CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY


BÀI ĐỌC I
: 2 Chron 36:14-16, 19-23)

“Cơn thịnh nộ và lòng từ bi của Chúa được tỏ bày qua sự lưu đày và giải phóng của dân tộc”
Bài trích sách Ký sự quyển thứ hai.

Trong những ngày ấy, tất cả những đầu mục tư tế và dân chúng đều bất trung, bắt chước những sự ghê tởm của các dân ngoại. Họ làm dơ bẩn đền thờ Chúa đã được Chúa thánh hóa tại Giêrusalem. Chúa là Thiên Chúa tổ phụ họ, đã luôn luôn đêm ngày sai sứ giả đến với họ, vì Người thương xót dân Người và đền thờ của Người. Nhưng họ nhạo báng các sứ giả Chúa, coi thường lời Chúa, và nhạo báng các tiên tri, đến nỗi, sau hết, cơn thịnh nộ của Chúa đã đổ lên dân Người, và vô phương cứu chữa. Quân thù đã đốt đền thờ Chúa, phá hủy tường thành Giêrusalem, phóng hỏa tất cả các lâu đài và thiêu hủy mọi đồ vật quí giá. Nếu có ai thoát khỏi lưỡi gươm, thì bị dẫn về Babylon để làm nô lệ nhà vua và con cái vua, cho đến thời vua nước Ba Tư thống trị, như thế ứng nghiệm lời Chúa dùng miệng tiên tri Giêrêmia mà phán, cho đến khi đất nước được mừng ngày Sabbat; vì trong tất cả những ngày xáo trộn, họ sẽ không giữ được ngày Sabbat trọn bảy mươi năm trường. Năm thứ nhất triều đại Cyrô, vua xứ Ba Tư, để lời Chúa dùng miệng tiên tri Giêrêmia phán trước được thực hiện, thì Chúa thúc đẩy tâm hồn Hoàng đế Cyrô, vua xứ Ba Tư, nhà vua ra lệnh truyền rao khắp đất nước, và ban chiếu chỉ rằng: “Đây Hoàng đế Cyrô, vua xứ Ba Tư tuyên bố: Chúa là Thiên Chúa trời đất đã ban cho trẫm mọi nước trên mặt đất, và chính Người đã ra lệnh cho trẫm xây cất cho Người một đền thờ ở Gêrusalem trong xứ Giuđa. Ai trong các người thuộc về dân Chúa? Thiên Chúa sẽ ở với nó, và nó hãy tiến lên.

Lời của Chúa.


Đáp Ca: (Xin mời Cộng đoàn thưa)

Lưỡi tôi dính vào cuống họng, nếu tôi không nhớ đến ngươi

1.      Trên bờ sông Babylon, chúng tôi ngồi khóc nức nở, khi tưởng nhớ đến núi Sion. Trên những cây dương liễu miền đó, chúng tôi treo các cây lục huyền cầm của chúng tôi.

2.      Vì nơi nầy, quân canh ngục đòi chúng tôi vui vẻ hát lên. Họ giục chúng tôi rằng: “Hãy vui mừng: Hãy hát cho chúng ta nghe điệu ca Sion”.

3.      Lẽ nào chúng tôi ca hát ngợi khen Thiên Chúa, trên đất khách quê người? Hỡi Giêrusalem, nếu tôi lại quên ngươi, thì cánh tay tôi sẽ bị khô đét.

4.      Lưỡi tôi sính vào cuống họng, nếu tôi không nhớ đến ngươi. Nếu tôi không đặt Giêrusalem, trên tất cả mọi niềm vui thỏa.


BÀI ĐỌC II: Eph 2:4-10

“Anh em chết bởi tội và được cứu rỗi bởi ân sủng”
Bài trích thơ Thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Êphêsô.

Anh em thân mến, Thiên Chúa là Đấng giàu lòng từ bi, vì lòng yêu thương cao cả mà Người đã yêu thương chúng ta, đến nỗi khi tội lỗi làm cho chúng ta phải chết, thì Người làm cho chúng ta sống lại trong Đức Kitô, nhờ ơn Ngài mà chúng ta được cứu rỗi; Người đã cho chúng ta được cùng chung sống lại và đồng ngự trị trên nước trời trong Đức Giêsu Kitô, để tỏ cho hậu thế được thấy sự phong phú dồi dào của ơn Chúa mà lòng nhân lành Chúa đã ban cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô. Vì chưng, bởi ơn Chúa, anh em được cứu rỗi nhờ đức tin. Điều đó không phải do anh em, vì đó là ân huệ của Chúa; cũng không phải do việc làm, để không ai được tự phụ. Vì chúng ta là thụ tạo của Người, đã được tạo thành trong Đức Giêsu Kitô, để làm các việc lành mà Chúa đã dự liệu, hầu chúng ta đem ra thực hành.

Lời của Chúa.


CÂU XƯỚNG TRƯỚC PHÚC ÂM: (Xin mời Cộng đoàn đứng)
Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài, sẽ được sống đời đời.


PHÚC ÂM: Joan 3:14-21

“Thiên Chúa đã sai Con Ngài đến để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ”
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: “Như Môisen đã treo con rắn lên ở sa mạc thế nào, thì Con Người cũng sẽ phải treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở Người, sẽ không bị hủy diệt, nhưng được sống đời đời. Vì Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Ngài giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ. Ai tin Người Con ấy thì không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi, vì không tin vào danh Con Một Thiên Chúa; và đây án phạt là sự sáng đã đến thế gian và người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sáng, vì hành động của họ xấu xa. Thật vậy, ai hành động xấu xa thì ghét sự sáng và không đến cùng sự sáng, sợ những việc làm của mình bị khiển trách, nhưng ai hành động trong sự thật thì đến cùng sự sáng, để hành động của họ được sáng tỏ là họ đã làm trong Thiên Chúa”.

Phúc Âm của Chúa.

