|
CHÚA
NHẬT IV MÙA CHAY

BÀI ĐỌC I: 2 Chron 36:14-16, 19-23)
“Cơn thịnh nộ và lòng từ bi của Chúa được tỏ bày qua sự lưu đày và giải phóng
của dân tộc”
Bài trích sách Ký sự quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, tất cả những đầu mục tư tế và
dân chúng đều bất trung, bắt chước những sự ghê tởm của các dân ngoại. Họ làm dơ
bẩn đền thờ Chúa đã được Chúa thánh hóa tại Giêrusalem. Chúa là Thiên Chúa tổ
phụ họ, đã luôn luôn đêm ngày sai sứ giả đến với họ, vì Người thương xót dân
Người và đền thờ của Người. Nhưng họ nhạo báng các sứ giả Chúa, coi thường lời
Chúa, và nhạo báng các tiên tri, đến nỗi, sau hết, cơn thịnh nộ của Chúa đã đổ
lên dân Người, và vô phương cứu chữa. Quân thù đã đốt đền thờ Chúa, phá hủy
tường thành Giêrusalem, phóng hỏa tất cả các lâu đài và thiêu hủy mọi đồ vật quí
giá. Nếu có ai thoát khỏi lưỡi gươm, thì bị dẫn về Babylon để làm nô lệ nhà vua
và con cái vua, cho đến thời vua nước Ba Tư thống trị, như thế ứng nghiệm lời
Chúa dùng miệng tiên tri Giêrêmia mà phán, cho đến khi đất nước được mừng ngày
Sabbat; vì trong tất cả những ngày xáo trộn, họ sẽ không giữ được ngày Sabbat
trọn bảy mươi năm trường. Năm thứ nhất triều đại Cyrô, vua xứ Ba Tư, để lời Chúa
dùng miệng tiên tri Giêrêmia phán trước được thực hiện, thì Chúa thúc đẩy tâm
hồn Hoàng đế Cyrô, vua xứ Ba Tư, nhà vua ra lệnh truyền rao khắp đất nước, và
ban chiếu chỉ rằng: “Đây Hoàng đế Cyrô, vua xứ Ba Tư tuyên bố: Chúa là Thiên
Chúa trời đất đã ban cho trẫm mọi nước trên mặt đất, và chính Người đã ra lệnh
cho trẫm xây cất cho Người một đền thờ ở Gêrusalem trong xứ Giuđa. Ai trong các
người thuộc về dân Chúa? Thiên Chúa sẽ ở với nó, và nó hãy tiến lên.
Lời của Chúa.
Đáp Ca: (Xin mời Cộng đoàn thưa)
Lưỡi tôi
dính vào cuống họng, nếu tôi không nhớ đến ngươi
1.
Trên bờ sông Babylon, chúng tôi ngồi khóc nức nở, khi tưởng nhớ đến núi
Sion. Trên những cây dương liễu miền đó, chúng tôi treo các cây lục huyền cầm
của chúng tôi.
2.
Vì nơi nầy, quân canh ngục đòi chúng tôi vui vẻ hát lên. Họ giục chúng
tôi rằng: “Hãy vui mừng: Hãy hát cho chúng ta nghe điệu ca Sion”.
3.
Lẽ nào chúng tôi ca hát ngợi khen Thiên Chúa, trên đất khách quê người?
Hỡi Giêrusalem, nếu tôi lại quên ngươi, thì cánh tay tôi sẽ bị khô đét.
4.
Lưỡi tôi sính vào cuống họng, nếu tôi không nhớ đến ngươi. Nếu tôi không
đặt Giêrusalem, trên tất cả mọi niềm vui thỏa.
BÀI ĐỌC II: Eph 2:4-10
“Anh em chết bởi tội và được cứu rỗi bởi ân sủng”
Bài trích thơ Thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Êphêsô.
Anh em thân mến, Thiên Chúa là Đấng giàu lòng từ bi,
vì lòng yêu thương cao cả mà Người đã yêu thương chúng ta, đến nỗi khi tội lỗi
làm cho chúng ta phải chết, thì Người làm cho chúng ta sống lại trong Đức Kitô,
nhờ ơn Ngài mà chúng ta được cứu rỗi; Người đã cho chúng ta được cùng chung sống
lại và đồng ngự trị trên nước trời trong Đức Giêsu Kitô, để tỏ cho hậu thế được
thấy sự phong phú dồi dào của ơn Chúa mà lòng nhân lành Chúa đã ban cho chúng ta
trong Đức Giêsu Kitô. Vì chưng, bởi ơn Chúa, anh em được cứu rỗi nhờ đức tin.
Điều đó không phải do anh em, vì đó là ân huệ của Chúa; cũng không phải do việc
làm, để không ai được tự phụ. Vì chúng ta là thụ tạo của Người, đã được tạo
thành trong Đức Giêsu Kitô, để làm các việc lành mà Chúa đã dự liệu, hầu chúng
ta đem ra thực hành.
Lời của Chúa.
CÂU XƯỚNG TRƯỚC PHÚC ÂM: (Xin mời Cộng đoàn đứng)
Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi ban Con Một mình, để
tất cả những ai tin Con Ngài, sẽ được sống đời đời.
PHÚC ÂM: Joan 3:14-21
“Thiên Chúa đã sai Con Ngài đến để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ”
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi
ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: “Như Môisen đã treo con rắn lên ở sa mạc
thế nào, thì Con Người cũng sẽ phải treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở
Người, sẽ không bị hủy diệt, nhưng được sống đời đời. Vì Thiên Chúa đã yêu thế
gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải
hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Ngài giáng trần
để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ. Ai tin
Người Con ấy thì không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi, vì
không tin vào danh Con Một Thiên Chúa; và đây án phạt là sự sáng đã đến thế gian
và người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sáng, vì hành động của họ xấu xa. Thật vậy,
ai hành động xấu xa thì ghét sự sáng và không đến cùng sự sáng, sợ những việc
làm của mình bị khiển trách, nhưng ai hành động trong sự thật thì đến cùng sự
sáng, để hành động của họ được sáng tỏ là họ đã làm trong Thiên Chúa”.
Phúc Âm của Chúa.
