công, nhưng chia vui cùng chân lư, tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, trông cậy tất cả, chịu đựng tất cả. Bác ái không khi nào qua đi, ơn tiên tri sẽ bị hủy diệt, ơn ngôn ngữ sẽ chấm dứt, ơn thông minh sẽ biến mất. V́ chưng chúng ta hiểu biết có giới hạn, chúng ta nói tiên tri có giới hạn, nhưng khi điều vẹn toàn đến, th́ điều có giới hạn sẽ biến đi. Khi c̣n bé nhỏ, tôi nói như trẻ nhỏ, suy tưởng như trẻ nhỏ, lư luận như trẻ nhỏ; nhưng khi tôi đă trưởng thành, tôi loại bỏ những ǵ là trẻ nhỏ. Hiện giờ, chúng ta thấy mờ mịt qua tấm gương, nhưng lúc bấy giờ, diện đối diện. Hiện giờ tôi biết có giới hạn, nhưng lúc bấy giờ, tôi sẽ biết như tôi được biết. Hiện giờ, đức tin, đức cậy, đức mến, tất cả ba đều tồn tại, nhưng trong ba nhân đức, đức mến là trọng hơn cả. Lời của Chúa.
“Chúa Giêsu, như Êlia, và Êlisêô, không phải chỉ
được sai đến với người Do Thái” Khi ấy, Chúa Giêsu bắt đầu nói trong hội đường rằng: “Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe”. Mọi người đều làm chứng cho Người và thán phục Người về những lời từ miệng Người thốt ra, và họ nói: “Người này không phải là con ông Giuse sao?” Và Người nói với họ: “Hẳn các ngươi sắp nói cho Ta nghe câu ngạn ngữ này: Hỡi thầy thuốc, hăy chữa lấy chính ḿnh; điều chúng tôi nghe xảy ra ở Capharnaum, ông hăy làm như vậy tại quê hương ông”. Người nói tiếp: “Quả thật, Ta bảo các ngươi, không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương ḿnh. Ta bảo thật với các ngươi, đă có nhiều bà goá trong Israel thời Êlia, khi trời bị đóng lại trong ba năm sáu tháng, khi nạn đói lớn xảy ra khắp trong xứ: dầu vậy, Êlia không được sai đến cùng một người nào trong các bà đó, nhưng được sai đến bà góa tại Sarepta thuộc xứ Siđon. Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Êlisêô, thế mà không người nào trong họ được lành sạch cả, ngoại từ Naaman, người Syria”. Khi nghe đến đó, mọi người trong hội đường đều đầy căm phẫn, họ chỗi dậy và trục xuất Người ra khỏi thành. Họ dẫn Người lên triền núi, nơi xây cất thành tŕ của họ, để xô Người xuống vực thẳm. Nhưng người rẽ qua giữa họ mà đi. Phúc Âm của Chúa.
Chúng ta đă ở vào Chúa Nhật thứ tư Mùa Thường Niên, thời điểm Giáo Hội đang cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô chính thức công khai tỏ ḿnh ra nơi dân Do Thái. Bởi thế, theo chiều hướng của các bài Phúc Âm Phụng Vụ Năm C từ đầu Mùa Thường Niên tới nay, chúng ta thấy thứ tự như sau: trước hết, ở Chúa Nhật thứ nhất, Chúa Giêsu tỏ ḿnh ra cho riêng Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, khi Người lănh nhận phép rửa ở Sông Dược Đăng; sau đó, ở Chúa Nhật thứ hai, Người tỏ ḿnh ra cho mấy môn đệ tiên khởi, khi Người biến nước thành rượu ở tiệc cưới Cana; và ở Chúa Nhật thứ ba, Chúa Giêsu tỏ ḿnh cho dân làng Nazarét của Người vào Ngày Hưu Lễ trong một hội đường, khi Người áp dụng lời tiên tri Isaia về bản thân Người. Kết quả của việc tỏ ḿnh ra cho dân làng Nazarét của Người ra sao?