 

SUY NIỆM

 

Dù con người yêu tối tăm hơn ánh sáng,

Nhưng tối tăm vẫn không át được ánh sáng

  

Vấn đề liên hệ Phúc Âm giữa ba Chúa Nhật 3, 4 và 5 của Chu Kỳ Phụng Vụ A, B và C

 

Như tuần trước đã nhận định, “chúng ta nên lưu ý là, chu kỳ Phụng Vụ Năm B bao giờ cũng theo Phúc Âm Thánh Ký Marcô. Tuy nhiên, có lẽ vì Phúc Âm Thánh Ký Marcô hơi ngắn, do đó, trong chu kỳ phụng vụ Năm B này, Giáo Hội đã phải sử dụng đến một số bài Phúc Âm của Thánh Gioan xen kẽ, như ở Mùa Vọng có Chúa Nhật Thứ Ba, ở Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh có Chúa Nhật Thứ 2 (cho cả chu kỳ năm A và C), ở Mùa Chay sáu tuần có Chúa Nhật Thứ Ba, Tư và Năm, ở Mùa Phục Sinh Phúc Âm Thánh Gioan được sử dụng hầu hết cho cả ba chu kỳ, chứ không riêng gì chu kỳ B, trừ Lễ Chúa Giêsu Thăng Thiên, Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh có Chúa Nhật 17-21, và Lễ Chúa Kitô Vua (cho cả 3 chu kỳ)”. Tuy nhiên, trong Mùa Chay, nếu để ý kỹ, chúng ta còn thấy Phúc Âm Thánh Gioan cũng được Giáo Hội sử dụng cho cả chu kỳ Năm A (Chúa Nhật 3, 4 và 5) và C (Chúa Nhật 5) nữa.

 

Ở chu kỳ Năm A, các bài Phúc Âm của Thánh Gioan cho ba Chúa Nhật 3, 4 và 5 thứ tự như sau: Chúa Giêsu với chị phụ nữ Samaritanô bên bờ giếng Giacóp, Chúa Giêsu phục quang kẻ mù từ lúc mới sinh, và Chúa Giêsu hồi sinh Lazarô. Ở chu kỳ Năm B, Phúc Âm Thánh Gioan cho ba Chúa Nhật 3, 4 và 5 thứ tự như sau: Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ Giêrusalem, Chúa Giêsu nói chuyện với Nicôđêmô và Chúa Giêsu cho các môn đệ biết mầu nhiệm tử giá của Người. Ở chu kỳ Năm C, Phúc Âm Thánh Gioan cho Chúa Nhật thứ 5 về thân phận của người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, bài phúc âm của Thánh Gioan này được Giáo Hội chọn đặt sau bài Phúc Âm Thánh Luca cho Chúa Nhật thứ 4 về dụ ngôn người con hoang đàng, cũng như sau bài Phúc Ân Thánh Luca cho Chúa Nhật thứ 3 về nhu cầu cần phải thống hối ở chỗ sinh hoa kết trái như cây vả được chăm bón, bằng không sẽ chịu hậu quả của nó như những nạn nhân bất hạnh ở vụ tháp Siloe.

 

So sánh những bài Phúc Âm được Giáo Hội cố ý sắp xếp cho 3 Chúa Nhật 3, 4 và 5 Mùa Chay cho cả ba chu kỳ A, B và C trước Chúa Nhật Thương Khó và Tuần Thánh này, chúng ta có thể thấy được ngầm ý của Giáo Hội muốn bày tỏ cho con cái mình thấy toàn diện ý nghĩa Mùa Chay nói riêng và Mầu Nhiệm Cứu Độ nói chung. Ở chu kỳ Năm A, các bài Phúc Âm theo Thánh Ký Gioan cho chúng ta thấy Mạc Khải Thần Linh cũng là Mầu Nhiệm Chúa Kitô, ở chỗ, Chúa Giêsu tỏ mình là Đường qua việc Người ban nước hằng sống Thần Linh cho chung nhân loại (được tiêu biểu nơi người phụ nữ ngoại lai Samaritanô) để họ có thể nhận biết Người, là Sự Thật qua phép lạ tiêu biểu Người phục quang cho một người Do Thái bị mù từ lúc mới sinh, và là Sự Sống qua phép lạ tiêu biểu Người hồi sinh bạn thân Lazarô của Người.

 

Ở chu kỳ Năm B, các bài Phúc Âm theo Thánh Gioan cho chúng ta thấy một yếu tố vô cùng quan trọng để đáp lại Mạc Khải Thần Linh, tức để chấp nhận Mầu Nhiệm Chúa Kitô, những gì các bài Phúc Âm của chu kỳ Năm A cho thấy, đó là yếu tố Đức Tin Tuân Phục, yếu tố để được Cứu Độ. Đó là lý do chúng ta thấy cả ba bài Phúc Âm theo Thánh Gioan cho Chúa Nhật 3, 4 và 5 của chu kỳ Năm B đều đã nhấn mạnh đến  Đức Tin Cứu Độ: Ở bài phúc âm Chúa Nhật 3, dân Do Thái là thành phần thích xem dấu lạ muốn được cứu độ cần phải tin vào cuộc phục sinh của đền thờ thân xác Chúa Kitô sẽ bị họ ra tay triệt hạ, tàn phá; ở bài phúc âm Chúa Nhật 4, thành phần lãnh đạo dân Do Thái (được tiêu biểu nơi Nicôđêmô là thành viên của Hội Đồng Do Thái) vốn chuộng tối tăm hơn ánh sáng cần phải tin vào Đấng Thiên Sai Con Thiên Chúa để được sự sống đời đời; và ở bài phúc âm Chúa Nhật thứ 5, thành phần môn đệ của Chúa Giêsu, thành phần chứng nhân của Người nơi các dân nước (là thành phần được tiêu biểu nơi những người Hy Lạp đã xin các vị cho được gặp Chúa Giêsu bấy giờ) cần phải chấp nhận Đấng được Thiên Chúa tôn vinh trên thập giá.