SUY NIỆM
Dù con
người yêu tối tăm hơn ánh sáng,
Nhưng
tối tăm vẫn không át được ánh sáng
Vấn đề liên hệ Phúc Âm
giữa ba Chúa Nhật 3, 4 và 5 của Chu Kỳ Phụng Vụ A, B và C
Như tuần trước đã nhận định, “chúng ta nên lưu ý là, chu kỳ Phụng Vụ Năm B bao
giờ cũng theo Phúc Âm Thánh Ký Marcô. Tuy nhiên, có lẽ vì Phúc Âm Thánh Ký Marcô
hơi ngắn, do đó, trong chu kỳ phụng vụ Năm B này, Giáo Hội đã phải sử dụng đến
một số bài Phúc Âm của Thánh Gioan xen kẽ, như ở Mùa Vọng có Chúa Nhật Thứ Ba, ở
Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh có Chúa Nhật Thứ 2 (cho cả chu kỳ năm A và C), ở
Mùa Chay sáu tuần có Chúa Nhật Thứ Ba, Tư và Năm, ở Mùa Phục Sinh Phúc Âm Thánh
Gioan được sử dụng hầu hết cho cả ba chu kỳ, chứ không riêng gì chu kỳ B, trừ Lễ
Chúa Giêsu Thăng Thiên, Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh có Chúa Nhật 17-21, và Lễ
Chúa Kitô Vua (cho cả 3 chu kỳ)”. Tuy nhiên, trong Mùa Chay, nếu để ý kỹ, chúng
ta còn thấy Phúc Âm Thánh Gioan cũng được Giáo Hội sử dụng cho cả chu kỳ Năm A (Chúa
Nhật 3, 4 và 5) và C (Chúa Nhật 5) nữa.
Ở
chu kỳ Năm A, các bài Phúc Âm của Thánh Gioan cho ba Chúa Nhật 3, 4 và 5 thứ tự
như sau: Chúa Giêsu với chị phụ nữ Samaritanô bên bờ giếng Giacóp, Chúa Giêsu
phục quang kẻ mù từ lúc mới sinh, và Chúa Giêsu hồi sinh Lazarô. Ở chu kỳ Năm B,
Phúc Âm Thánh Gioan cho ba Chúa Nhật 3, 4 và 5 thứ tự như sau: Chúa Giêsu thanh
tẩy đền thờ Giêrusalem, Chúa Giêsu nói chuyện với Nicôđêmô và Chúa Giêsu cho các
môn đệ biết mầu nhiệm tử giá của Người. Ở chu kỳ Năm C, Phúc Âm Thánh Gioan cho
Chúa Nhật thứ 5 về thân phận của người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại
tình, bài phúc âm của Thánh Gioan này được Giáo Hội chọn đặt sau bài Phúc Âm
Thánh Luca cho Chúa Nhật thứ 4 về dụ ngôn người con hoang đàng, cũng như sau bài
Phúc Ân Thánh Luca cho Chúa Nhật thứ 3 về nhu cầu cần phải thống hối ở chỗ sinh
hoa kết trái như cây vả được chăm bón, bằng không sẽ chịu hậu quả của nó như
những nạn nhân bất hạnh ở vụ tháp Siloe.
So
sánh những bài Phúc Âm được Giáo Hội cố ý sắp xếp cho 3 Chúa Nhật 3, 4 và 5 Mùa
Chay cho cả ba chu kỳ A, B và C trước Chúa Nhật Thương Khó và Tuần Thánh này,
chúng ta có thể thấy được ngầm ý của Giáo Hội muốn bày tỏ cho con cái mình thấy
toàn diện ý nghĩa Mùa Chay nói riêng và Mầu Nhiệm Cứu Độ nói chung. Ở chu kỳ Năm
A, các bài Phúc Âm theo Thánh Ký Gioan cho chúng ta thấy Mạc Khải Thần Linh cũng
là Mầu Nhiệm Chúa Kitô, ở chỗ, Chúa Giêsu tỏ mình là Đường qua việc Người ban
nước hằng sống Thần Linh cho chung nhân loại (được tiêu biểu nơi người phụ nữ
ngoại lai Samaritanô) để họ có thể nhận biết Người, là Sự Thật qua phép lạ tiêu
biểu Người phục quang cho một người Do Thái bị mù từ lúc mới sinh, và là Sự Sống
qua phép lạ tiêu biểu Người hồi sinh bạn thân Lazarô của Người.
Ở
chu kỳ Năm B, các bài Phúc Âm theo Thánh Gioan cho chúng ta thấy một yếu tố vô
cùng quan trọng để đáp lại Mạc Khải Thần Linh, tức để chấp nhận Mầu Nhiệm Chúa
Kitô, những gì các bài Phúc Âm của chu kỳ Năm A cho thấy, đó là yếu tố Đức Tin
Tuân Phục, yếu tố để được Cứu Độ. Đó là lý do chúng ta thấy cả ba bài Phúc Âm
theo Thánh Gioan cho Chúa Nhật 3, 4 và 5 của chu kỳ Năm B đều đã nhấn mạnh đến
Đức Tin Cứu Độ: Ở bài phúc âm Chúa Nhật 3, dân Do Thái là thành phần thích xem
dấu lạ muốn được cứu độ cần phải tin vào cuộc phục sinh của đền thờ thân xác
Chúa Kitô sẽ bị họ ra tay triệt hạ, tàn phá; ở bài phúc âm Chúa Nhật 4, thành
phần lãnh đạo dân Do Thái (được tiêu biểu nơi Nicôđêmô là thành viên của Hội
Đồng Do Thái) vốn chuộng tối tăm hơn ánh sáng cần phải tin vào Đấng Thiên Sai
Con Thiên Chúa để được sự sống đời đời; và ở bài phúc âm Chúa Nhật thứ 5, thành
phần môn đệ của Chúa Giêsu, thành phần chứng nhân của Người nơi các dân nước (là
thành phần được tiêu biểu nơi những người Hy Lạp đã xin các vị cho được gặp Chúa
Giêsu bấy giờ) cần phải chấp nhận Đấng được Thiên Chúa tôn vinh trên thập giá.