Chúng ta thấy về phần thính giả, ngay chính lúc họ thán phục Người về lời Người nói th́ họ lại thắc mắc về thân thế của Người, v́ họ là dân làng của Người và đă quá quen biết Người cũng như gia đ́nh của Người, ở chỗ, họ không thể giải thích được cái khác biệt giữa thân thế và uy thế của Người. Thế nhưng, sau khi nghe Người nói về họ như thành phần cứng ḷng tin, họ liền nổi giận và trục xuất Người ra khỏi địa phương của họ, thậm chí thù ghét Người đến nỗi âm mưu xô Người xuống sườn núi cho chết đi. Song họ có ngờ đâu rằng họ không thể làm ǵ được Người. Chính việc Người thoát khỏi tay họ và âm mưu của họ cũng là cách gián tiếp Người tỏ ḿnh ra cho họ biết Người là ai: Không phải ở chỗ Người là Đấng quyền năng hơn họ cho bằng ở chỗ Người là Đấng Thiên Sai v́ giờ của Người chưa tới, Người không thể chết không đúng như những ǵ đă được Thánh Kinh tiên báo về Người.
Tuy nhiên, về phương diện loài người, người ta nói chung và môn đệ của Người nói riêng vẫn có thể thắc mắc là tại sao Chúa Kitô đă gặp phản ứng hết sức bất lợi từ chính dân làng Nazarét của Người vào ngay lúc Người mới bắt đầu tỏ ḿnh ra cho họ? Phải chăng Người đă làm một việc hoàn toàn thất sách, ở chỗ đă tỏ ḿnh ra không đúng nơi, đúng lúc và đúng người, tức nói theo kiểu của dân gian, đó là Người đă không gặp vận số, hay chưa tới thời cơ của Người là lúc “thiên thời, địa lợi, nhân ḥa”?
Trước hết, chúng ta phải nhớ rằng, cho dù Thiên Chúa có tỏ ḿnh ra cho nhân loại chúng ta thấy, một cách hiển nhiên và sống động nhất nơi Con của Ngài là Chúa Giêsu Kitô, chúng ta cũng không thể và vẫn không thể nào tự ḿnh nhận biết Ngài được hay chấp nhận được tất cả những ǵ Ngài muốn tỏ ra cho chúng ta.
Đó là lư do sau khi rao giảng dụ ngôn Nước Trời, Chúa Giêsu vẫn cần phải giải thích riêng cho các môn đệ hiểu, như trong dụ ngôn gieo giống được Phúc Âm Thánh Marcô thuật lại ở đoạn 4 từ câu 1 đến 20. Đó cũng là lư do sau khi cho các môn đệ xem chân tay của ḿnh để chứng minh Người thật sự là Đấng bị đóng đanh song đă phục sinh từ trong kẻ chết, thậm chí sau khi trích dẫn cả những lời Thánh Kinh cho họ thấy rằng những ǵ tiên báo về Người cần phải được nên trọn và đă được nên trọn, Phúc Âm Thánh Luca ở đoạn 24 câu 45 c̣n tiết lộ cho chúng ta biết một chi tiết hết sức quan trọng, đó là việc Chúa Giêsu Phục Sinh đă thực hiện một tác động quyết liệt nữa các môn đệ mới chấp nhận tất cả những ǵ Người đă dùng lời nói và việc làm để chứng tỏ Người đă phục sinh, đó là tác động: “Bấy giờ Người mở trí khôn họ ra để họ hiểu các lời kinh thánh”. Đó c̣n là lư do tại sao, theo Phúc Âm Thánh Gioan ở đoạn 16 câu 13, Chúa Giêsu đă nhấn mạnh đến vai tṛ của Chúa Thánh Thần sẽ được sai đến với các môn đệ như sau: “Thày có nhiều điều phải nói với các con, song hiện nay các con không thể nào hiểu được. Thế nhưng, là Thần Chân Lư, khi Ngài đến Ngài sẽ dẫn các con vào tất cả sự thật”.