 

Ở chu kỳ Năm C, chúng ta thấy những cuộc hội ngộ giữa Mạc Khải Thần Linh (chiều hướng của các bài Phúc Âm theo Thánh Gioan cho chu kỳ Năm A) và Đức Tin Tuân Phục (chiều hướng của các bài Phúc Âm theo Thánh Gioan cho chu kỳ Năm B) gặp nhau. Thật vậy, bài Phúc Âm Thánh Luca cho Chúa Nhật thứ 3 Mùa Chay Năm C cho thấy, nếu dân Do Thái thích xem dấu lạ (theo chiều hướng của Phúc Âm năm B) muốn tin vào Chúa Kitô là Đấng Phục Sinh sẽ làm phép rửa Thánh Linh (theo chiều hướng của Phúc Âm năm A), thì họ cần phải hoán cải nội tâm bằng những việc làm cụ thể như cây vả sinh hoa kết trái (như trong bài Phúc Âm năm C). Bài Phúc Âm Thánh Luca cho Chúa Nhật thứ 4 Mùa Chay Năm C cho thấy, nếu thành phần lãnh đạo dân Do Thái chuộng tối tăm hơn ánh sáng (theo chiều hướng của bài Phúc Âm năm B) muốn chấp nhận Chúa Kitô là Ánh Sáng thế gian (theo chiều hướng của bài Phúc Âm năm A), họ phải là người con cả biết cùng cha vui mừng khi thấy em mình là thành phần hoang đường tội lỗi quay trở về nhà cha (như trong bài Phúc Âm năm C). Bài Phúc Âm Thánh Gioan cho Chúa Nhật thứ 5 Mùa Chay Năm C cho thấy, nếu thành phần môn đệ Chúa Kitô biết chấp nhận Đấng được tôn vinh trên thập giá (theo chiều hướng của bài Phúc Âm năm B), họ sẽ được Đấng Phục Sinh tái sinh về phần hồn, một việc tái sinh được tiêu biểu qua việc Người đã hồi sinh như Lazarô (theo chiều hướng của bài Phúc Âm năm A), nhờ đó, các vị mới có khả năng tái sinh trong Thần Linh, tức có quyền năng tha tội do Chúa Kitô ban cho, một quyền năng Người đã thực hiện nơi trường hợp người phụ nữ bị bắt quiả tang đang phạm tội ngoại tình đưa đến cho Người xét xử (như trong bài Phúc Âm năm C).

 

Vấn đề cứu độ của bài Phúc Âm Chúa Nhật Thứ Tư Mùa Chay Năm B

 

Riêng bài Phúc Âm theo Thánh Gioan cho chu kỳ Năm B của Chúa Nhật thứ 4 Mùa Chay, Giáo Hội muốn cho con cái mình thấy, trước hết là dự án cứu độ của Thiên Chúa, sau nữa là công cuộc cứu độ của Thiên Chúa, và sau hết là điều kiện duy nhất để được cứu độ. Trước hết, về dự án cứu độ của Thiên Chúa, bài Phúc Âm đã trình thuật chính lời Chúa Kitô mạc khải về mầu nhiệm Thiên Chúa yêu thương con người và muốn cho con người được hiệp thông với Ngài bằng sự sống trường sinh: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian… để họ được sự sống trường sinh”. Thế nhưng, để thực hiện dự án cứu độ của mình, dự án muốn con người được dựng nên theo hình ảnh và tương tự như mình (x Gen 1:26) có thể hiệp thông với Ngài, có thể được hoan hưởng Sự Sống Thần Linh vô cùng viên mãn và thiện hảo của Ngài, bài Phúc Âm cho biết thêm về lời mạc khải hết sức quan trọng của Chúa Kitô, đó là “Thiên Chúa đã ban Người Con duy nhất của Ngài” cho thế gian. Tuy nhiên, công cuộc cứu chuộc không phải chỉ có thế, chỉ ở chỗ “Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta” (Jn 1:14), mà còn ở chỗ, cũng theo lời mạc khải củaChúa Giêsu tỏ cho Nicôđêmô, “như Moisen treo con rắn lên trong sa mạc thế nào, Con Người cũng sẽ bị treo lên như thế”. Đúng thế, công cuộc cứu độ loài người của Thiên Chúa đây chẳng những ở chỗ Lời Nhập Thể mà còn ở chỗ Lời Vượt Qua nữa, bởi vì, Thiên Chúa “đã không dung tha Con một của Ngài song đã phó nộp Người vì tất cả chúng ta”, Thánh Phaolô Tông Đồ Dân Ngoại đã cảm nhận như thế (x Rm 8:32). Đó là lý do, cũng trong cùng bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, Chúa Giêsu còn mạc khải cho biết dứt khoát dự án cứu độ của Thiên Chúa như sau: “Thiên Chúa không sai Con đến thế gian để luận phạt thế gian, song để thế gian nhờ Người mà được cứu độ”.

 

Tuy nhiên, thực tế cho thấy con người bị luận phạt, một tình trạng không thể nào không xẩy ra vì tự do nơi thành phần được dựng nên với hồn thiêng bất tử theo hình ảnh Thiên Chúa là Thần Linh và tương tự như Ngài với ý thức tự do yêu thương. Đó là vấn đề con người ý thức có nhận biết nhận biết Lời Nhập Thể (x Jn 1:10-11), có tự do đáp ứng ở chỗ chấp nhận Mạc Khải Thần Linh. Nếu được Thiên Chúa mạc khải cho biết về (bản thân và ý định của) Ngài nơi Lời Nhập Thể, Đấng là “ánh sáng thật chiếu soi mọi người đã đến trong thế gian” (Jn 1:9), con người “lại chuộng tối tăm hơn ánh sáng”, như lời Chúa Giêsu cho biết trong bài Phúc Âm, thì tự họ luận phạt bản thân họ: “Ai tin vào Người thì không bị luận phạt, còn ai không tin đã bị luận phạt rồi, bởi không tin vào danh Con một Thiên Chúa”. Vậy, theo Chúa Giêsu cho biết thì thành phần không tin vào Người sẽ tự luận phạt bản thân họ như thế nào, nếu không phải, họ tiếp tục sống trong tăm tối, trong gian dối, trong lo âu sợ hãi trước sự thật: “Ai hành ác thì sợ ánh sáng; họ không dám đến gần ánh sáng vì sợ các việc họ làm bị bại lộ”. Ánh sáng tự bản chất bao giờ cũng tốt, cũng cần cho tất cả mọi vật, nhất là sinh vật, để sinh động và phát triển, thế nhưng, nó lại trở thành cực hình cho kẻ bị đau mắt thế nào, thành phần “chuộng tối tăm hơn ánh sáng” cũng thế. Trong trường hợp của họ, ánh sáng đã trở thành hình phạt của họ và cho họ, chỉ vì họ không chịu chấp nhận ánh sáng, không dám phơi mình ra trước ánh sáng.