Ở
chu kỳ Năm C, chúng ta thấy những cuộc hội ngộ giữa Mạc Khải Thần Linh (chiều
hướng của các bài Phúc Âm theo Thánh Gioan cho chu kỳ Năm A) và Đức Tin Tuân
Phục (chiều hướng của các bài Phúc Âm theo Thánh Gioan cho chu kỳ Năm B) gặp
nhau. Thật vậy, bài Phúc Âm Thánh Luca cho Chúa Nhật thứ 3 Mùa Chay Năm C cho
thấy, nếu dân Do Thái thích xem dấu lạ (theo chiều hướng của Phúc Âm năm B) muốn
tin vào Chúa Kitô là Đấng Phục Sinh sẽ làm phép rửa Thánh Linh (theo chiều hướng
của Phúc Âm năm A), thì họ cần phải hoán cải nội tâm bằng những việc làm cụ thể
như cây vả sinh hoa kết trái (như trong bài Phúc Âm năm C). Bài Phúc Âm Thánh
Luca cho Chúa Nhật thứ 4 Mùa Chay Năm C cho thấy, nếu thành phần lãnh đạo dân Do
Thái chuộng tối tăm hơn ánh sáng (theo chiều hướng của bài Phúc Âm năm B) muốn
chấp nhận Chúa Kitô là Ánh Sáng thế gian (theo chiều hướng của bài Phúc Âm năm
A), họ phải là người con cả biết cùng cha vui mừng khi thấy em mình là thành
phần hoang đường tội lỗi quay trở về nhà cha (như trong bài Phúc Âm năm C). Bài
Phúc Âm Thánh Gioan cho Chúa Nhật thứ 5 Mùa Chay Năm C cho thấy, nếu thành phần
môn đệ Chúa Kitô biết chấp nhận Đấng được tôn vinh trên thập giá (theo chiều
hướng của bài Phúc Âm năm B), họ sẽ được Đấng Phục Sinh tái sinh về phần hồn,
một việc tái sinh được tiêu biểu qua việc Người đã hồi sinh như Lazarô (theo
chiều hướng của bài Phúc Âm năm A), nhờ đó, các vị mới có khả năng tái sinh
trong Thần Linh, tức có quyền năng tha tội do Chúa Kitô ban cho, một quyền năng
Người đã thực hiện nơi trường hợp người phụ nữ bị bắt quiả tang đang phạm tội
ngoại tình đưa đến cho Người xét xử (như trong bài Phúc Âm năm C).
Vấn đề cứu độ của bài
Phúc Âm Chúa Nhật Thứ Tư Mùa Chay Năm B
Riêng bài Phúc Âm theo Thánh Gioan cho chu kỳ Năm B của Chúa Nhật thứ 4 Mùa Chay,
Giáo Hội muốn cho con cái mình thấy, trước hết là dự án cứu độ của Thiên Chúa,
sau nữa là công cuộc cứu độ của Thiên Chúa, và sau hết là điều kiện duy nhất để
được cứu độ. Trước hết, về dự án cứu độ của Thiên Chúa, bài Phúc Âm đã trình
thuật chính lời Chúa Kitô mạc khải về mầu nhiệm Thiên Chúa yêu thương con người
và muốn cho con người được hiệp thông với Ngài bằng sự sống trường sinh: “Thiên
Chúa đã yêu thương thế gian… để họ được sự sống trường sinh”. Thế nhưng, để thực
hiện dự án cứu độ của mình, dự án muốn con người được dựng nên theo hình ảnh và
tương tự như mình (x Gen 1:26) có thể hiệp thông với Ngài, có thể được hoan
hưởng Sự Sống Thần Linh vô cùng viên mãn và thiện hảo của Ngài, bài Phúc Âm cho
biết thêm về lời mạc khải hết sức quan trọng của Chúa Kitô, đó là “Thiên Chúa đã
ban Người Con duy nhất của Ngài” cho thế gian. Tuy nhiên, công cuộc cứu chuộc
không phải chỉ có thế, chỉ ở chỗ “Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta”
(Jn 1:14), mà còn ở chỗ, cũng theo lời mạc khải củaChúa Giêsu tỏ cho Nicôđêmô,
“như Moisen treo con rắn lên trong sa mạc thế nào, Con Người cũng sẽ bị treo lên
như thế”. Đúng thế, công cuộc cứu độ loài người của Thiên Chúa đây chẳng những ở
chỗ Lời Nhập Thể mà còn ở chỗ Lời Vượt Qua nữa, bởi vì, Thiên Chúa “đã không
dung tha Con một của Ngài song đã phó nộp Người vì tất cả chúng ta”, Thánh
Phaolô Tông Đồ Dân Ngoại đã cảm nhận như thế (x Rm 8:32). Đó là lý do, cũng
trong cùng bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, Chúa Giêsu còn mạc khải cho biết dứt
khoát dự án cứu độ của Thiên Chúa như sau: “Thiên Chúa không sai Con đến thế
gian để luận phạt thế gian, song để thế gian nhờ Người mà được cứu độ”.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy con người bị luận phạt, một tình trạng không thể nào
không xẩy ra vì tự do nơi thành phần được dựng nên với hồn thiêng bất tử theo
hình ảnh Thiên Chúa là Thần Linh và tương tự như Ngài với ý thức tự do yêu
thương. Đó là vấn đề con người ý thức có nhận biết nhận biết Lời Nhập Thể (x Jn
1:10-11), có tự do đáp ứng ở chỗ chấp nhận Mạc Khải Thần Linh. Nếu được Thiên
Chúa mạc khải cho biết về (bản thân và ý định của) Ngài nơi Lời Nhập Thể, Đấng
là “ánh sáng thật chiếu soi mọi người đã đến trong thế gian” (Jn 1:9), con người
“lại chuộng tối tăm hơn ánh sáng”, như lời Chúa Giêsu cho biết trong bài Phúc Âm,
thì tự họ luận phạt bản thân họ: “Ai tin vào Người thì không bị luận phạt, còn
ai không tin đã bị luận phạt rồi, bởi không tin vào danh Con một Thiên Chúa”.