Chính v́ thế, Giáo Lư của Giáo Hội Công Giáo số 153 đă tuyên xưng như sau: “Trước khi thực thi đức tin, con người cần phải có ơn Chúa đánh động và nâng đỡ; họ phải được Thánh Linh ban ơn trợ giúp bề trong, Ngài là vị tác động tâm trí và qui hướng nó về Thiên Chúa, Đấng mở mắt trí khôn và ‘làm cho mọi người dễ dàng chấp nhận cùng tin tưởng chân lư’”. Thật vậy, nếu Lời Chúa Giêsu phán trong Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 11 câu 27 không sai, ở chỗ: “không ai biết Con ngoài ra Cha và không ai biết Cha ngoài Con và những kẻ Con muốn tỏ ra cho”, th́ Lời Người đă khẳng định với người Do Thái trong Phúc Âm Thánh Gioan ở đoạn 6 câu 44 cũng hoàn toàn là một sự thật, đó là: “không ai đến được với Tôi nếu Cha là Đấng sai Tôi không lôi kéo họ”, hay ở câu 65 “nếu Cha Tôi không cho phép họ”.
Vậy, áp dụng vào trường hợp của dân làng Nazarét, lư do chính yếu làm cho dân làng này không thể hay đúng hơn chưa thể chấp nhận Chúa Kitô là Mạc Khải Thần Linh, trái lại, c̣n chống đối, thậm chí đến nỗi đă có dă tâm muốn sát hại Người nữa, như bài Phúc Âm Thánh Luca của Chúa Nhật Thứ Bốn Mùa Thường Niên hôm nay thuật lại, là v́ họ bấy giờ họ chưa có Thần Linh Thiên. Mà Thần Linh được sai đến từ Chúa Kitô, Đấng được xức dầu Thần Linh khi lănh nhận Phép Rửa bằng nước của Gioan, và là Đấng Gioan loan báo sẽ ”làm phép rửa trong Thánh Linh” trong Phúc Âm Thánh Gioan ở đoạn 1 câu 33.
Do đó, trong trường hợp lần đầu vừa xuất quân coi như thảm bại trước mắt thế gian này, Chúa Kitô vẫn nắm phần thắng thế và chủ động, v́ chưa đến giờ Người tỏ hết ḿnh ra, đó là giờ Người tử nạn, và đó cũng chưa đến giờ Người ban Thánh Linh, giờ Người Phục Sinh từ trong kẻ chết. Bởi thế, bài Phúc Âm Thánh Luca Năm C cho Chúa Nhật Thứ Bốn Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh hôm nay ở đoạn 4 câu 30 đă kết luận: “Họ dẫn Người lên triền núi, nơi xây cất thành tŕ của họ, để xô Người xuống vực thẳm. Nhưng Người rẽ qua giữa họ mà đi”.
Người thoát thân để thắp lên ngọn lửa tin yêu? Đúng thế, dù Kitô hữu chúng ta đang sống trong thời đại văn minh tân tiến vào đầu thiên kỷ thứ ba đây có được trực tiếp sống đồng thời với Chúa Kitô đi nữa, như trường hợp các Thánh Tông Đồ thời bấy giờ, nhưng không phải v́ thế mà chúng ta không cần đến đức tin, trái lại, chúng ta lại càng cần phải có đức tin mạnh hơn ai hết và mạnh hơn bao giờ hết, bằng không, chúng ta cũng vẫn có thể phản bội Người như Tông Đồ Giuđa Ích Ca, vẫn có thể như tất cả mọi vị Tông Đồ đă bỏ Người mà tẩu thoát (xem Marcô 14:50), khi Người bị bắt trong vườn nhiệt, nhất là vẫn có thể trắng trợn chối bỏ Người một cách phũ phàng 3 lần như Vị Tông Đồ Trưởng Phêrô. Tuy nhiên, dù Kitô hữu hậu sinh chúng ta không được diễm phúc là những chứng nhân tiên khởi như các Thánh Tông Đồ sống liền với nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét, song đức tin của chúng ta cũng như của các vị hoàn toàn như nhau và giống nhau, ở chỗ, cả hai đều tin tưởng vào cùng một đối tượng, đó là những ǵ được Thánh Phêrô tuyên xưng trong Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 16 câu 16: “Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Dù sao th́ Phụng Vụ Lời Chúa cho Chúa Nhật Thứ Bốn Thường Niên Năm C tuần này cũng có một điều hơi lạ, đó là trong khi bài Phúc Âm nói về việc Chúa