 

Như thế, căn cứ vào chiều hướng của bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta có thể giải quyết vấn đề tiền định có vẻ và hầu như nan giải như thế này. Tiền định đây đúng thực có nghĩa là định trước; nhưng vấn đề định trước đây không phải là định cho người này được lên thiên đàng người kia phải xuống hỏa ngục, và bởi đó, người bị tiền định xuống hỏa ngục dù có làm lành mấy cũng không thể lên thiên đàng, và người được tiền định lên thiên đàng thì dù có tội lỗi mấy cũng không phải xuống hỏa ngục. Nếu vậy thì Thiên Chúa đã không xuống thế làm người cứu chuộc tất cả mọi người mà làm gì: “Thiên Chúa không sai Con đến thế gian để luận phạt thế gian, song để thế gian nhờ Người mà được cứu độ”. Vấn đề tiền định ở đây liên quan đến dự án cứu độ của Thiên Chúa thì đúng hơn, dự án đó, như bài Phúc Âm mạc khải cho biết, là Thiên Chúa yêu thương con người, muốn con người được hiệp thông sự sống thần linh của Ngài và với Ngài, nhưng muốn được như vậy, con người cần phải đáp ứng tình yêu của Ngài, bằng việc tri ân đón nhận những gì Ngài ban là Chúa Giêsu Kitô, Lời Nhập Thể. Đó là lý do Vị Tông Đồ Dân Ngoại đã chí lý xác tín là: “Những ai Thiên Chúa biết trước thì Ngài cũng tiền định cho họ chia sẻ hình ảnh Con Ngài” (Rm 8:29), nghĩa là cũng phải hy sinh phục vụ và chịu khổ nạn mới được cứu độ. Tóm lại, đối với Thiên Chúa, tiền định là yêu thương, là ban phát, là cứu độ, còn đối với nhân loại, là đáp ứng, là tiếp nhận, là tin tưởng; nói chung, tiền định là tất cả những gì Thiên Chúa muốn ấn định để con người có thể nhờ đó mà được cứu độ; bởi thế, nếu con người với đầy đủ ý thức và tự do không chịu chấp nhận những gì được ban cho họ một cách nhưng không, họ sẽ không thể trách cứ ai được nữa, ngoài việc trách chính bản thân mình, bằng thái độ “khóc lóc nghiến răng” trong cõi đời đời (Mt 8:12, 13:42, 22:13, 24:51, 25:30): “Ai tin thì khỏi bị luận phạt, còn ai không tin thì đã bị luận phạt rồi vậy”.

 

Vấn đề tiền định liên quan đến ơn cứu độ

 

Thế nhưng, cho dù Thiên Chúa vô cùng toàn hảo không thể nào lại tiền định cho một ai xuống hỏa ngục đi nữa, Ngài vẫn biết trước ai sẽ xuống hỏa ngục, vậy thì tại sao Ngài còn dựng nên họ mà làm gì, để họ phải hư đi đời đời vô cùng khốn nạn như vậy, hóa ra Ngài không độc ác lắm sao?

 

Trước hết, không thể nào phủ nhận được vấn đề Thiên Chúa biết trước những ai trong loài người được Ngài dựng nên sẽ bị đời đời hư đi. Phải chăng đó là chén đắng Vị Thiên Chúa Làm Người đã cảm thấy khó uống trong đêm Vườn Cây Dầu trước giờ tử nạn của Ngài? Bởi vì, bấy giờ, trong thân phận làm người, Ngài cảm thấy “buồn sầu đến nỗi chết được” (Mt 26:38), đến toát mồ hôi máu (x Lk 22:44) nơi thân xác của Ngài, một trạng thái  đau thương trong tâm hồn đã lên đến cực độ! Một đàng Ngài thấy rằng Ngài không thể nào không ra tay cứu độ con người, dù bằng một giá rất cao, mất hết phẩm giá của một Vị Thiên Chúa Tối Cao của Ngài, mất cả mạng sống loài người của Ngài, là tất cả những gì cao quí nhất nơi một Ngôi Vị mang hai bản tính thần nhân. Thế nhưng, công ơn cứu độ hết sức đắt giá và nhưng không vô giá của Ngài ấy lại trở thành vô ích cho một số người, thậm chí còn trở nên án phạt cho thành phần đời đời hư đi.