Vậy, theo Chúa Giêsu cho biết thì thành phần không tin vào Người sẽ tự luận phạt
bản thân họ như thế nào, nếu không phải, họ tiếp tục sống trong tăm tối, trong
gian dối, trong lo âu sợ hãi trước sự thật: “Ai hành ác thì sợ ánh sáng; họ
không dám đến gần ánh sáng vì sợ các việc họ làm bị bại lộ”. Ánh sáng tự bản
chất bao giờ cũng tốt, cũng cần cho tất cả mọi vật, nhất là sinh vật, để sinh
động và phát triển, thế nhưng, nó lại trở thành cực hình cho kẻ bị đau mắt thế
nào, thành phần “chuộng tối tăm hơn ánh sáng” cũng thế. Trong trường hợp của họ,
ánh sáng đã trở thành hình phạt của họ và cho họ, chỉ vì họ không chịu chấp nhận
ánh sáng, không dám phơi mình ra trước ánh sáng.
Như thế, căn cứ vào chiều hướng của bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta có thể giải
quyết vấn đề tiền định có vẻ và hầu như nan giải như thế này. Tiền định đây đúng
thực có nghĩa là định trước; nhưng vấn đề định trước đây không phải là định cho
người này được lên thiên đàng người kia phải xuống hỏa ngục, và bởi đó, người bị
tiền định xuống hỏa ngục dù có làm lành mấy cũng không thể lên thiên đàng, và
người được tiền định lên thiên đàng thì dù có tội lỗi mấy cũng không phải xuống
hỏa ngục. Nếu vậy thì Thiên Chúa đã không xuống thế làm người cứu chuộc tất cả
mọi người mà làm gì: “Thiên Chúa không sai Con đến thế gian để luận phạt thế
gian, song để thế gian nhờ Người mà được cứu độ”. Vấn đề tiền định ở đây liên
quan đến dự án cứu độ của Thiên Chúa thì đúng hơn, dự án đó, như bài Phúc Âm mạc
khải cho biết, là Thiên Chúa yêu thương con người, muốn con người được hiệp
thông sự sống thần linh của Ngài và với Ngài, nhưng muốn được như vậy, con người
cần phải đáp ứng tình yêu của Ngài, bằng việc tri ân đón nhận những gì Ngài ban
là Chúa Giêsu Kitô, Lời Nhập Thể. Đó là lý do Vị Tông Đồ Dân Ngoại đã chí lý xác
tín là: “Những ai Thiên Chúa biết trước thì Ngài cũng tiền định cho họ chia sẻ
hình ảnh Con Ngài” (Rm 8:29), nghĩa là cũng phải hy sinh phục vụ và chịu khổ nạn
mới được cứu độ. Tóm lại, đối với Thiên Chúa, tiền định là yêu thương, là ban
phát, là cứu độ, còn đối với nhân loại, là đáp ứng, là tiếp nhận, là tin tưởng;
nói chung, tiền định là tất cả những gì Thiên Chúa muốn ấn định để con người có
thể nhờ đó mà được cứu độ; bởi thế, nếu con người với đầy đủ ý thức và tự do
không chịu chấp nhận những gì được ban cho họ một cách nhưng không, họ sẽ không
thể trách cứ ai được nữa, ngoài việc trách chính bản thân mình, bằng thái độ
“khóc lóc nghiến răng” trong cõi đời đời (Mt 8:12, 13:42, 22:13, 24:51, 25:30):
“Ai tin thì khỏi bị luận phạt, còn ai không tin thì đã bị luận phạt rồi vậy”.
Vấn đề tiền định liên
quan đến ơn cứu độ
Thế nhưng, cho dù Thiên Chúa vô cùng toàn hảo không thể nào lại tiền định cho
một ai xuống hỏa ngục đi nữa, Ngài vẫn biết trước ai sẽ xuống hỏa ngục, vậy thì
tại sao Ngài còn dựng nên họ mà làm gì, để họ phải hư đi đời đời vô cùng khốn
nạn như vậy, hóa ra Ngài không độc ác lắm sao?
Trước hết, không thể nào phủ nhận được vấn đề Thiên Chúa biết trước những ai
trong loài người được Ngài dựng nên sẽ bị đời đời hư đi. Phải chăng đó là chén
đắng Vị Thiên Chúa Làm Người đã cảm thấy khó uống trong đêm Vườn Cây Dầu trước
giờ tử nạn của Ngài? Bởi vì, bấy giờ, trong thân phận làm người, Ngài cảm thấy
“buồn sầu đến nỗi chết được” (Mt 26:38), đến toát mồ hôi máu (x Lk 22:44) nơi
thân xác của Ngài, một trạng thái đau thương trong tâm hồn đã lên đến cực độ!
Một đàng Ngài thấy rằng Ngài không thể nào không ra tay cứu độ con người, dù
bằng một giá rất cao, mất hết phẩm giá của một Vị Thiên Chúa Tối Cao của Ngài,
mất cả mạng sống loài người của Ngài, là tất cả những gì cao quí nhất nơi một
Ngôi Vị mang hai bản tính thần nhân. Thế nhưng, công ơn cứu độ hết sức đắt giá
và nhưng không vô giá của Ngài ấy lại trở thành vô ích cho một số người, thậm
chí còn trở nên án phạt cho thành phần đời đời hư đi.
Tuy nhiên, vấn đề ở đây liên quan đến dự án tạo dựng và công cuộc tạo dựng của
Thiên Chúa. Thiên Chúa dựng nên con người để làm gì và tại sao Thiên Chúa dựng
nên họ theo hình ảnh cùng tương tự như Ngài? Nếu không phải, về dự án tạo dựng,
Thiên Chúa muốn con người nhận biết Ngài để được sống Sự Sống Thần Linh của Ngài
và với Ngài. Và về công cuộc tạo dựng, Thiên Chúa đã dựng nên con người có tâm
linh ý thức và tự do để nhờ đó họ có khả năng nhận biết và yêu mến Ngài. Đó là
lý do Thiên Chúa không thể, đúng hơn không muốn, dựng nên loài người giống như
đất đá, cỏ cây hay con vật vô tri thức, chẳng biết Đấng Hóa Công là gì. Mà một
khi đã dựng nên con người có ý thức và tự do, Ngài cũng không muốn, đúng hơn
không thể, ép buộc họ phải nhận biết Ngài và yêu mến Ngài. Tất nhiên, Ngài thực
sự muốn tất cả mọi và từng con người Ngài tạo dựng nên nhận biết và yêu mến Ngài,
không phải để Ngài được thêm vinh quang vốn đã toàn mãn nơi bản thân của Ngài,
nơi nội tâm của Ngài, mà là để họ được hiệp thông và hoan hưởng sự sống thần
linh của Ngài và với Ngài. Thế nhưng, tự mình, về bản tính tự nhiên, dù có khả
năng nhận biết và yêu mến Thiên Chúa, nhưng nếu không được Thiên Chúa tỏ mình ra
cho nơi Lời Nhập Thể và thông mình ra cho qua Thánh Thần, con người cũng không
thể nào thực sự và hoàn toàn nhận biết và yêu mến Ngài đích thực và trọn hảo như
chính Ngài biết Ngài và yêu Ngài, để có thể hiệp thông với sự sống nội tâm Ba
Ngôi của Ngài. Phải chăng đó chính là lý do “Lời đã hóa thành nhập thể và ở giữa
chúng ta” (Jn 1:14)…, chẳng những “để tỏ Cha ra” (Jn 1:19) mà còn để “làm phép
rửa Thánh Thần” (Jn 1:33; Lk 3:16; Jn 20:22)?