Kitô bị dân làng Nazarét chống đối th́ Thư Thứ Nhất của Thánh Phaolô gửi giáo đoàn Côrintô trong bài đọc hai lại nói đến bài ca Đức Ái. Không biết giữa bài Phúc Âm và bài đọc hai này có liên hệ ǵ với nhau không, có ăn khớp với nhau hay chăng? Đúng thế, theo Thánh Phaolô trong bài đọc này th́ chỉ có Đức Ái mới là tất cả mọi sự và mới vượt trên hết mọi sự khác, bằng không, không có Đức Ái, tất cả đều là hư không, đều như xác vô hồn, dù có kiến thức cao siêu, có đức tin chuyển núi di sông hay hiến thân tử đạo đi nữa. Bởi thế, nếu không có hay chưa có Đức Ái đích thực, th́ con người vẫn c̣n ở trong t́nh trạng ấu trĩ, như Thánh Phaolô viết ở đoạn 13, câu 11 và 12,: “Khi c̣n bé nhỏ, tôi nói như trẻ nhỏ, suy tưởng như trẻ nhỏ, lư luận như trẻ nhỏ; nhưng khi tôi đă trưởng thành, tôi loại bỏ những ǵ là trẻ nhỏ. Hiện giờ chúng ta thấy mờ mịt như qua tấm gương, nhưng bấy giờ, tôi biết một cách trực diện. Hiện giờ tôi biết có giới hạn, nhưng lúc bấy giờ, tôi sẽ biết như tôi được biết”. Vậy, căn cứ vào bài đọc thứ hai, chúng ta có thể suy luận và kết luận cái mâu thuẫn liên quan đến bài Phúc Âm như thế này: Sở dĩ dân làng Nazarét tỏ ra thái độ chống đối Chúa Kitô chính là v́ họ “c̣n bé nhỏ, nói như trẻ nhỏ, suy tưởng như trẻ nhỏ, lư luận như trẻ nhỏ”, nghĩa là họ chưa đạt đến mức độ trọn lành của Đức Ái. Mà Đức Ái nơi chung con người và riêng Kitô hữu là do bởi Thánh Linh mà có, như Thánh Phaolô cảm nhận trong Thư gửi Giáo Đoàn Rôma, đoạn 5 câu 5 như sau: “T́nh yêu của Thiên Chúa được đổ tràn đầy vào ḷng chúng ta nhờ Thánh Thần được ban cho chúng ta”. Nếu yêu thương là một thứ ngôn ngữ quốc tế thế nào, tức dù thất học hay khác chủng tộc, khác văn hóa cũng vẫn có thể nhận biết nhau, thông cảm với nhau và hiệp thông với nhau thế nào, th́ sống Đức Ái cũng chính là Ngôn Ngữ Thần Linh như vậy, một thứ Tiếng Lạ của Ngày Lễ Hiện Xuống, một thứ ngôn ngữ hiệp thông và nên một với nhau. Như thế, nếu dân làng Nazarét yêu kính Vị Thiên Chúa Làm Người ở giữa họ nơi Con Người lịch sử Giêsu Nazarét, th́ họ đă nhận biết Người và chấp nhận Người, không chống đối và muốn sát hại Đấng Thiên Sai nữa. Thế nhưng, nếu “vô tri bất mộ” th́ làm sao dân làng này có thể yêu mến Người nếu không biết Người. Tuy nhiên, có biết Người sinh ra ở Bêlem xứ Giuđa, các nhà thông thái ở Gialiêm cũng vẫn không đến triều bái Người như ba nhà đạo sĩ vương giả Đông Phương, những người ở xa không hề biết Người song lại theo ḷng khao khát chân lư đă t́m kiếm Người cho đến khi gặp được Người. Đó là lư do cho thấy chỉ có ngôn ngữ của cơi ḷng mới có thể nhận ra và gặp được Đấng “đến thế gian để thắp lên ngọn lửa và mong ước cho ngọn lửa ấy cháy sáng lên” (Lk 12:49). Đúng thế, Chúa Kitô “đă sinh ra và đă đến trong thế gian để làm chứng cho chân lư” (Jn 18:37), không phải bằng lời giảng dạy mà thôi, mà nhất là bằng cách tỏ t́nh yêu thương của Người ra cho con người thấy, ở chỗ, Người đă thực sự thắp sáng ngọn lửa yêu thương này trên cây Thập Tự Giá của Người, để nhân loại có thể nhờ đó mà nhận biết và yêu mến Người, như Người đă tuyên bố trong Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 12, câu 32, đó là: “Khi nào Tôi bị treo lên, Tôi sẽ kéo hết mọi người lên cùng Cha”, hay trong cùng Phúc Âm ở đoạn 8, câu 28: “Khi nào quí vị treo Con Người lên, quí vị sẽ biết Tôi”.