 

Tuy nhiên, vấn đề ở đây liên quan đến dự án tạo dựng và công cuộc tạo dựng của Thiên Chúa. Thiên Chúa dựng nên con người để làm gì và tại sao Thiên Chúa dựng nên họ theo hình ảnh cùng tương tự như Ngài? Nếu không phải, về dự án tạo dựng, Thiên Chúa muốn con người nhận biết Ngài để được sống Sự Sống Thần Linh của Ngài và với Ngài. Và về công cuộc tạo dựng, Thiên Chúa đã dựng nên con người có tâm linh ý thức và tự do để nhờ đó họ có khả năng nhận biết và yêu mến Ngài. Đó là lý do Thiên Chúa không thể, đúng hơn không muốn, dựng nên loài người giống như đất đá, cỏ cây hay con vật vô tri thức, chẳng biết Đấng Hóa Công là gì. Mà một khi đã dựng nên con người có ý thức và tự do, Ngài cũng không muốn, đúng hơn không thể, ép buộc họ phải nhận biết Ngài và yêu mến Ngài. Tất nhiên, Ngài thực sự muốn tất cả mọi và từng con người Ngài tạo dựng nên nhận biết và yêu mến Ngài, không phải để Ngài được thêm vinh quang vốn đã toàn mãn nơi bản thân của Ngài, nơi nội tâm của Ngài, mà là để họ được hiệp thông và hoan hưởng sự sống thần linh của Ngài và với Ngài. Thế nhưng, tự mình, về bản tính tự nhiên, dù có khả năng nhận biết và yêu mến Thiên Chúa, nhưng nếu không được Thiên Chúa tỏ mình ra cho nơi Lời Nhập Thể và thông mình ra cho qua Thánh Thần, con người cũng không thể nào thực sự và hoàn toàn nhận biết và yêu mến Ngài đích thực và trọn hảo như chính Ngài biết Ngài và yêu Ngài, để có thể hiệp thông với sự sống nội tâm Ba Ngôi của Ngài. Phải chăng đó chính là lý do “Lời đã hóa thành nhập thể và ở giữa chúng ta” (Jn 1:14)…, chẳng những “để tỏ Cha ra” (Jn 1:19) mà còn để “làm phép rửa Thánh Thần” (Jn 1:33; Lk 3:16; Jn 20:22)?

 

Thực tế cho thấy, dù Lời có tỏ cho con người biết Cha và ban cho người Thần Linh để yêu Cha đi nữa, con người cũng không thể nào biết Cha như Cha biết mình và yêu Cha như Cha yêu mình, dù ở nơi Đệ Nhất Tạo Vật của Ngài là Trinh Nữ Maria “đầy ơn phúc” (Lk 1:28) đi nữa, một mức độ “đầy ơn phúc” với tất cả khả năng hết cỡ nhưng vẫn có giới hạn của tạo vật. Thật vậy, chỉ có ở nơi chính Lời Nhập Thể, một Ngôi Vị có hai bản tính, Thiên Chúa mới thực sự và hoàn toàn biết mình và yêu mình như Ngài là và như Ngài muốn. Nhân Tính của Chúa Kitô, như thế, đối với Thiên Chúa, hoàn toàn là phản ảnh Thần Tính của Lời Nhập Thể (x Heb 1:2), và đối với nhân loại, “là ánh sáng sự sống” (Jn 8:12), một “ánh sáng thật chiếu soi cho hết mọi người đã đến trong thế gian” (Jn 1:9). Như thế, dù những kẻ không chấp nhận Lời Nhập Thể, không nhận biết Chúa Kitô, thì “ánh sáng thế gian” (Jn 8:12) này vẫn không vì thế mà bị lu mờ đi: “Ánh sáng đã chiếu trong tăm tối song tăm tối đã không lấn át được ánh sáng” (Jn 1:5). Chính lúc con người “chuộng tối tăm hơn ánh sáng” và sợ “không dám tới gần ánh sáng”, như trong bài Phúc Âm Chúa Nhật thứ 4 Mùa Chay Năm B nói đến, cũng đủ chứng tỏ thực sự có một thứ ánh sáng siêu việt, một thứ ánh sáng thần linh.

 

Đó là lý do, dù con người khi còn sống nhất định phủ nhận thần linh, chối bỏ lương tâm, triệt hạ chân lý, nhưng cuối cùng họ, ngay trong giờ chết, nhất là trong cõi đời đời, cùng với thành phần tà thần là ma qủi, họ vẫn công nhận thực tại Chân Thiện Mỹ tối thượng là Thiên Chúa, Đấng đã tỏ mình ra nơi Lời Nhập Thể, một thực tại họ không thể phủ nhận nhưng tiếc thay không được hiệp thông và hoan hưởng như thành phần kẻ lành. Dầu sao, nếu mục đích tạo dựng của Thiên Chúa là tỏ mình ra để loài người nói riêng có thể nhận biết Ngài, thì quả thực Ngài đã đạt được mục đích ấy của Ngài, dù nơi thành phần hư đi chăng nữa. Vì, qua Lời Nhập Thể và Vượt Qua, Ánh Sáng Thần Linh đã, đang và sẽ thực sự và hoàn toàn đánh tan bóng tối vô tri, bóng tối sự chết trên thế gian, nhất là khi Ngài “canh tân tất cả mọi sự” (Rev 21:5), “để Thiên Chúa là tất cả trong mọi sự” (1Cor 15:28), ở chỗ, dù kẻ lành hay dữ, cuối cùng tất cả đều nhìn nhận “tất cả sự thật” (Jn 16:13) bất biến này: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến bản Con Một của Ngài… không phải để luận phạt thế gian song để thế gian nhờ Người mà được sự sống trường sinh”. “Ánh sáng đã chiếu soi trong tăm tối song tăm tối không át được ánh sáng” (Jn 1:5) là như thế. Bởi vì, ngay chính nơi Con Người Giêsu Kitô “là phản ảnh vinh quang Cha” (Heb 1:3), Thiên Chúa đã thực sự và hoàn toàn được nhận biết và yêu mến như Ngài mong muốn rồi vậy: “Đây là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng” (Mt 3:17, 17:5). Và “Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” đã được trọn vẹn hiện thực nơi Lời Nhập Thể và Vượt Qua.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

 

THIÊN CHÚA QUÁ ĐỖI YÊU

 

Trần Mỹ Duyệt

 

“Thiên Chúa quá yêu thế gian đến nỗi ban Con Một Ngài” (Gioan 3:16). Khi viết câu này, Thánh Gioan hiển nhiên nhận được ơn thần hứng, nhưng chắc chắn còn cộng thêm kinh nghiệm của bản thân mình.