Thực tế cho thấy, dù Lời có tỏ cho con người biết Cha và ban cho người Thần Linh
để yêu Cha đi nữa, con người cũng không thể nào biết Cha như Cha biết mình và
yêu Cha như Cha yêu mình, dù ở nơi Đệ Nhất Tạo Vật của Ngài là Trinh Nữ Maria
“đầy ơn phúc” (Lk 1:28) đi nữa, một mức độ “đầy ơn phúc” với tất cả khả năng hết
cỡ nhưng vẫn có giới hạn của tạo vật. Thật vậy, chỉ có ở nơi chính Lời Nhập Thể,
một Ngôi Vị có hai bản tính, Thiên Chúa mới thực sự và hoàn toàn biết mình và
yêu mình như Ngài là và như Ngài muốn. Nhân Tính của Chúa Kitô, như thế, đối với
Thiên Chúa, hoàn toàn là phản ảnh Thần Tính của Lời Nhập Thể (x Heb 1:2), và đối
với nhân loại, “là ánh sáng sự sống” (Jn 8:12), một “ánh sáng thật chiếu soi cho
hết mọi người đã đến trong thế gian” (Jn 1:9). Như thế, dù những kẻ không chấp
nhận Lời Nhập Thể, không nhận biết Chúa Kitô, thì “ánh sáng thế gian” (Jn 8:12)
này vẫn không vì thế mà bị lu mờ đi: “Ánh sáng đã chiếu trong tăm tối song tăm
tối đã không lấn át được ánh sáng” (Jn 1:5). Chính lúc con người “chuộng tối tăm
hơn ánh sáng” và sợ “không dám tới gần ánh sáng”, như trong bài Phúc Âm Chúa
Nhật thứ 4 Mùa Chay Năm B nói đến, cũng đủ chứng tỏ thực sự có một thứ ánh sáng
siêu việt, một thứ ánh sáng thần linh.
Đó
là lý do, dù con người khi còn sống nhất định phủ nhận thần linh, chối bỏ lương
tâm, triệt hạ chân lý, nhưng cuối cùng họ, ngay trong giờ chết, nhất là trong
cõi đời đời, cùng với thành phần tà thần là ma qủi, họ vẫn công nhận thực tại
Chân Thiện Mỹ tối thượng là Thiên Chúa, Đấng đã tỏ mình ra nơi Lời Nhập Thể, một
thực tại họ không thể phủ nhận nhưng tiếc thay không được hiệp thông và hoan
hưởng như thành phần kẻ lành. Dầu sao, nếu mục đích tạo dựng của Thiên Chúa là
tỏ mình ra để loài người nói riêng có thể nhận biết Ngài, thì quả thực Ngài đã
đạt được mục đích ấy của Ngài, dù nơi thành phần hư đi chăng nữa. Vì, qua Lời
Nhập Thể và Vượt Qua, Ánh Sáng Thần Linh đã, đang và sẽ thực sự và hoàn toàn
đánh tan bóng tối vô tri, bóng tối sự chết trên thế gian, nhất là khi Ngài “canh
tân tất cả mọi sự” (Rev 21:5), “để Thiên Chúa là tất cả trong mọi sự” (1Cor
15:28), ở chỗ, dù kẻ lành hay dữ, cuối cùng tất cả đều nhìn nhận “tất cả sự thật”
(Jn 16:13) bất biến này: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến bản Con Một của
Ngài… không phải để luận phạt thế gian song để thế gian nhờ Người mà được sự
sống trường sinh”. “Ánh sáng đã chiếu soi trong tăm tối song tăm tối không át
được ánh sáng” (Jn 1:5) là như thế. Bởi vì, ngay chính nơi Con Người Giêsu Kitô
“là phản ảnh vinh quang Cha” (Heb 1:3), Thiên Chúa đã thực sự và hoàn toàn được
nhận biết và yêu mến như Ngài mong muốn rồi vậy: “Đây là Con Ta yêu dấu, đẹp
lòng Ta mọi đàng” (Mt 3:17, 17:5). Và “Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha
thể hiện dưới đất cũng như trên trời” đã được trọn vẹn hiện thực nơi Lời Nhập
Thể và Vượt Qua.
Đaminh Maria Cao Tấn
Tĩnh, BVL
THIÊN CHÚA QUÁ ĐỖI YÊU
Trần Mỹ Duyệt
“Thiên Chúa quá yêu thế
gian đến nỗi ban Con Một Ngài”
(Gioan 3:16). Khi viết câu này, Thánh Gioan hiển nhiên nhận được ơn thần hứng,
nhưng chắc chắn còn cộng thêm kinh nghiệm của bản thân mình.
Thật vậy, trong bữa Tiệc Ly khi tựa đầu vào ngực Chúa, hẳn là Gioan đã nghe được
những tiếng đập của con tim Đấng Cứu Thế. Những tiếng đập vui mừng vì đã sắp đến
giờ Ngài giao hòa thế gian được với Chúa Cha qua cái chết của mình trên thập giá.