Lạy Lời Nhập Thể là Chúa Giêsu Kitô, Chúa đă lợi dụng tất cả mọi sự trên trần gian này để tỏ ra Chúa thực là Đấng Thiên Sai, kể cả những ǵ xúc phạm đến Chúa nhất. Đó là lư do tuyệt đỉnh của Mạc Khải Thần Linh, của việc Chúa tỏ ḿnh ra là ở nơi cây thập tự giá. Bằng Thần Linh Chúa đă thông ban cho chúng con qua các Bí Tích Thánh, xin Chúa cho chúng con, như Mẹ Maria đầy ơn phúc luôn lưu giữ trong ḷng những ǵ Mẹ thấy nơi Chúa xưa, chẳng những biết nhận ra mà c̣n đáp ứng tất cả mọi Tác Động Thần Linh trong tất cả mọi sự, cho Ư Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Amen.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
T́nh yêu: Tiền
nào của nấy!
Trần Mỹ
Duyệt
Ngay sau khi mới
mở mắt chào đời, hành động đầu tiên của một em bé là vội vàng đi t́m t́nh
yêu. Em ngu ngơ, khùa khoạng, và khóc thét lên cho đến khi được nằm nghỉ yên
trong ṿng tay của người mẹ. T́nh yêu đă đem lại cho em hạnh phúc, sức sống,
và và phát triển. Thiếu t́nh yêu, em sẽ đau khổ, sẽ chết, và nếu có sống, em
cũng không thể phát triển thành một con người toàn vẹn và trưởng thành xứng
với nhân phẩm và nhân vị của một con người. Đó là thân phận những em bé chưa
được một lần nh́n thấy ánh sáng mặt trời, và đă bị giết chết ngay khi c̣n
trong dạ mẹ mỗi năm lên đến hàng chục triệu vụ trên thế giới. Và đó cũng là
thân phận những em bé sau khi chào đời đă bị bỏ vào viện mồ côi, hoặc lang
thang đầu đường, xó chợ.
Nhưng nói đến
t́nh yêu, th́ lập tức ai cũng nghĩ đến t́nh yêu lứa đôi, t́nh yêu trai gái,
t́nh yêu của những cặp t́nh nhân. Và khi nghĩ tới t́nh yêu lứa đôi, t́nh yêu
trai gái, th́ người ta lại nghĩ ngay đến những t́nh cảm lăng mạn, những vuốt
ve, những hờn dỗi, và những đam mê cuồng si. Và v́ nghĩ như thế, sống như
thế, nên t́nh yêu thay v́ đem lại hạnh phúc, nó đă trở thành một nguyên nhân
cho nhiều bất hạnh đến nỗi nhiều người đă cảm thấy sợ hăi mỗi khi nghĩ đến
t́nh yêu.