 

Thật vậy, trong bữa Tiệc Ly khi tựa đầu vào ngực Chúa, hẳn là Gioan đã nghe được những tiếng đập của con tim Đấng Cứu Thế. Những tiếng đập vui mừng vì đã sắp đến giờ Ngài giao hòa thế gian được với Chúa Cha qua cái chết của mình trên thập giá. Nhờ đó, nhân loại được gọi là con Thiên Chúa. Được cứu độ và được thông phần sự sống đời đời. Nhưng trong những nhịp đập vui mừng ấy, cũng có những tiếp nấc nghẹn ngào mà sau đó trong vườn Cây Dầu ngài đã thốt lên với các ông: “Linh hồn thầy buồn rầu đến nỗi chết” (Mt 14:34). Và với Chúa Cha thì ngài van xin: “Lậy Cha xin hãy cất chén này xa con, nhưng đừng theo ý con, một xin vâng ý Cha” (Mt 14:36). Có nghĩa là Chúa Giêsu được Chúa Cha sai xuống trần và được ban cho nhân loại, để nhờ ngài, mà nhân loại được cứu rỗi. Gioan đã cảm nghiệm được tất cả những nhịp đập ấy, và đã viết lên câu : “Vì Chúa Cha quá đỗi yêu thương thế gian” (Gioan 3:16). Yêu đến nỗi không còn gì hơn để cho, để hiến tặng. Yêu đến đã phải hy sinh chính Con một của mình.

 

CHÚA CHA YÊU THẾ GIAN

 

“Đố ai định nghĩa được tình yêu”. Thật vậy, nhìn vào những gì Chúa Cha làm cho thế gian, chúng ta cũng có thể nói rằng cả đến Thiên Chúa cũng bị tình yêu quật ngã. Ngài đã bị tình yêu làm cho choáng váng, mờ mịt lý trí. Yêu đến nỗi sẵn sàng thí mạng Con Một yêu dấu của mình vì người mình yêu. Thử hỏi trong lịch sử nhân loại, và trong tình trường đã có mấy ai vì yêu mà thí mạng con một của mình. Bất quá cũng chỉ có Hêrôđê vì mê man sắc đẹp của nàng Hêrôđia mà hứa với con của nàng một nửa nước. Cũng may, Hêrôđia và con của nàng vì căm thù Gioan Tẩy Giả mà không màng đến, nếu không lịch sử nhân loại sẽ phải kể đến một cuộc tình điên dại của một ông vua si tình đành mất nửa giang sơn. Nhưng Chúa Cha thì khác, ngài đã không chỉ cho một nửa nước, mà còn cho cả Thiên Đàng – cho cả nước – cho những kẻ ngài yêu. Hơn thế nữa, để chiếm được con tim nhân loại, ngài đã đành hy sinh chính Con Một yêu dấu của mình. Ôi tình yêu Thiên Chúa! Trí khôn con người thật sự không hiểu thấu và sự khôn khoan của con người không sao thấu hiểu mầu nhiệm cao cả của tình yêu này. Mà vì tình Ngài siêu vượt, nên Ngài lại trở thành si tình hơn khi đem tình yêu ấy đi vào với cuộc sống thường ngày khiến chúng ta không cần phải hiểu, mà chỉ cần mở mắt ra là cảm nhận được tình ngài.

 

Trái đất và muôn loài trên trái đất. Bầu trời và vũ trụ bao la. Tất cả những cái đó Thiên Chúa tạo dựng nên cũng vì con người và cho con người. Chưa có một loài thụ tạo nào, trừ thiên thần, được ưu đãi như loài người chúng ta. Và từng ấy thiết tưởng cũng đã đủ để chúng ta nhìn ra bàn tay quan phòng, và tình yêu của Thiên Chúa.

 

Đi sâu vào đời sống nội tâm, và qua mầu nhiệm Cứu Độ, con người còn bằng hoàng và sửng sốt biết bao khi biết rằng Chúa Cha sẵn lòng ban nước trời cho chúng ta: “Hỡi đoàn con nhỏ đừng lo, vì Cha Ta đã sẵn lòng ban nước trời cho các con”.  

 

VÌ CHÚA LÀ TÌNH YÊU

 

Tóm lại, nếu con người chỉ dừng lại ở những lý luận trìu tượng của lý trí, thì không thể hiểu được tình yêu Thiên Chúa. Lý trí chưa giải thích được tình yêu nhân loại, thì lý trí làm gì hiểu và tri thức, giải thích được tình yêu Thiên Chúa.

 

Cũng như tình yêu của con người không dựa vào lý trí và suy luận của trí khôn, tình yêu Thiên Chúa cũng không căn cứ vào những lý luận của con người. Khi Thiên Chúa yêu thương con người, vì Ngài là tình yêu. Một tình yêu không điều kiện. Không phải vì con người chúng ta đáng thương, đáng mến, và vì Thiên Chúa muốn yêu thương chúng ta.

 

Định nghĩa Thiên Chúa là tình yêu đem chúng ta về với ân huệ được làm con Thiên Chúa của mình. 

 

THẾ GIAN KHÔNG YÊU CHÚA

 

Khi nói về tình yêu Thiên Chúa, về việc Ngài ban tặng Con Một Ngài cho thế gian, Thánh Gioan cũng đã nói thêm rằng: “Sự sáng đã đến thế gian, mà người ta đã yêu tối tăm hơn sự sáng” (Gioan 3:19). Sau hơn 2000 năm Chúa Giêsu giáng trần, và với những phương tiện truyền thông tinh vi của con người thời đại, cho đến hôm nay cũng chỉ được 1/3 nhân loại trên thế giới nhận được Tin Mừng. Con số nhận được Tin Mừng này, tuy nhiên, vẫn chưa bảo đảm được rằng họ đã đáp lại tình yêu Thiên Chúa, đã đi theo con đường Tin Mừng được rao giảng.