Nhờ đó, nhân loại được gọi là con Thiên Chúa. Được cứu độ và được thông phần sự
sống đời đời. Nhưng trong những nhịp đập vui mừng ấy, cũng có những tiếp nấc
nghẹn ngào mà sau đó trong vườn Cây Dầu ngài đã thốt lên với các ông: “Linh
hồn thầy buồn rầu đến nỗi chết” (Mt 14:34). Và với Chúa Cha thì ngài van xin:
“Lậy Cha xin hãy cất chén này xa con, nhưng đừng theo ý con, một xin vâng ý
Cha” (Mt 14:36). Có nghĩa là Chúa Giêsu được Chúa Cha sai xuống trần và được
ban cho nhân loại, để nhờ ngài, mà nhân loại được cứu rỗi. Gioan đã cảm nghiệm
được tất cả những nhịp đập ấy, và đã viết lên câu : “Vì Chúa Cha quá đỗi yêu
thương thế gian” (Gioan 3:16). Yêu đến nỗi không còn gì hơn để cho, để hiến
tặng. Yêu đến đã phải hy sinh chính Con một của mình.
CHÚA CHA YÊU THẾ GIAN
“Đố ai định nghĩa được
tình yêu”.
Thật vậy, nhìn vào những gì Chúa Cha làm cho thế gian, chúng ta cũng có thể nói
rằng cả đến Thiên Chúa cũng bị tình yêu quật ngã. Ngài đã bị tình yêu làm cho
choáng váng, mờ mịt lý trí. Yêu đến nỗi sẵn sàng thí mạng Con Một yêu dấu của
mình vì người mình yêu. Thử hỏi trong lịch sử nhân loại, và trong tình trường đã
có mấy ai vì yêu mà thí mạng con một của mình. Bất quá cũng chỉ có Hêrôđê vì mê
man sắc đẹp của nàng Hêrôđia mà hứa với con của nàng một nửa nước. Cũng may,
Hêrôđia và con của nàng vì căm thù Gioan Tẩy Giả mà không màng đến, nếu không
lịch sử nhân loại sẽ phải kể đến một cuộc tình điên dại của một ông vua si tình
đành mất nửa giang sơn. Nhưng Chúa Cha thì khác, ngài đã không chỉ cho một nửa
nước, mà còn cho cả Thiên Đàng – cho cả nước – cho những kẻ ngài yêu. Hơn thế
nữa, để chiếm được con tim nhân loại, ngài đã đành hy sinh chính Con Một yêu dấu
của mình. Ôi tình yêu Thiên Chúa! Trí khôn con người thật sự không hiểu thấu và
sự khôn khoan của con người không sao thấu hiểu mầu nhiệm cao cả của tình yêu
này. Mà vì tình Ngài siêu vượt, nên Ngài lại trở thành si tình hơn khi đem tình
yêu ấy đi vào với cuộc sống thường ngày khiến chúng ta không cần phải hiểu, mà
chỉ cần mở mắt ra là cảm nhận được tình ngài.
Trái đất và muôn loài trên trái đất. Bầu trời và vũ trụ bao la. Tất cả những cái
đó Thiên Chúa tạo dựng nên cũng vì con người và cho con người. Chưa có một loài
thụ tạo nào, trừ thiên thần, được ưu đãi như loài người chúng ta. Và từng ấy
thiết tưởng cũng đã đủ để chúng ta nhìn ra bàn tay quan phòng, và tình yêu của
Thiên Chúa.
Đi
sâu vào đời sống nội tâm, và qua mầu nhiệm Cứu Độ, con người còn bằng hoàng và
sửng sốt biết bao khi biết rằng Chúa Cha sẵn lòng ban nước trời cho chúng ta:
“Hỡi đoàn con nhỏ đừng lo, vì Cha Ta đã sẵn lòng ban nước trời cho các con”.
VÌ
CHÚA LÀ TÌNH YÊU
Tóm lại, nếu con người chỉ dừng lại ở những lý luận trìu tượng của lý trí, thì
không thể hiểu được tình yêu Thiên Chúa. Lý trí chưa giải thích được tình yêu
nhân loại, thì lý trí làm gì hiểu và tri thức, giải thích được tình yêu Thiên
Chúa.
Cũng như tình yêu của con người không dựa vào lý trí và suy luận của trí khôn,
tình yêu Thiên Chúa cũng không căn cứ vào những lý luận của con người. Khi Thiên
Chúa yêu thương con người, vì Ngài là tình yêu. Một tình yêu không điều kiện.
Không phải vì con người chúng ta đáng thương, đáng mến, và vì Thiên Chúa muốn
yêu thương chúng ta.
Định nghĩa Thiên Chúa là tình yêu đem chúng ta về với ân huệ được làm con Thiên
Chúa của mình.
THẾ GIAN KHÔNG YÊU CHÚA
Khi nói về tình yêu Thiên Chúa, về việc Ngài ban tặng Con Một Ngài cho thế gian,
Thánh Gioan cũng đã nói thêm rằng: “Sự sáng đã đến thế gian, mà người ta đã
yêu tối tăm hơn sự sáng” (Gioan 3:19). Sau hơn 2000 năm Chúa Giêsu giáng
trần, và với những phương tiện truyền thông tinh vi của con người thời đại, cho
đến hôm nay cũng chỉ được 1/3 nhân loại trên thế giới nhận được Tin Mừng. Con số
nhận được Tin Mừng này, tuy nhiên, vẫn chưa bảo đảm được rằng họ đã đáp lại tình
yêu Thiên Chúa, đã đi theo con đường Tin Mừng được rao giảng.
Thế giới ngày nay vẫn còn hận thù chồng chất. Vẫn còn chiến tranh đẫm máu. Vẫn
còn bạo loạn và khủng bố khắp nơi. Nhiều người vẫn sống trong sự thiếu thốn tình
thương. Một thế giới đang làm cho nhiều người hoảng sợ. Thế giới của ly dị, của
phá thai, của đồng tính và hôn nhân đồng tính. Thế giới của trào lưu duy thực
vật. Trong thế giới này, Lời Chúa, Tin Mừng của Chúa của Ngài vẫn còn là những
gì xa lạ và trở thành đáng ghét đối với nhiều người. Người ta còn giận hờn Thiên
Chúa. Còn cấm cách. Còn bắt bớ Thiên Chúa qua những hình thức cấm đoán tự do tôn
giáo.