Đồng hóa t́nh
yêu với những cảm xúc bên ngoài. Đồng hóa t́nh yêu với những đam mê có tính
cách dục vọng, nên t́nh yêu của nhiều người mang sắc thái, ích kỷ, hẹp ḥi,
kiêu căng, khoác lác và đầy ẩn ư. Đó là những người bề ngoài nói yêu, nhưng
trong ḷng luôn nghĩ xấu, xoi mói, t́m ṭi, ghen tỵ với người khác. Họ rất
bất nhẫn, tàn ác, và độc hại. Họ sẵn sàng ly dị, sẵn sàng phá thai, sẵn sàng
sang đoạt và chiếm hữu vợ chồng của nhau. Họ luôn luôn theo ư ḿnh và khi
không được điều ḿnh muốn th́ nổi giận, và bực tức. Hơn thế nữa, họ là những
con người vô thần trong tư tưởng và lối sống. Họ đa nghi, co cụm, và hèn
nhát khi phải đối diện với những khó khăn của thực tế để minh chứng t́nh yêu.
Có một phụ nữ nọ
một hôm đến trước ṭa Đức Mẹ, khóc lóc thảm thiết và kể lể:
- Mẹ ơi! Chỉ có
Mẹ mới cứu nổi gia đ́nh con. Xin Mẹ ra tay thương xót cho chồng con ơn ăn
năn trở lại và có trách nhiệm với gia đ́nh. Tuần qua, nhà con đă đi Las
Vegas và thua hơn 10.000$. Con khổ quá Mẹ ơi!
Cầu xin rồi,
nàng để vào bao thơ 100$ để dâng cúng. Nhưng vừa ra khỏi nhà thờ, chợt nhớ
lại các siêu thị lúc này đang trong mùa đại hạ giá. Thịt, cá, tôm, cua, rau,
trái cây và tất cả mọi mặt hàng. Nàng chợt nghĩ đến mấy con tôm hùm đang bơi
trong hồ, và tự nhiên thấy thèm. Và nàng đă quay trở lại nói với Đức Mẹ:
- Con xin lại
Đức Mẹ 50$. Hôm nay tôm hùm đang hạ giá. Con sẽ trở lại tạ Đức Mẹ sau.
Năm tuần lễ trôi
mau, nàng lại đến trước ṭa Đức Mẹ và khóc lóc. Động ḷng thương Đức Mẹ hiện
ra và hỏi:
- Có truyện ǵ
thế con?
- Mẹ ơi! Mẹ
thương con th́ thương cho trót, chồng con nó bỏ cờ bạc được ít tuần nay con
mừng quá, nào ngờ hôm qua nó lại đi Las Vegas và lần này thua mất 5000$. Khổ
quá Mẹ ơi!
Nghe vậy Đức Mẹ
liền hiền từ nói:
- Này con, 50$
con dâng đă giúp chồng con chừa cờ bạc được 5 tuần lễ và cứu cho gia đ́nh
con được 5000$ so với lần trước chồng con thua 10.000$. Rồi Đức Mẹ kết luận:
“Tiền nào của nấy con!”
Bạn và tôi đă có
lần nào cầu nguyện, xin khấn, và xin lễ như người thiếu phụ trên chưa? Tôi
nghĩ là có và là rất nhiều lần. Chúng ta đến với Chúa, đến với Đức Mẹ và đến
với chồng, với vợ, với con, với anh chị em, bạn bè của chúng ta bằng một
t́nh yêu nửa vời. Bằng một sự cắt xén và tính toán. Chúng ta thường sống và
diển tả t́nh yêu của chúng ta ngược lại với những ǵ mà t́nh yêu thật sự đ̣i
hỏi. Nhưng đâu là thứ t́nh yêu đích thực?
Thánh Phaolô đă
viết cho tín hữu Côrintô và cũng là cho tất cả mọi người chúng ta những lời
này: “Yêu là kiên nhẫn, là nhân hậu. Yêu không đố kỵ, không khoác lác, không
kiêu hănh, không ích kỷ, không nổi giận, không suy nghĩ điều xấu, không vui
mừng trước bất công, nhưng chung vui cùng chân lư, tha thứ tất cả, tin tưởng
tất cả, trông cậy tất cả, chịu đựng tất cả” (1 Cor 13: 4-7). Và đây chính là
phản ảnh của Đấng đă tự nhận ḿnh là t́nh yêu: “Thiên Chúa là T́nh Yêu” (1
Gio 4:8).