 

Thế giới ngày nay vẫn còn hận thù chồng chất. Vẫn còn chiến tranh đẫm máu. Vẫn còn bạo loạn và khủng bố khắp nơi. Nhiều người vẫn sống trong sự thiếu thốn tình thương. Một thế giới đang làm cho nhiều người hoảng sợ. Thế giới của ly dị, của phá thai, của đồng tính và hôn nhân đồng tính. Thế giới của trào lưu duy thực vật. Trong thế giới này, Lời Chúa, Tin Mừng của Chúa của Ngài vẫn còn là những gì xa lạ và trở thành đáng ghét đối với nhiều người. Người ta còn giận hờn Thiên Chúa. Còn cấm cách. Còn bắt bớ Thiên Chúa qua những hình thức cấm đoán tự do tôn giáo.

 

Tóm lại, tình yêu Thiên Chúa vẫn chưa được đáp trả. Chưa được nhận biết. Con Một Thiên Chúa, cái chết của Ngài vẫn chưa đủ sức hấp dẫn và lôi kéo. Thiên Chúa vẫn là kẻ tình si. Tình yêu của Ngài vẫn chỉ là tình một chiều.

 

TA PHẢI YÊU THIÊN CHÚA

 

Nhưng nếu Ngài đã ban Thánh Thần của Ngài cho chúng ta, và chúng ta kêu lên được lời “Lậy Cha chúng con ở trên trời”, rồi thì chúng ta còn gì phải chờ đợi, phải suy nghĩ hơn là đáp trả lại tình yêu của Ngài. Tình yêu của một người cha nhân từ. Tình yêu của một Thiên Chúa toàn năng.

 

Thật vậy, có bao giờ chúng ta dành lấy ít phút mỗi ngày trong thinh lặng để suy về tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta không? Có bao giờ chúng ta để lòng mình rung động trước vẻ đẹp thiên nhiên của tạo hóa, của con người không? Có bao giờ chúng ta nghĩ rằng mình được bình an, được mọi sự may lành là do lòng thương xót Chúa ban không? Nhất là có bao giờ chúng ta cho việc được nhận biết Ngài, được làm con cái ngài, và được sống trong tình yêu thương của ngài làm quí trọng, là hạnh phúc không?

 

Vậy bổn phận chúng ta là phải “yêu mến” Thiên Chúa, phải “biết ơn” Ngài. Lậy Chúa xin cho con biết Chúa để yêu mến Chúa. Yêu mến thay cho những kẻ không nhận biết, không tôn thờ, và không yêu mến. Và xin cho đời sống của chúng con là một đời yêu mến để đền đáp tình yêu mà Ngài đã ban tặng cho nhân loại và cho riêng từng người chúng con.

 

ÂN SỦNG & LÒNG TIN

 

 

I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ       

         

       “Hãy hành động như tất cả tùy thuộc ở bạn và hãy cầu nguyện như tất cả tùy thuộc vào Thiên Chúa.” Sứ điệp của ba bài Thánh Kinh của Chúa Nhật thứ 4 Mùa Chay năm B này có thể tóm tắt trong câu châm ngôn ấy. Cũng tương tự như một câu nói bất hủ của Thánh Au-tinh đại ý như sau: “Thiên Chúa dựng nên con thì không cần có con, nhưng Thiên Chúa không thể cứu con, nếu không có con.”

        

               Ơn sủng và lòng tin là hai yếu tố thiết yếu tạo nên Ơn Cứu Độ. Không có ơn sủng, không có ơn cứu độ. Nhưng không có lòng tin cũng không có ơn cứu độ. Ơn sủng là của Thiên Chúa, Người ban không cho con người. Lòng tin là sự đáp trả và đóng góp của con người. Thật là sự hợp tác kỳ diệu và tuyệt vời giữa Đấng Tạo Hóa và tạo vật trong việc đem hạnh phúc thật đến cho tạo vật là loài người chúng ta!

 

II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH

 

2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh

 

(1) Bài đọc 1: 2 Sb 36,14-16.19-23: Cơn thịnh nộ và lòng thương xót của Chúa.

 

     (14) Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà ĐỨC CHÚA đã được thánh hiến ở Giê-ru-sa-lem ra ô uế.  (15) ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của tổ tiên họ vẫn không ngừng sai sứ giả của Người đến cảnh cáo họ, vì Người hằng thương xót dân và thánh điện của Người. (16) Nhưng họ nhạo cười các sứ giả của Thiên Chúa, khinh thường lời Người và chế giễu các ngôn sứ của Người, khiến ĐỨC CHÚA bừng bừng nổi giận mà trừng phạt dân Người đến vô phương cứu chữa.

 

     (19) Quân Can-đê đốt Nhà Thiên Chúa, triệt hạ tường thành Giê-ru-sa-lem, phóng hỏa đốt các lâu đài trong thành và phá hủy mọi đồ đạc quý giá. (20) Những ai còn sót lại không bị gươm đâm, thì vua bắt đi đày ở Ba-by-lon; họ trở thành nô lệ của vua và con cháu vua, cho đến thời vương quốc Ba Tư ngự trị. (21) Thế là ứng nghiệm lời ĐỨC CHÚA phán, qua miệng ngôn sứ Giê-rê-mi-a rằng: cho đến khi đất được hưởng bù những năm sa-bát và suốt thời gian nó bị tàn phá, nó sẽ nghỉ, cho hết bảy mươi năm tròn.

 

    (22) Năm thứ nhất thời vua Ky-rô trị vì nước Ba Tư, để lời ĐỨC CHÚA phán qua miệng ngôn sứ Giê-rê-mi-a được hoàn toàn ứng nghiệm, ĐỨC CHÚA tác động trên tâm trí  Ky-rô, vua Ba Tư. Vua thông báo cho toàn vương quốc và ra sắc chỉ như sau:   (23) "Ky-rô, vua Ba Tư, phán thế này:  'ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa trên trời, đã ban cho ta mọi vương quốc dưới đất. Chính Người trao cho ta trách nhiệm tái thiết cho Người một ngôi Nhà ở Giê-ru-sa-lem tại Giu-đa. Vậy ai trong các ngươi thuộc dân của Người, thì xin ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của họ ở với họ, và họ hãy tiến lên ...!"