Tóm lại, tình yêu Thiên Chúa vẫn chưa được đáp trả. Chưa được nhận biết. Con Một
Thiên Chúa, cái chết của Ngài vẫn chưa đủ sức hấp dẫn và lôi kéo. Thiên Chúa vẫn
là kẻ tình si. Tình yêu của Ngài vẫn chỉ là tình một chiều.
TA
PHẢI YÊU THIÊN CHÚA
Nhưng nếu Ngài đã ban Thánh Thần của Ngài cho chúng ta, và chúng ta kêu lên được
lời “Lậy Cha chúng con ở trên trời”, rồi thì chúng ta còn gì phải chờ đợi, phải
suy nghĩ hơn là đáp trả lại tình yêu của Ngài. Tình yêu của một người cha nhân
từ. Tình yêu của một Thiên Chúa toàn năng.
Thật vậy, có bao giờ chúng ta dành lấy ít phút mỗi ngày trong thinh lặng để suy
về tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta không? Có bao giờ chúng ta để lòng mình
rung động trước vẻ đẹp thiên nhiên của tạo hóa, của con người không? Có bao giờ
chúng ta nghĩ rằng mình được bình an, được mọi sự may lành là do lòng thương xót
Chúa ban không? Nhất là có bao giờ chúng ta cho việc được nhận biết Ngài, được
làm con cái ngài, và được sống trong tình yêu thương của ngài làm quí trọng, là
hạnh phúc không?
Vậy bổn phận chúng ta là phải “yêu mến” Thiên Chúa, phải “biết ơn” Ngài. Lậy
Chúa xin cho con biết Chúa để yêu mến Chúa. Yêu mến thay cho những kẻ không nhận
biết, không tôn thờ, và không yêu mến. Và xin cho đời sống của chúng con là một
đời yêu mến để đền đáp tình yêu mà Ngài đã ban tặng cho nhân loại và cho riêng
từng người chúng con.
ÂN SỦNG & LÒNG TIN
I. DẪN VÀO PHỤNG
VỤ
“Hãy hành động như tất cả tùy thuộc ở bạn
và hãy cầu nguyện như tất cả tùy thuộc vào Thiên Chúa.”
Sứ điệp của ba bài Thánh Kinh của Chúa Nhật thứ 4 Mùa Chay năm B này có thể tóm
tắt trong câu châm ngôn ấy. Cũng tương tự như một câu nói bất hủ của Thánh
Au-tinh đại ý như sau: “Thiên Chúa dựng
nên con thì không cần có con, nhưng Thiên Chúa không thể cứu con, nếu không có
con.”
Ơn sủng và lòng
tin là hai yếu tố thiết yếu tạo nên Ơn Cứu Độ. Không có ơn sủng, không có ơn cứu
độ. Nhưng không có lòng tin cũng không có ơn cứu độ. Ơn
sủng là của Thiên Chúa, Người ban không cho con người.
Lòng tin là sự đáp trả và đóng góp của con người. Thật là sự hợp tác kỳ diệu và
tuyệt vời giữa Đấng Tạo Hóa và tạo vật trong việc đem hạnh phúc thật đến cho tạo
vật là loài người chúng ta!
II. LẮNG NGHE &
TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe
Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh
(1) Bài đọc 1: 2 Sb
36,14-16.19-23: Cơn thịnh nộ và lòng thương xót của Chúa.
(14) Tất cả các thủ
lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất
nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà ĐỨC CHÚA
đã được thánh hiến ở Giê-ru-sa-lem ra ô uế. (15) ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa
của tổ tiên họ vẫn không ngừng sai sứ giả của Người đến cảnh cáo
họ, vì Người hằng thương xót dân và thánh điện của Người. (16) Nhưng
họ nhạo cười các sứ giả của Thiên Chúa, khinh thường lời Người và
chế giễu các ngôn sứ của Người, khiến ĐỨC CHÚA bừng bừng nổi giận
mà trừng phạt dân Người đến vô phương cứu chữa.
(19) Quân Can-đê đốt Nhà
Thiên Chúa, triệt hạ tường thành Giê-ru-sa-lem, phóng hỏa đốt các lâu
đài trong thành và phá hủy mọi đồ đạc quý giá. (20) Những ai còn sót
lại không bị gươm đâm, thì vua bắt đi đày ở Ba-by-lon; họ trở thành nô
lệ của vua và con cháu vua, cho đến thời vương quốc Ba Tư ngự trị. (21)
Thế là ứng nghiệm lời ĐỨC CHÚA phán, qua miệng ngôn sứ Giê-rê-mi-a
rằng: cho đến khi đất được hưởng bù những năm sa-bát và suốt thời
gian nó bị tàn phá, nó sẽ nghỉ, cho hết bảy mươi năm tròn.
(22) Năm thứ nhất thời vua
Ky-rô trị vì nước Ba Tư, để lời ĐỨC CHÚA phán qua miệng ngôn sứ
Giê-rê-mi-a được hoàn toàn ứng nghiệm, ĐỨC CHÚA tác động trên tâm trí
Ky-rô, vua Ba Tư. Vua thông báo cho toàn vương quốc và ra sắc chỉ như sau:
(23) "Ky-rô, vua Ba Tư, phán thế này: 'ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa trên trời,
đã ban cho ta mọi vương quốc dưới đất. Chính Người trao cho ta trách
nhiệm tái thiết cho Người một ngôi Nhà ở Giê-ru-sa-lem tại Giu-đa. Vậy
ai trong các ngươi thuộc dân của Người, thì xin ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa
của họ ở với họ, và họ hãy tiến lên ...!"
(2) Bài đọc 2: Ep 2,4-10:
được cứu độ nhờ ân sủng.
(4) Nhưng Thiên Chúa giàu
lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, (5) nên dầu chúng ta đã
chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức
Ki-tô. Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ! (6) Người đã cho chúng
ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Ki-tô Giê-su trên cõi
trời.