Đây là thứ t́nh
yêu mà người chồng may mắn có được nơi người vợ hiền đức. Là thứ t́nh yêu mà
người vợ hạnh phúc có được bên người chồng gương mẫu, có trách nhiệm và thủy
chung. Là thứ t́nh yêu mà những người con t́m thấy nơi cha mẹ và cha mẹ t́m
thấy nơi con cái. Thứ t́nh yêu mà bạn bè có được với nhau. Thứ t́nh yêu mọi
người có thể t́m gặp trong những giao tiếp xă hội. Và nếu tất cả cùng yêu,
và cùng đáp lại một nhịp đập của con tim như thế, th́ t́nh yêu không những
đẹp đẽ, thơ mộng, đáng yêu và hạnh phúc, mà nó c̣n là con đường dẫn chúng ta
đến hạnh phúc vĩnh hằng, t́m gặp và ḥa nhập vào với Đấng tạo hóa, chan ḥa
với vạn vật, và vĩnh viễn muôn thuở.
Trở lại h́nh ảnh
đứa trẻ sơ sinh được hạnh phúc và ngủ say trong ṿng tay của người mẹ. Và
người mẹ sung sướng hạnh phúc khi được ôm người con vào ḷng quên hết mọi
đau khổ, vất vả, và nguy hiểm trong suốt thời gian thai kỳ, và trong lúc
sinh nở. C̣n lại giữa người mẹ và người con là một bầu trời hạnh phúc, yên
b́nh và lắng đọng. Ở đây, xẩy ra đúng như những ǵ mà t́nh yêu đ̣i hỏi và
như Thánh Phaolô đă ghi, bao gồm những yếu tố kiên nhẫn, nhân hậu. Không
xuất hiện dấu vết của đố kỵ, khoác lác, kiêu hănh, ích kỷ. Không có những lư
do để nổi giận, suy nghĩ điều xấu, và nhất là vui mừng trước bất công xẩy ra
cho nhau. (xem 1 Cor 13: 4-7). Thiên Chúa để nói tiếng yêu với con người,
ngài cũng đă làm và đă sống như vậy. Và c̣n hơn thế, ngài đă chết cho con
người để nói lên một thứ t́nh yêu vược mức mà chỉ có ngài mới thực hiện được.
T́nh yêu là một
bản năng và là một nhu cầu. Con người ai cũng muốn yêu và muốn được yêu.
Nhưng để tránh những cái tiêu cực vẫn làm ảnh hưởng, và chia cắt t́nh yêu
khiến cho t́nh yêu mang một dấu vết dị dạng, chúng ta phải có cái nh́n thích
cực và trung thực về t́nh yêu. Đó là một quan niệm và cái nh́n về thái độ
dấn thân, thực tế bằng những hành động cụ thể trong cuộc sống mỗi ngày. Phải
nh́n nhận những giá trị của nhau. Phải nh́n nhận những thiện chí và ư tốt
của nhau. Phải tha thứ và nhẫn nại với nhau v́ hiểu và biết rằng dù là ai đi
nữa vẫn có những khuyết điểm cá nhân mà ḿnh cần phải chịu đựng. Nhất là dám
hy sinh con người ích kỷ của ḿnh, hy sinh thời giờ, hy sinh sức lực, và hy
sinh ư muốn cá nhân của ḿnh cho việc xây dựng hạnh phúc của nhau và cho
nhau. Yêu như thế là yêu đúng cách. Yêu như thế là yêu mô phỏng t́nh yêu
Thiên Chúa. Và yêu như thế là mở đầu cho những hạnh phúc chân thật đến với
ḿnh và người ḿnh yêu. T́nh yêu: Tiền nào của nấy!
|