 

(2) Bài đọc 2: Ep 2,4-10: được cứu độ nhờ ân sủng.

 

     (4) Nhưng Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, (5) nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Ki-tô. Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ! (6) Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Ki-tô Giê-su trên cõi trời.

    (7) Như thế, Người tỏ lòng nhân hậu của Người đối với chúng ta trong Đức Ki-tô Giê-su, để biểu lộ cho các thế hệ mai sau được thấy ân sủng dồi dào phong phú của Người. (8) Quả vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa; (9) cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện. (10) Thật thế, chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Ki-tô Giê-su, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta.

 

(3) Bài Tin Mừng: Ga 3,14-21: ai tin vào Con Một thì được cứu độ.

 

        (14) Khi ấy, Đức Giê-su nói với ông Ni-cô-đê-mô rằng: Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy,  (15) để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.

 

     (16) Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. (17) Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. (18) Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa. (19) Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta ưa chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. (20) Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách.  (21) Những kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa."

 

2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?    

 

(1) Trong bài đọc 1 (2 Sb 36,14-16.19-23), chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa là Đấng yêu thương và quảng đại đối với dân Ít-ra-en như thế nào: dù dân và những người lãnh đạo của dân có phản bội, bất trung, bất nghĩa thế nào đi nữa thì Chúa vẫn một mực yêu thương và thứ tha cho họ. Để lôi kéo dân trở về, Thiên Chúa sai các sứ giả đến dạy dỗ hướng dẫn dân. Thiên Chúa còn dùng cả nhà vua Ba Tư để thực hiện chương trình cứu độ của Người.

 

(2) Trong bài đọc 2 (Ep 2,4-10) Thánh Phao-lô Tông đồ xác định một điều hết sức quan trọng và cốt yếu trong giáo lý và thần học Ki-tô giáo: con người được cứu là nhờ lòng thương vô bờ bến của Thiên Chúa tức nhờ ơn sủng mà Thiên Chúa rộng lượng ban không cho con người, chứ không phải do công lao của con người. Nhưng nói thế không có nghĩa là con người không “có phần” trong đó. Phần của con người và là phần không thể thiếu (sine qua non) là lòng tin, là sự đáp trả của con người trước tấm lòng yêu thương và ân ban của Thiên Chúa.

 

(3) Trong bài Tin Mừng (Ga 3,14-21) Thánh Gio-an kể lại những lời khẳng định của Chúa Giê-su với ông Ni-cô-đê-mô, một bậc thày trong dân Ít-ra-en thời Chúa Giê-su, về điểm cốt lõi của Ki-tô giáo: Vì yêu thương loài người, Thiên Chúa đã ban Con Một Người cho thế gian để những ai tin vào Người thì được cứu!

        Cũng là ân ban và lòng tin. Ở nơi nào hai yếu tố này gặp nhau thì ở nơi ấy phát sinh ơn cứu độ.

 

2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sđiệp gì cho chúng ta?    

      Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người / mỗi cộng đoàn chúng ta hãy:

      đón nhận Ơn Sủng của Thiên Chúa

      & đáp lại Tình Thương của Người

          bằng TIN vào Con Một của Người là Chúa Giê-su Ki-tô!

 

III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY

 

Sống Lời Chúa hôm nay là:

(a) Mở rộng tâm hồn và cuộc sống để Thiên Chúa đổ tràn Ơn Sủng của Người vào đó. Tâm hồn và cuộc sống của chúng ta càng rộng mở với Thiên Chúa thì chúng ta càng hứng được nhiều ơn sủng của Người.

đồng thời là:

(b) Đáp lại Tình Yêu của Thiên Chúa bằng một lòng tin sắt son vào Con Một Thiên Chúa là Chúa Giê-su Ki-tô.

 

Mỗi người / mỗi cộng đoàn hãy tự kiểm điểm xem:

* Tâm hồn và cuộc sống của mình / của cộng đoàn mình có mở đủ rộng cho Ơn Chúa đổ vào không? Trong tâm hồn và cuộc sống của mình / của cộng đoàn mình có gì đang ngăn cản không cho Ơn Chúa đổ vào? Cá nhân và cộng đoàn phải làm gì để khai thông cho Ơn Chúa đổ vào tâm hồn và cuộc sống của mình?

 

* Cá nhân và cộng đoàn có thật sự tin vào Chúa Giê-su Ki-tô Con Một Thiên Chúa không? Cá nhân và cộng đoàn phải thay đổi gì trong cách suy nghĩ và hành động để tăng cường lòng tin vào Con Một Thiên Chúa là Chúa Giê-su Ki-tô?  

 

IV. CẦU NGUYỆN  

 

"Chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ”

Lạy Thiên Chúa là Cha, chúng con cảm tạ, ngợi khen, chúc tụng Cha vì do Tình Yêu bao la như sông như biển mà Cha đã ban Ơn Sủng cho chúng con.

Chúng con xin Cha cho chúng con biết trân trọng Ân Ban của Cha mà luôn biết sống với Cha bằng tâm tình biết ơn và khiêm tốn.

 

"Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án"

Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là Con Một Thiên Chúa và là Chúa chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa vì Chúa đã cứu chúng con bằng cuộc sống cũng như bằng cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Chúa.

Chúng con xin Chúa ban cho chúng con một lòng tin sắt son để chúng con luôn gắn bó mật thiết với Chúa và không bao giờ phụ lòng và sự hy sinh vô cùng cao cả của Chúa.

 

“Ánh sáng đã đến thế gian”

Lạy Chúa Thánh Thần là ánh sáng thần linh, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa vì Chúa đã soi sáng cho chúng con nhận ra và tin vào Chúa Giê-su Ki-tô là Con Một của Thiên Chúa và là Chúa chúng con.

Chúng con xin Chúa Thánh Thần giúp chúng con củng cố lòng tin và mở rộng hơn nữa tâm hồn và cuộc sống của chúng con để Ơn Chúa đổ xuống cho chúng con nhiều hơn nữa. Amen.

 

 

       Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.