(7) Như thế, Người tỏ
lòng nhân hậu của Người đối với chúng ta trong Đức Ki-tô Giê-su, để
biểu lộ cho các thế hệ mai sau được thấy ân sủng dồi dào phong phú
của Người. (8) Quả vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em
được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của
Thiên Chúa; (9) cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể
hãnh diện. (10) Thật thế, chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng
ta được dựng nên trong Đức Ki-tô Giê-su, để sống mà thực hiện công
trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta.
(3) Bài Tin Mừng: Ga
3,14-21: ai tin vào Con Một thì được cứu độ.
(14) Khi ấy, Đức Giê-su
nói với ông Ni-cô-đê-mô rằng: Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc,
Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, (15) để ai tin vào Người thì
được sống muôn đời.
(16) Thiên Chúa yêu thế gian
đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng
được sống muôn đời. (17) Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian,
không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được
cứu độ. (18) Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin,
thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa. (19) Và đây
là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta ưa chuộng bóng tối hơn ánh
sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. (20) Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh
sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. (21)
Những kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc
của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa."
2.2 Trong ba bài
Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?
(1) Trong bài đọc 1 (2 Sb
36,14-16.19-23), chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa là Đấng yêu thương và
quảng đại đối với dân Ít-ra-en như thế nào: dù dân và những người lãnh đạo của
dân có phản bội, bất trung, bất nghĩa thế nào đi nữa thì Chúa vẫn một mực yêu
thương và thứ tha cho họ. Để lôi kéo dân trở về, Thiên Chúa sai các sứ giả đến
dạy dỗ hướng dẫn dân. Thiên Chúa còn dùng cả nhà vua Ba Tư để thực hiện chương
trình cứu độ của Người.
(2) Trong bài đọc 2 (Ep
2,4-10) Thánh Phao-lô Tông đồ xác định một điều hết sức quan trọng và cốt
yếu trong giáo lý và thần học Ki-tô giáo: con người được cứu là nhờ lòng thương
vô bờ bến của Thiên Chúa tức nhờ ơn sủng mà Thiên Chúa rộng lượng ban không cho
con người, chứ không phải do công lao của con người. Nhưng nói thế không có
nghĩa là con người không “có phần” trong đó. Phần của con người và là phần không
thể thiếu (sine qua non) là lòng tin, là sự đáp trả của con người trước tấm lòng
yêu thương và ân ban của Thiên Chúa.
(3) Trong
bài Tin Mừng (Ga 3,14-21)
Thánh Gio-an kể lại những lời khẳng định của Chúa Giê-su với ông Ni-cô-đê-mô,
một bậc thày trong dân Ít-ra-en thời Chúa Giê-su, về điểm cốt lõi của Ki-tô giáo:
Vì yêu thương loài người, Thiên Chúa đã ban Con Một Người cho thế gian để những
ai tin vào Người thì được cứu!
Cũng
là ân ban và lòng tin. Ở nơi nào hai yếu tố này gặp nhau thì ở nơi ấy phát sinh
ơn cứu độ.
2.3 Qua ba bài
Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ
điệp
gì cho chúng
ta?
Lời Chúa hôm nay mời gọi
mỗi người / mỗi cộng đoàn chúng ta hãy:
đón nhận Ơn Sủng của Thiên Chúa
& đáp lại Tình
Thương của Người
bằng TIN
vào Con Một của Người là Chúa Giê-su Ki-tô!
III.
SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
Sống Lời Chúa
hôm nay là:
(a) Mở rộng
tâm hồn và cuộc sống để Thiên Chúa đổ tràn Ơn Sủng của Người vào đó. Tâm hồn và
cuộc sống của chúng ta càng rộng mở với Thiên Chúa thì chúng ta càng hứng được
nhiều ơn sủng của Người.
đồng thời là:
(b) Đáp lại
Tình Yêu của Thiên Chúa bằng một lòng tin sắt son vào Con Một Thiên Chúa là Chúa
Giê-su Ki-tô.
Mỗi người /
mỗi cộng đoàn hãy tự kiểm điểm xem:
* Tâm hồn và
cuộc sống của mình / của cộng đoàn mình có
mở đủ rộng cho Ơn
Chúa đổ vào không? Trong tâm hồn và cuộc sống của mình / của cộng đoàn mình
có gì
đang ngăn cản
không cho Ơn Chúa đổ vào?
Cá nhân và cộng đoàn phải làm gì để khai
thông cho Ơn Chúa đổ vào tâm hồn và cuộc sống
của mình?
* Cá nhân và
cộng đoàn có thật sự tin
vào Chúa Giê-su Ki-tô
Con Một Thiên Chúa không? Cá nhân và cộng đoàn
phải thay đổi gì
trong cách suy nghĩ và hành động để tăng cường lòng tin vào Con Một Thiên Chúa
là Chúa Giê-su Ki-tô?
IV.
CẦU NGUYỆN
"Chính do ân
sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ”
Lạy Thiên Chúa là Cha, chúng con
cảm tạ, ngợi khen, chúc tụng Cha vì do Tình Yêu bao la như sông như biển mà Cha
đã ban Ơn Sủng cho chúng con.
Chúng con xin Cha cho chúng con
biết trân trọng Ân Ban của Cha mà luôn biết sống với Cha bằng tâm tình biết ơn
và khiêm tốn.
"Ai tin vào Con
của Người, thì không bị lên án"
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là Con Một
Thiên Chúa và là Chúa chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa
vì Chúa đã cứu chúng con bằng cuộc sống cũng như bằng cuộc Thương Khó và Phục
Sinh của Chúa.
Chúng con xin Chúa ban cho chúng
con một lòng tin sắt son để chúng con luôn gắn bó mật thiết với Chúa và không
bao giờ phụ lòng và sự hy sinh vô cùng cao cả của Chúa.
“Ánh sáng đã đến
thế gian”
Lạy Chúa Thánh Thần là ánh sáng
thần linh, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa vì Chúa đã soi sáng cho
chúng con nhận ra và tin vào Chúa Giê-su Ki-tô là Con Một của Thiên Chúa và là
Chúa chúng con.
Chúng con xin Chúa Thánh Thần
giúp chúng con củng cố lòng tin và mở rộng hơn nữa tâm hồn và cuộc sống của
chúng con để Ơn Chúa đổ xuống cho chúng con nhiều hơn nữa. Amen.
Giêrônimô
Nguyễn Văn Nội.
 |